Tóm tắt: Trong xu thế hội nhập, ngày càng nhiều
người Hàn thấy cần thiết học tiếng Việt và tiếp cận
ngôn ngữ và văn hoá Việt tại các cơ sở đào tạo, trung
tâm dạy tiếng Việt. Tuy nhiên trong quá trình người
Hàn học tiếng Việt như một ngoại ngữ, mắc lỗi là một
điều không thể tránh khỏi vì giữa hệ thống tiếng Việt và
tiếng Hàn có sự khác biệt nhiều hơn sự tương đồng.
Về từ vựng, những từ gốc Hán trong tiếng Việt và tiếng
Hàn có thể giúp người học một cách dễ dàng tiếp thu
và áp dụng nhưng đồng thời có thể mắc lỗi nội ngôn
như vượt tuyến theo suy luận về kiến thức từ Hàn gốc
Hán khi dịch những từ Việt gốc Hán. Bài viết trình bày
một số lỗi sai khi người Hàn dịch từ Việt gốc Hán sang
tiếng Hàn và đưa ra một số ý kiến để tránh những lỗi
sai dựa trên phân tích trong quá trình giảng dạy môn
dịch Việt-Hàn dành cho sinh viên Hàn Quốc Khoa Việt
Nam học, Trường Đại học Hà Nội.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số điểm cần lưu ý khi phiên dịch từ việt gốc Hán sang tiếng Hàn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
471
MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý
KHI PHIÊN DỊCH TỪ VIỆT GỐC HÁN SANG TIẾNG HÀN
Park Ji Hoon
Trường Đại học Hà Nội
Tóm t
t: Trong xu thế hội nhập, ngày càng nhiều
người Hàn thấy cần thiết học tiếng Việt và tiếp cận
ngôn ngữ và văn hoá Việt tại các cơ sở đào tạo, trung
tâm dạy tiếng Việt. Tuy nhiên trong quá trình người
Hàn học tiếng Việt như một ngoại ngữ, mắc lỗi là một
điều không thể tránh khỏi vì giữa hệ thống tiếng Việt và
tiếng Hàn có sự khác biệt nhiều hơn sự tương đồng.
Về từ vựng, những từ gốc Hán trong tiếng Việt và tiếng
Hàn có thể giúp người học một cách dễ dàng tiếp thu
và áp dụng nhưng đồng thời có thể mắc lỗi nội ngôn
như vượt tuyến theo suy luận về kiến thức từ Hàn gốc
Hán khi dịch những từ Việt gốc Hán. Bài viết trình bày
một số lỗi sai khi người Hàn dịch từ Việt gốc Hán sang
tiếng Hàn và đưa ra một số ý kiến để tránh những lỗi
sai dựa trên phân tích trong quá trình giảng dạy môn
dịch Việt-Hàn dành cho sinh viên Hàn Quốc Khoa Việt
Nam học, Trường Đại học Hà Nội.
1. Nhập đề
Trong xu thế hòa nhập, một trong những hoạt
động tích cực để kết nối thế giới, đóng vai trò rất
quan trọng trong quá trình truyền bá kiến thức và
văn hóa, giao lưu giữa các dân tộc là công tác
phiên dịch. Trên thực tế, cho đến nay giới chuyên
môn vẫn chưa đạt đến một sự nhất trí hoàn toàn về
khái niệm phiên dịch. Tuy nhiên, theo cách hiểu
được thừa nhận rộng rãi nhất thì phiên dịch là một
kỹ năng chuyển ý nghĩ của người nói bằng một
ngôn ngữ khác của người nghe trên cơ sở tương
đương (equivalance)1. Để chuyển nghĩa một cách
chính xác, người phiên dịch phải đủ trình độ hiểu
hai ngôn ngữ - nghĩa là phải có đủ kiến thức về
ngôn ngữ gốc (ngôn ngữ xuất phát: source
1
Lí thuyết về sự tương đương trong dịch thuật có thể
tham khảo các công trình của Catford (1965;27), Nida &
Taber (1964;159), Baker (1998;77). Trong đó, Nida lập
luận rằng có hai hình thức tương đương là tương đương
hình thức (formal equivalance) và tương đương chủ động
(dynamic equivalance).
language) và ngôn ngữ đích (ngôn ngữ mục tiêu:
target language) và hiểu rõ về những điểm khác
biệt của hai ngôn ngữ này. Mỗi ngôn ngữ có cấu
trúc và hệ thống riêng của nó nên người dịch phải
đứng ở góc độ của người nghe, tránh quan điểm
cưỡng chế, dịch từng từ (word by word) và tránh
đưa sự can thiệp của tri thức tiếng mẹ đẻ vào quá
trình dịch.
Hiện nay, những công trình nghiên cứu về dịch
tiếng Anh, Pháp, Trung, Nhật... sang tiếng Việt thì
tương đối nhiều nhưng về nghiên cứu phương
pháp dịch hai ngôn ngữ Việt-Hàn thì hầu như
chưa có. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi
không thể nêu ra hết các vấn đề nảy sinh trong quá
trình dịch Việt-Hàn, mà chỉ giới hạn phạm vi khảo
sát một nhóm các từ Việt gốc Hán mà sinh viên
học tiếng Hàn hay mắc lỗi khi dịch.
2. Đặc điểm của từ gốc Hán trong tiếng Việt
và tiếng Hàn
Trong kho từ vựng của tiếng Việt và tiếng Hàn,
hiện còn lưu giữ một khối lượng khá lớn từ gốc
Hán. Từ gốc Hán là hệ quả của sự ảnh hưởng tiếp
xúc tiếng Hán và chữ Hán. Vay mượn từ vựng là
hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ. Nó không
những bổ sung, làm giàu thêm vốn từ của ngôn
ngữ vay mượn mà còn giúp chúng ta hiểu thêm
những khái niệm trong nhiều lĩnh vực (văn hóa,
khoa học, kĩ thuật). Đặc điểm chung của những
từ Hán Việt và Hán Hàn là tồn tại khá nhiều dị
biệt về cách đọc, sắc thái ý nghĩa... bởi trong quá
trình tiếp xúc với ngôn ngữ Hán, từ gốc Hán trong
tiếng Việt và tiếng Hàn đều chịu sự chi phối nhất
định của hệ thống qui tắc ngôn ngữ của từng nước,
cho phù hợp ngôn ngữ vay mượn.
Tuy nhiên, có thể thấy, trong lớp từ gốc Hán
trong tiếng Việt và tiếng Hàn cũng có ít nhiều
tương đồng về hình thức cấu tạo, ngữ nghĩa và
thậm chí cách đọc na ná nhau như “chính trị
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
472
/cəŋ c ̒i/)”, “kinh tế (
/ki̯əŋ ce/)”,
“văn hóa (
/mun hu ̯a/)”... Nhưng cần
phải nói ngay rằng, những trường hợp này xuất
hiện rất ít. Chúng chủ yếu là những từ do người
Nhật sáng tạo vào thời cận đại và một số trường
hợp vay mượn từ những tư tưởng Trung Quốc cổ
đại. Trên bình diện ngữ âm, Hán Việt phản ánh
âm Hán Trung cổ - âm thời cuối đời Đường
(khoảng thế kỉ VIII-IX) và Hán Hàn phản ánh âm
Hán Trung cổ - hệ thống Thiết vận đời Tùy -
Đường (khoảng thế kỉ VI-VIII). Như vậy, cũng có
thể hiểu rằng cách đọc Hán Việt và Hán Hàn
tương đối một cách hệ thống. Song, nếu không tìm
hiểu cặn kẽ những sự phức tạp trong quá trình
hình thành cách đọc từ gốc Hán trong tiếng Việt
và tiếng Hàn thì không thể giải quyết được những
trường hợp ngoại lệ. Trên bình diện ý nghĩa, có
thể nói, các từ gốc Hán trong tiếng Việt và tiếng
Hàn đều đã trải qua một thời gian dài, đi theo
nhiều chặng đường khác nhau, ý nghĩa (sắc thái ý
nghĩa) của từ gốc Hán cũng diễn biến và hoạt
động theo ngữ nghĩa của ngôn ngữ vay mượn nên
bên cạnh những trường hợp tương đồng không thể
không có những trường hợp dị biệt.
3. Lỗi trong quá trình dịch từ gốc Hán
Lỗi là một hiện tượng tích cực trong quá trình
học ngoại ngữ, thể hiện quá trình tìm hiểu ngôn
ngữ đích và xây dựng hệ thống ngôn ngữ riêng
của người học ngoại ngữ.
Những lỗi người dịch từ Việt gốc Hán sang
tiếng tiếng Hàn thường mắc phải chủ yếu là do tri
thức về ngôn ngữ đích của người dịch còn hạn chế.
Do đó, người dịch mượn những tri thức đã có
trong tiếng mẹ đẻ hoặc mượn những tri thức đã
biết về ngôn ngữ đích để xử lí những trường hợp
họ không biết dịch sang ngôn ngữ như thế nào, vfa
khi bản thân họ cũng không rõ cách xử lí đó có
đúng hay không. Trong khi tập trung “chuyển ý
nghĩ”, họ quên đi mất sự khác biệt giữa hai ngôn
ngữ về ngữ nghĩa cũng như khả năng hoạt động
của từ. Vì thấy trong tiếng Hàn rất nhiều từ có
nguồn gốc từ tiếng Hán (hoặc chữ Hán) giống như
từ Việt gốc Hán nên người dịch hay lầm tưởng
những từ gốc Hán trong hai ngôn ngữ là “một”.
Trường hợp từ Hàn gốc Hán hoạt động “y hệt” từ
Việt gốc Hán (cả về ngữ nghĩa, ngữ dụng và về
cách đọc cũng na ná) không phải là không có,
nhưng người dịch luôn phải ý thức được rằng, quá
trình hình thành những từ gốc Hán trong hai ngôn
ngữ này là quá trình hết sức phức tạp.
3.1. Lỗi tự ngữ đích (Intralingual error)
Lỗi tự ngữ đích là loại lỗi xảy ra do sự can
thiệp (interference) các yếu tố của ngôn ngữ đích.
Theo đó, người học tiếng nước ngoài áp dụng
những qui tắc ngôn ngữ không chính xác và đôi
khi vượt tuyến (overgeneralization) theo suy luận
(inference) trên cơ sở những kiến thức ngôn ngữ
đích mà người học đã biết từ trước để dịch.
Lỗi vượt tuyến trong khi dịch những từ gốc
Hán, có thể xảy ra trong trường hợp đồng từ đồng
nghĩa mà đều được mượn từ cùng một từ (hoặc
cụm từ) với ý nghĩa giống nhau trong hai ngôn
ngữ: “giao thông” (<. /ki̯o tʻoŋ/), “lãnh
thổ” ( /i̯əŋ tʻo/), “ngôn ngữ” (
/ən ə/), “quảng cáo” ( /ku ̯aŋ
ko/), “tốc độ” (!"#$/sok to/), “xu thế” %
&'(/cʻu se/) v.v. là những từ trong trường hợp
một từ tiếng Việt tương đương một từ tiếng Hàn.
Tuy nhiên, cần phải nói ngay rằng, những
trường hợp này rất ít so với những trường hợp
khác. Về nguyên tắc, các từ gốc Hán khi du nhập
vào tiếng Việt và tiếng Hàn ít nhiều đều đã bị thay
đổi ý nghĩa, trật tự từ theo qui tắc mỗi ngôn ngữ.
Nhiều người dịch hay quên điều này nên khi gặp
một từ (hoặc cụm từ) gốc Hán mà mình chưa rõ
hoặc không biết thì ngay lập tức dịch từng chữ
một (có nghĩa là chỉ đọc từng yếu tố tạo từ) theo
kiến thức cách đọc chữ Hán của ngôn ngữ đích mà
không nghĩ đến những hoạt động riêng của ngôn
ngữ đích. Chẳng hạn, trường hợp dịch “thương
mại ()*)” sang “+,/saŋ mɛ/” là trường hợp
người dịch sáng tạo từ Hàn mới chỉ với kiến thức
cách đọc Hán Hàn, không để ý đến qui tắc cấu tạo
từ Hàn gốc Hán. Minh hoạ quá trình lỗi:
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
473
Từ mới này là kết quả của việc người dịch
không biết từ “thương mại” trong ngôn ngữ đích
(tiếng Hàn) nên chỉ dựa vào tri thức về âm Hán
Việt và Hán Hàn để dịch từng chữ một. Trên thực
tế, chữ “thương())” trong Hán Việt đối ứng với
Hán Hàn là “+/saŋ/” còn “mại(*)” là “,mɛ”.
Tuy nhiên, trường hợp này chỉ là một trường hợp
ngẫu nhiên chứ không phải là một kết quả có được
do người dịch đủ kiến thức về từ gốc Hán trong
tiếng Hàn. Khi tiếng Việt dùng từ “thương mại”,
tiếng Hàn dùng từ “-.(/0) /mu i̯ək/ - mậu
dịch”, “.(0) /ki̯o i̯ək/ - giao dịch”, “+(
) ) /t ̒ong sang/ - thông thương”, “+1()2 )
/sang əp/ - thương nghiệp” theo từng trường hợp.
- Trường hợp “bản quyển (34)” dịch ra “
/pon ku ̯ən/” (nếu dịch đúng là “ /pʻan ku ̯ən/”
hay “564 /cə cak ku ̯ən/ - trước tác
quyền”) là dịch yếu tố tạo từ không đúng do sự
can thiệp của thói quen dịch những từ quen thuộc
như “nguyên bản (78 ) 9: /u̯ən pon/”,
“Nhật bản (;8) <:/il pon/” và trường
hợp “hiệu đính (=>)” dịch ra “? /hi̯o cəŋ/”
(tiếng Hàn là “ /ki o cəŋ/”) do quen dịch
“hiệu” là “? /hi ̯o/” trong trường hợp các từ “hiệu
quả () ?@ /hi̯o ku ̯a/”, “hiệu lực (AB)
?C /hi̯oli ̯ək/”
- Trường hợp “dân số (DE)” thành “FG /min
su/” cũng là trường hợp sáng tạo từ mới. Tuy một
số trường hợp dịch “dân số” là “FG/min su/” như
“FGH /min su ki/DEI - Dân số kí”- quyển
thứ 4 trong Kinh Cựu Ước hay “ /hən min
su/ JDE. hiến dân số” - việc điều tra hộ khẩu
thời đại Triều Tiên nhưng đối với người Hàn
hiện nay, từ “FG/min su/” này là hoàn toàn mới.
Trong tiếng Hàn hiện nay, từ “dân số” tương
đương với từ “KL/in ku/ MN - nhân khẩu”.
Cũng như vậy, “đào tạo” tiếng Hàn là “OP/i ̯aŋ
səŋ/. QR - dưỡng thành” chứ không phải là
“$S /to co/. TU - đào tạo”. Trong tiếng Hàn,
“$S /to co/. VW. đao trở” là từ cổ, với nghĩa
duy nhất chỉ “những nơi nguy hiểm’ và cũng ít
người Hàn biết nghĩa này.
- Ngoài ra, có một trường hợp rất đặc biệt -
‘dịch đúng mà sai’. Ví dụ, có người dịch chưa biết
từ “nhập siêu” bằng tiếng Hàn là gì thì dịch là
“XY /ip cʻo/”. Trường hợp này, người dịch chỉ
dịch từng từ một như “nhập(Z)” sang “/ip/” và
“siêu ([)” sang “/cʻo/”.
Từ “nhập siêu” là hình thức viết tắt “nhập khẩu
siêu quá (ZN[\)”. Nếu tra từ điển, tuy từ “nhập
siêu” cũng tồn tại trong tiếng Hàn với hình thức
“XY /ip cʻo/” (thường kết hợp với từ “hiện
tượng” tạo thành cụm từ “XY]+Z[^_ /ip
cʻo hi̯ən sang/”. Tuy hình thức là viết tắt của “thâu
nhập siêu quá (`Z[\ )” nhưng từ này quá
chuyên môn nên ít người biết đến nên đã dịch
thành một từ hoàn toàn mới, ngay cả người Hàn
cũng không nhiều người sử dụng. Vì vậy, để thực
hiện mục đích của phiên dịch, nên dịch “nhập
siêu” sang tiếng Hàn một cách phổ biến hơn như
“-.ab /mu i̯ək cək ca/” (tùy trường hợp, có
thể dịch là “-.cde
/mu i̯ək pul ki ̯un hi ̯əŋ/”
hoặc “GXY@/su ip cʻo ku ̯a/”) thì tốt hơn. Từ
“nhập siêu” trong tiếng Việt tuy là một từ chuyên
môn duy nhất để diễn đạt ý nghĩa “chỉ số nhập
khẩu vượt qua xuất khẩu; nhập khẩu nhiều hơn
xuất khẩu trong quá trình thương mại” nhưng từ
cũng là một từ hoàn toàn phổ biến. Còn “/ip
cʻo/” trong tiếng Hàn thì ít được dùng hoặc phải
được hiểu sau khi nghiên cứu tổng thể các nội
dung rồi rút ra ý nghĩa của từ đó. Đây là trường
hợp lỗi khi người dịch chỉ suy diễn từ một từ theo
kiến thức về cách đọc chữ Hán của hai ngôn ngữ,
nhưng không để ý đến những từ khác mà người
Hàn thường dùng. Hình dung như sau:
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
474
Tiếng Việt Tiếng Hàn
(
- mậu dịch xích tử)
nhập
(
- mậu dịch bất quân hành)
siêu ()
( - thâu nhập siêu quá)
3.2. Lỗi giao thoa (interlingual error)
Lỗi giao thoa là loại lỗi sai giữa hai ngôn ngữ
mà xảy ra do sự can thiệp của những kiến thức mà
người dịch có trước về ngôn ngữ gốc (trong bài
này là tiếng Việt) và người dịch chuyển đổi
(transfer) tức áp dụng những kiến thức của tiếng
mẹ đẻ vào ngôn ngữ đích (ở đây là tiếng Hàn).
Khác với lỗi từ ngữ đích, lỗi giao thoa khi dịch từ
Việt gốc Hán sang tiếng Hàn xảy ra trong trường
hợp người dịch nhầm lẫn các sắc thái nghĩa của từ
gốc Hán trong hai ngôn ngữ. Nói cách khác, người
dịch tuy có đủ kiến thức về cách cấu tạo từ gốc
Hán nhưng “áp đặt” nghĩa của từ gốc Hán trong
tiếng Việt vào tiếng Hàn. Lỗi này thường xảy ra
trong trường hợp đồng từ dị nghĩa, đồng nghĩa dị
từ và đồng nghĩa nhưng trật tự cấu tạo ngược nhau.
- Trường hợp đồng từ dị nghĩa là những từ gốc
Hán có nguồn gốc từ cùng một từ, nhưng sắc thái
và ý nghĩa của chúng lại khác nhau. Ví dụ, từ
“hợp đồng” trong tiếng Việt có nghĩa là sự thỏa
thuận; giao ước giữa hai hay nhiều bên qui định
các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia.
“Hợp đồng’ thường được viết thành văn bản. Thế
nhưng, “hợp đồng fg ” trong tiếng Hàn –
“hi/hap toŋ/” không có ý nghĩa như vậy mà chỉ
có ý nghĩa “cùng”, “cùng nhau” hay “chung”. Vì
vậy, nếu người dịch theo nghĩa của từ Việt gốc
Hán mà không để ý đến sắc thái của từ Hàn gốc
Hán thì “hợp đồng” sẽ thành “cùng nhau”. Từ
“hợp đồng” tiếng Việt dịch sang tiếng Hàn phải là
“jkl /ki̯e i̯aksə/. ABÛ - khế ước thư”. Cũng
như vậy, “ma túy (mn)” trong tiếng Việt là tên
gọi chung các chất có tác dụng gây trạng thái ảo
giác như thuốc phiện, hêrôin nhưng “op/ma
cʻu ̯i/ <mn - ma túy” trong tiếng Hàn có nghĩa
“gây mê”, “gây tê toàn bộ hoặc một phần cơ thể
để tiến hành phẫu thuật”. Trường hợp “cấp cứu
(qr)” dịch ra “sL
/kɨp ku/ qr - cấp cứu”
cũng như vậy. “Cấp cứu” có nghĩa “cứu nguy”,
“cứu sống”. Trong tiếng Hàn, từ gốc Hán có nghĩa
tương tự với “cấp cứu” của tiếng Việt là “ts /ɨŋ
kɨp/ < uq - ứng cấp” - đáp ứng (hoặc xử lí)
những trường hợp khẩn cấp còn “sL /kɨp ku/ <
qr - cấp cứu” trong tiếng Hàn có nghĩa “tìm người
một cách khẩn cấp” chứ không phải là “cứu sống”.
- Trường hợp “diễn đàn (vw)” và “xy /i̯ən
tan/” có khác biệt một chút về trường nghĩa
(semantic field). “Diễn đàn” có hai nghĩa: 1. Nơi
đứng cao để diễn thuyết, phát biểu trước đông
người (Platform) và 2. Nơi để cho nhiều người có
thể phát biểu ý kiến một cách công khai và rộng
rãi (Forum).”xy/i̯ən tan/” trong tiếng Hàn chỉ có
nghĩa (1) của “diễn đàn” tiếng Việt. Vì vậy, nếu
dịch ý nghĩa thứ hai của “diễn đàn” thì phải dùng
từ khác là “z{/pʻo rəm/ <forum (tiếng Anh)”
hay “|{/cʻal rəm/< column (tiếng Anh)’ tùy
từng trường hợp.
- Trường hợp đồng nghĩa dị từ là trường hợp
cùng nghĩa nhưng hình thức dùng từ khác nhau.
Ví dụ, “bộ trưởng” tiếng Hàn là “}~/caŋ ku ̯an/.
- trưởng quan” chứ không phải là “} /pu
caŋ/. - bộ trưởng”. Cũng như vậy, “định cư”
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
475
tiếng Hàn là “ /cəŋ c ̒ak/.
- định trước”
chứ không phải là “/cəŋ kə/. - định cư”.
Như vậy, những trường hợp này được hiểu rằng
tuy tiếng Việt và tiếng Hàn đều mượn cùng một
hình thức nhưng cách thể hiện trong trường ý
nghĩa là hoàn toàn khác nhau.
- Một ví dụ nữa, rất nhiều sinh viên dịch từ
“bảo dưỡng (Q )” sang tiếng Hàn là “O
/poi aŋ/” khi họ chưa biết sự khác biệt ý nghĩa
“bảo dưỡng (Q)” trong tiếng Việt và “
/poi aŋ/ (Q)” trong tiếng Hàn. Từ “bảo dưỡng”
có thể dịch sang tiếng Hàn là “ /kəm sa/<
- kiểm tra”, “/kəm cin/ < - kiểm chẩn”
hoặc “G/po su/ < - bổ tu” tùy từng
trường hợp chứ không thể chỉ dịch thành
“O/poiaŋ/” được. “O/poiaŋ/” chỉ có nghĩa là
“chăm sóc, nuôi nấng” mà không có nghĩa “kiểm tra”
hay “bảo trì” như từ “bảo dưỡng” trong tiếng Việt.
- Trường hợp từ đồng nghĩa nhưng trật tự cấu
tạo ngược nhau cũng một trường hợp người dịch
hay nhầm bởi tưởng rằng trật tự cấu tạo Hán Hàn
cũng giống trật tự cấu tạo của từ Hán Việt. “Đơn
giản” Hán Việt được thể hiện bằng “giản đơn”,
“hạn chế” Hán Việt được thể hiện bằng “chế hạn”
trong Hán Hàn. Cũng như vậy, “ngoại lệ” Hán
Việt dịch là “lệ ngoại”, “triệu chứng” Hán Việt
phải dịch là “chứng triệu” thì người Hàn mới hiểu
được. Người dịch nói “ /Οri e/. - ngoại
lệ” hay “ /Οri ̯e/. - ngoại lệ” là do ảnh
hưởng bởi tiếng mẹ đẻ.
4. Phân tích lỗi
Có thể nói, lỗi là một hiện tượng tích cực thúc
đẩy người dịch khám phá ngôn ngữ đích. Những
hình thức lỗi này thường xảy ra khi tri thức ngoại
ngữ của người dịch đang trong quá trình phát
triểnngjkhi tâm trạng mệt mỏi, không tập trung. Vì
vậy, quá trình phân tích lỗi có thể giúp cho người
dịch hiểu thêm một cách rõ hơn về ngôn ngữ đích.
Dưới đây, chúng tôi thử phân tích lỗi trong khi
dịch những từ gốc Hán của người dịch có tri thức
về Hán Việt và Hán Hàn.
Trường hợp lỗi dịch “thương mại” sang
“+,/saŋ m/”, có thể phân tích như sau:
- Người dịch không biết từ tiếng Hàn đối ứng
với “thương mại”.
- Trong quá trình dịch, người dịch không
phân tích ý nghĩa của từ và không nỗ lực tìm hiểu
từ tương đương trong ngôn ngữ đích.
- Người dịch thiếu kiến thức về chữ Hán
nhưng biết chuyển từ gốc Hán trong tiếng Việt
sang từ Hán Hàn dựa trên tri thức ngữ âm của
ngôn ngữ đích.
Để tránh trường hợp như vậy, người dịch nên:
- Tìm hiểu thêm những từ tương tự hoặc cố
gắng giải thích ý nghĩa từ gốc nếu không biết hay
không nhớ tự ngữ đích tương đương. Ví dụ,
“thương mại” có nghĩa là ngành kinh tế thực hiện
lưu thông hàng hóa bằng mua bán; từ đồng nghĩa
là “thương nghiệp”. Vì vậy, với ý nghĩa đó, người
dịch có thể giải thích được bằng những từ khóa
(keyword) như “kinh tế”, “lưu thông hàng hóa”,
“mua bán”.
- Tìm hiểu kĩ ngữ cảnh. Từ “thương mại”
trong tiếng Việt có nghĩa hơi khác nhau tùy bối
cảnh xuất hiện như “Đại học thương mại’, “Ngân
hàng thương mại’, “Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam”, “Cục xúc tiến thương mại”...
- Tìm hiểu sâu về đặc điểm của từ gốc Hán.
Trước hết, người dịch phải hiểu sự khác biệt quá
trình hình thành Hán Việt và Hán Hàn. Về mặt
ngữ âm, Hán Việt và Hán Hàn đều phản ánh âm
Trung cổ Hán nhưng có nhiều điểm hết sức phức
tạp do thời điểm hình thành cách đọc chữ Hán,
đặc điểm riêng của hai ngôn ngữ Việt và Hàn, hệ
thống âm Trung cổ Hán,... nên người dịch cần
phải nắm được những sự khác biệt đó và phải hiểu
cách đọc chữ Hán. Ví dụ, “thương” Hán Việt có
thể dịch sang tiếng Hàn là “/saŋ/” được nhưng trên
thực tế, chữ “thương” Hán Việt đối ứng với những
chữ )
... và trong đó, chữ
được
đọc là “/c ̒aŋ/” trong Hán Hàn. Tuy nhiên,
“thương” Hán Việt đối ứng với “/saŋ/”, “mại” đối
ứng với “/mɛ/” tiếng Hàn nhưng dịch “/saŋ mɛ/”
thì hoàn toàn không phù hợp với mục đích dịch vì
người nghe không hiểu nên người dịch bỏ thói quen
chuyển từng chữ một khi gặp những từ gốc Hán.
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
476
Trường hợp lỗi dịch “chất lượng” sang
“/cil li ̯aŋ/”, có thể phân tích như sau:
- Người dịch biết trong tiếng Hàn có từ
“/cil li ̯aŋ/” dù không biết “chất lượng” tương
đương với “/cil li ̯aŋ/” hay không.
- Người dịch không để ý trong tiếng Hàn có
từ đối ứng với “chất lượng” là “/p ̒um cil/.
- phẩm chất” hoặc biết từ “/p ̒um cil/”
nhưng nhầm tưởng từ này tương đương với “phẩm
chất” của tiếng Việt nên không chọn từ này.
Để tránh trường hợp như vậy, người dịch cần:
- Phân biệt rõ sự khác biệt giữa hoạt động của
từ gốc Hán trong tiếng Việt và tiếng Hàn. Người
dịch phải nhớ những trường hợp đồng từ đồng
nghĩa như “hạnh phúc”, “lãnh thổ”, “điện thoại”,
“quảng cáo”, “giao thông”... xuất hiện rất ít so với
trường hợp đồng từ dị nghĩa hay đồng nghĩa dị từ,
đồng nghĩa nhưng trật tự yếu tố cấu tạo trong từ
khác nhau.
- Chú ý đến nghĩa trước chứ không phải chú ý
đến hình thức cấu tạo từ khi gặp từ gốc Hán để
tránh sự nhầm lẫn trường hợp như trên.
5. Kết luận
Lớp từ gốc Hán trong tiếng Việt và tiếng