Công tác giảng dạy của giáo viên được thực hiện qua từng tiết lên lớp,bao gồm các nội
dung: soạn giáo án, tiến trình giảng dạy và rút kinh nghiệm giờ dạy. Đây là việc làm thường
nhật của mỗi giáo viên, ở mọi cấp học. Đã có bao nhiêu nghiên cứu bàn đến cùng sự thực
hiện của hàng triệu thầy cô giáo. Mặcdùđã được học lý luận dạy học, dựgiờ của các bạn
đồng nghiệp, tham gia nhiều cuộchội thảo song việc thực hiện tốt các tiết học vẫn là điều
không dễ dàng đối với những người hàng ngày làm công tác giảng dạy. Bản thân tôi đã luôn
trăn trở, tìm tòi để nâng cao hiệu quả hoạt động chuy ên môn nghiệp vụ từ khi bắt đầu làm
nghề dạy họcđến nay cũngkhông phải là trường hợp ngoại lệ. Vì lẽ đó việc tổ chức các hội
nghị trao đổi kinh nghiệm nâng cao chất lượng giờ lên lớpcủa các nhà giáo là điều thực sự
cần thiết.
10 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1825 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số khâu quan trọng trong giảng dạy môn vật lý ở trường THPT, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
PHẦN I. LỜI NÓI ĐẦU.
Trong quá trình công tác dần dần mỗi người thầy đều rút ra được
những kinh nghiệm nâng cao hiệu quả giảng dạy. Với nghề dạy học
chúng ta không có hi vọng rút ra được các kinh nghiệm độc đáo tạo ra
sự vượt trội rất xa so với các bạn đồng nghiệp. Những điều giản dị
được tích lũy chắt chiu có tác dụng hữu ích cho việc học tập của học
sinh đều rất quý. Bản thân tôi cũng đã rất để tâm đến việc rút ra các
kinh nghiệm trong quá trình công tác, những điều liên quan đến hoạt
động thường nhật của nghề giáo. Đó là những vướng mắc, những
nhược điểm, những khó khăn và cả những thành công mà mỗi người
thầy chúng ta đều nếm trãi.
Và cũng không ngoài mục đích là chia sẽ kinh nghiệm với các bạn
đồng nghiệp về những kinh nghiệm của bản thân được rút ra trong quá
trình dạy học. Sau đây tôi xin nêu ra "MỘT SỐ KHÂU QUAN TRỌNG
TRONG GIẢNG DẠY MÔN VẬT LÝ Ở TRƯỜNG THPT".
Nội dung trong đề tài này tôi chia thành ba phần:
1. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng giờ lên lớp.
2. Kinh nghiệm sử dụng câu hỏi trong giảng dạy.
3. Kinh nghiệm chưa bao giờ cũ.
2
PHẦN II. NỘI DUNG.
I. KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ LÊN LỚP.
Công tác giảng dạy của giáo viên được thực hiện qua từng tiết lên lớp,bao gồm các nội
dung: soạn giáo án, tiến trình giảng dạy và rút kinh nghiệm giờ dạy. Đây là việc làm thường
nhật của mỗi giáo viên, ở mọi cấp học. Đã có bao nhiêu nghiên cứu bàn đến cùng sự thực
hiện của hàng triệu thầy cô giáo. Mặc dù đã được học lý luận dạy học, dự giờ của các bạn
đồng nghiệp, tham gia nhiều cuộc hội thảo song việc thực hiện tốt các tiết học vẫn là điều
không dễ dàng đối với những người hàng ngày làm công tác giảng dạy. Bản thân tôi đã luôn
trăn trở, tìm tòi để nâng cao hiệu quả hoạt động chuyên môn nghiệp vụ từ khi bắt đầu làm
nghề dạy học đến nay cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Vì lẽ đó việc tổ chức các hội
nghị trao đổi kinh nghiệm nâng cao chất lượng giờ lên lớp của các nhà giáo là điều thực sự
cần thiết.
Trong hoạt động thực tiễn mỗi người đều rút ra các kinh nghiệm công tác. Sau đây là
những điều mà bản thân tôi nêu lên trao đổi cùng các bạn.
1. SOẠN GIÁO ÁN.
Việc soạn giáo án là một yếu tố có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của giờ dạy và có tính
chất bắt buộc đối với mọi giáo viên trước lúc thực hiện giờ lên lớp. Đó là điều hiển nhiên
mà ai cũng biết thế nhưng vấn đề này vẫn đang còn phải trao đổi thêm. Hiện nay trên trang
giáo án điện tử của mạng Internet của tất cả các môn học đều có các giáo án sẵn và thế là
một bộ phận giáo viên đã tải về sử dụng, không dành nhiều thời gian nghiên cứu, không trăn
trở nhiều cho việc chuẩn bị phương án giảng dạy vì thế hiệu quả của giờ dạy còn nhiều hạn
chế. Mặc dù chúng ta có trình độ Đại học nhưng điều đó không có nghĩa là việc hiểu và
giảng dạy chương trình phổ thông là một việc quá dễ dàng. Chúng ta đã từng chứng kiến có
những giáo viên gần về hưu nhưng một số điều trình bày trong sách giáo khoa hiểu vẫn
không thấu đáo. Dù sự giao lưu trao đổi giáo án giữa những người làm công tác giảng dạy
hiện nay rất thuận lợi thì việc mỗi người tự mình trăn trở xây dựng phương án giảng dạy
cho riêng mình là điều cực kì quan trọng không ai thay thế được. Tuy nhiên để có một giáo
án có chất lượng cũng không phải là điều dễ dàng. Sau đây tôi xin được trao đổi thêm về
vấn đề này.
Tiến trình của việc soạn giáo án được thực hiện theo các bước sau:
- Bước 1: đọc kĩ sách giáo khoa, tóm tắt cuối bài, câu hỏi và bài tập mà sách giáo khoa đưa
ra:
Tóm tắt chính là những kiến thức cốt lõi, câu hỏi và bài tập là những yêu cầu về kiến thức
và kỹ năng của bài cần đạt được.
- Bước 2: xác định mục tiêu, kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi của bài:
Có người cho rằng, các kiến thức có trong bài cứ khai thác cho hết, thế là đạt mục tiêu bài
học. Đó chỉ là quan niệm có tính chất đơn giản. Thực tế đây là điều rất quan trọng quyết
định hướng đi của tiết dạy. Nếu xác định đúng bài giảng sẽ trở nên ngắn gọn, tinh giản,vững
chắc, đạt được mục tiêu, nếu xác định không đúng bài giảng sẽ trở nên ôm đồm, dàn trãi,
các kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi khắc hoạ không rõ nét, phân bố thời gian không
3
hợp lý, mất nhiều thời gian vào các kiến thức không trọng tâm, không hoàn thành được khối
lượng kiến thức và kỹ năng, không đạt được mục tiêu bài học.Vậy làm thế nào để xác định
đúng mục tiêu, kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi của bài. Điều này đòi hỏi phải đọc kĩ
nội dung sách giáo khoa và xác định vị trí của bài trong hệ thống kiến thức của chương, của
giáo trình. Trong đó tóm tắt sách giáo khoa, câu hỏi và bài tập cuối bài là gợi ý tốt về kiến
thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi mà học sinh phải nắm được sau khi học.
- Bước 3: đọc tài liệu tham khảo về các nội dung liên quan đến bài giảng:
Sách giáo khoa viết rất cô đọng và súc tích. Nếu không dành thời gian thích đáng cho
việc đọc tài liệu tham khảo thì những điều chúng ta trình bày sẽ rất đơn sơ, ít có sức thuyết
phục và dễ mắc phải lỗi về mặt kiến thức, điều này thể hiện rõ trong các trường hợp thầy
giáo giảng giãi các kiến thức, vận dụng kiến thức vào thực tế. Việc đọc các tài liệu tham
khảo về nội dung liên quan đến bài giảng giúp chúng ta hiểu sâu, hiểu thấu đáo các kiến
thức, điều đó làm cho việc trình bày bài giảng được thực hiện một cách tự tin, chính xác,
sâu sắc.Tuy nhiên, trong giờ giảng chỉ trình bày ở một mức độ nhất định phù hợp với mục
tiêu và yêu cầu của bài, của cấp học. Có giáo viên để thể hiện bài giảng sâu bằng cách đưa
vào bài giảng quá nhiều ví dụ, nhiều kiến thức phức tạp, thậm chí dùng cả kiến thức đại học.
Điều đó chỉ làm cho bài giảng trở nên ôm đồm gây rối trí mất thời gian vô ích của học sinh
và đương nhiên không đạt được mục tiêu của bài học. Bài giảng sâu được thể hiện ở chỗ là
người thầy làm cho học sinh hiểu rõ, hiểu đúng, nắm được bản chất của kiến thức và vận
dụng được các kiến thức của bài học để trả lời các tình huống lý thuyết, bài tập và thực tiễn
đặt ra.
Khi soạn bài phải lưu ý đến tính thực tiễn, xác định xem những kiến thức nào của bài cần
có những ví dụ minh hoạ hoặc vận dụng để giải quyết các tình huống lý thuyết, tình huống
thực tiễn và bài tập đặt ra. Điều này vừa là yêu cầu của bài giảng vừa làm tăng tính sinh
động của giờ dạy. Tuy nhiên các dẫn chứng đưa ra chỉ cần vừa đủ, thật sự điển hình, tránh
đưa quá nhiều làm cho bài giảng ôm đồm, mất thời gian không cần thiết.
- Bước 4: lựa chọn phương pháp giảng dạy.
Phương pháp giảng dạy cần được vận dụng linh hoạt tuỳ từng nội dung cụ thể của bài. Dù
dùng phương pháp nào đều phải thể hiện được phương châm: lấy học sinh làm trung tâm,
rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Rèn luyện qua việc đọc thông tin,
nghiên cứu hình vẽ, đồ thị, biểu đồ, thí nghiệm trong sách giáo khoa từ đó rút ra các kết
luận cần thiết phục vụ nội dung bài dạy. Quan sát các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội để
rút ra các kết luận về mặt kiến thức hoặc để giải thích nó. Những điều này chính là điểm
mới trong phương pháp dạy học hiện nay.
Trong quá trình soạn giáo án nên cố gắng tìm cách chuyển đổi nội dung bài dạy thành các
tình huống có vấn đề để dẫn dắt học sinh khám phá kiến thức. Điều này vừa là yêu cầu của
phương pháp dạy học vừa làm tăng tính sinh động của giờ dạy. Trong thực tiễn chúng ta
thấy rằng, có những bài, những nội dung kiến thức khó chuyển thành các tình huống có vấn
đề, quả đúng như vậy. Tuy nhiên trong trường hợp đó đòi hỏi người thầy phải dành nhiều
thời gian nghiên cứu, tìm tòi, cân nhắc sẽ giúp chúng ta thu được nhiều cơ hội thành công.
Sự tâm huyết, làm việc có trách nhiệm, kiên trì quán triệt tinh thần nêu trên chúng ta sẽ dần
4
dần có khả năng chuyển đổi các nội dung phức tạp thành các tình huống có vấn đề ngày
càng dễ dàng. Tuy nhiên các câu hỏi đặt ra phải hợp lý, có tính định hướng, có tác dụng phát
huy trí lực học sinh, tránh sử dụng các câu hỏi vụn vặt, quá đơn giản ít có ý nghĩa làm tốn
thời gian và vô ích.
- Khi soạn giáo án không quá lệ thuộc vào cách trình bày trong sách giáo khoa:
Nói chung các bài giảng được trình bày theo cấu trúc của sách giáo khoa, tuy nhiên ở một
số bài có thể được trình bày theo cấu trúc khác tùy vào phương án giảng dạy của giáo viên,
thể hiện ở các điểm như: sắp xếp lại trình tự các phần, thêm hoặc bớt một số mục, một số
kiến thức cần thiết. Nghiên cứu kĩ lưỡng để có thể đưa ra cách trình bày các kiến thức phức
tạp trong sách giáo khoa một cách tương đối đơn giản làm giảm bớt sự căng thẳng, nặng nề,
khó khăn cho học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức.
2. TIẾN TRÌNH GIẢNG BÀI.
Giờ giảng phải thể hiện được các yêu cầu đã nêu trong giáo án, sinh động, phân bố thời
gian hợp lý, đảm bảo tinh giản vững chắc, phát huy được tính tích cực của học sinh
- Lời nói, trình bày của người thầy phải sinh động: việc tạo cho giờ dạy có tính sinh động có
ý nghĩa cực kì quan trọng, chúng ta đã từng chứng kiến cùng một bài dạy được trình bày với
cung cách và ngôn ngữ giống nhau song do sự khác nhau trong trạng thái tâm lí mà có lớp
giờ giảng rất sinh động, học sinh tiếp thu hào hứng, đưa lại hiệu quả cao, người ta thường
gọi đó là bài giảng có hồn. Có lớp giờ giảng diễn ra một cách nhạt nhẽo, buồn tẻ, nặng nề,
mặc dù hoàn thành nhưng hiệu quả rất thấp, những dấu ấn của bài giảng để lại trong trí não
học sinh rất mờ nhạt, đó là những bài giảng không có hồn.
Sự sinh động trong tiết học liên quan đến rất nhiều yếu tố: chuẩn bị bài kĩ lưỡng, nắm
chắc, hiểu sâu, biết rộng những điều trình bày, lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm đối với
học sinh. Thầy giáo phải luôn có tâm thế hào hứng đón chờ giờ dạy, thả hồn vào giờ dạy, có
lòng bao dung, xử lí một cách mềm dẻo, có chừng mực đối với các tình huống không bình
thường mà học sinh có thể bộc lộ trong giờ dạy. Sự hào hứng trong lời giảng của thầy sẽ
khơi dậy, lôi cuốn sự hào hứng tiếp thu và xây dựng bài của học sinh.
- Phân bố thời gian hợp lý với yêu cầu từng phần, từng đơn vị kiến thức làm cho bài giảng
hài hòa cân đối.
- Tinh giản thể hiện ở chỗ: các nội dung kiến thức được trình bày ngắn gọn, vừa đủ, không
đưa vào các vấn đề phức tạp không cần thiết, không phù hợp với yêu cầu bài dạy và trình độ
học sinh. Các ví dụ và hình ảnh minh họa cho bài giảng phải thật điển hình số lượng vừa đủ,
nếu đưa vào quá nhiều giờ giảng sẽ trở nên ôm đồm nặng nề, tốn phí thời gian không cần
thiết, đồng thời hạn chế thời gian diễn giải kiến thức. Có giáo viên tưởng rằng đưa được
nhiều tranh ảnh, ví dụ sẽ làm cho sự thành công của bài giảng tăng lên. Thật là nhầm lẫn.
Giờ dạy tinh giản còn thể hiện ở chỗ là dành nhiều thời gian cho kiến thức trọng tâm, kiến
thức cốt lõi còn kiến thức không phải trọng tâm không cần dành nhiều thời gian để giảng
giải, khai thác, thậm chí có thể cho học sinh tự học, tự đọc. Lưu ý rằng có nhiều kiến thức
bài dạy không phải trọng tâm lại dễ trình bày, dễ nêu vấn đề, có nhiều ví dụ và hình ảnh
minh họa đã làm cho một số giáo viên tập trung nhiều thời gian vào đó làm cho nội dung
5
trọng tâm phân bổ ít thời gian vì thế khắc họa một cách mờ nhạt hoặc không hoàn thành bài
giảng.
Kết thúc giờ dạy thầy giáo và học sinh phải có cảm giác thoải mái, nhẹ nhõm mới thực sự
thành công. Nếu thầy giáo và học sinh phải làm việc cật lực, vội vã thì dù những điều thầy
trình bày được chuẩn bị rất công phu thì hiệu quả giờ dạy vẫn thấp.
- Vững chắc thể hiện: dạy đủ, đúng, sâu các kiến thức trọng tâm, học sinh hiểu và vận dụng
được các kiến thức giải quyết được các tình huống lý thuyết, bài tập và thực tiễn đặt ra
- Trình bày bảng hợp lý: đảm bảo hài hoà giữa trả lời của học sinh với lời giảng và việc ghi
bảng của thầy. Điều này tưởng như đơn giản nhưng thực tế không ít giáo viên thực hiện
không thành công. Lỗi thường mắc phải trong trường hợp này là: thầy giáo nêu câu hỏi, học
sinh trả lời, thầy giảng giải, phân tích xong và cuối cùng là ghi bảng. Cung cách này tạo ra
sự khập khểnh, không hài hoà, không ăn khớp giữa hoạt động của thầy và trò, tốn thời gian
và làm cho giờ giảng giảm bớt tính sinh động.
3. RÚT KINH NGHIỆM GIỜ DẠY.
Sau khi tiến hành giờ dạy cần rút kinh nghiệm bổ sung bên cạnh giáo án để các giờ dạy sau
kế thừa được ưu điểm và tránh được các nhược điểm của giờ dạy mình đã trãi qua. Nói
chung nếu để tâm, sau một giờ dạy chúng ta đều nhận ra được những điểm thành công và
chưa thành công. Tuy nhiên do nhiều lý do mà chúng ta không ghi lại, qua thời gian dần dần
quên đi, năm sau khi trở lại các tiết đó lại phải làm từ đầu, những nhược điểm của năm
trước chúng ta tiếp tục mắc phải, chất lượng giờ dạy của năm sau so với năm trước không
khác nhau bao nhiêu. Qua thời gian trình độ chuyên môn nghiệp vụ sẽ không thay đổi là
mấy. Rút kinh nghiệm cần lưu ý các điểm sau:
- Phân bố thời gian ở các phần.
- Tính hợp lý của hệ thống câu hỏi dẫn dắt.
- Tính rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, chính xác trong những lời diễn giảng của thầy.
- Sự tinh giản và vững chắc của giờ dạy.
- Sự hợp lý, hài hòa giữa câu hỏi của thầy, trả lời của học sinh, lời giảng và ghi bảng của
thầy.
- Khả năng hiểu bài của học sinh và tính sinh động của giờ dạy.
Từng nội dung đó phải chỉ ra được ưu, nhược điểm. Đặc biệt là nhược điểm phải đưa ra
phương án khắc phục.
Là những người trực tiếp làm công tác giảng dạy, chúng ta biết rằng, để có một giờ dạy
tốt quả không dễ chút nào. Dù là người có năng lực giỏi, tận tụy và tâm huyết với nghề
nghiệp vẫn không dám nói rằng, tất cả các giờ dạy đều thành công. Tuy nhiên với lòng yêu
nghề, tinh thần trách nhiệm, làm việc có phương pháp, luôn có chí tiến thủ chúng ta sẽ ngày
càng có nhiều giờ dạy có hiệu quả cao.
II. KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CÂU HỎI TRONG GIẢNG DẠY.
Phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập là một nguyên lí dạy học được đặt ra từ
rất lâu vì tính ưu việt của nó. Việc chuyển đổi nội dung kiến thức bài học thành một hệ
thống các tình huống có vấn đề đã khơi dậy sự tò mò tìm hiểu thế giới tự nhiên và xã hội, từ
6
đó học sinh chủ động khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn của thầy giáo, giờ dạy trở nên
hào hứng, sinh động, học sinh thực sự trở thành chủ thể của quá trình nhận thức, chất lượng,
hiệu quả giờ dạy tăng lên rất nhiều.
Việc dạy học theo phương pháp nêu vấn đề mặc dù là yêu cầu bức thiết được đặt ra từ rất
lâu song đến nay vẫn có tính chất thời sự và là một câu chuyện dài. Bởi vì để thực hiện nó
hiệu quả không phải đơn giản mà liên quan đến nhiều yếu tố: tâm huyết người thầy, ý thức
học tập của học trò, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đời sống của người thầy…
Hệ thống câu hỏi trong dạy học có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc làm cho bài giảng
thực sự tạo được tình huống có vấn đề từ đó phát huy tính tích cực của học sinh trong học
tập. Để xây dựng được một hệ thống câu hỏi đạt yêu cầu đòi hỏi người thầy phải dành nhiều
thời gian, công sức nghiên cứu, tìm tòi, cân chỉnh, rút kinh nghiệm qua soạn bài, qua sự thể
hiện ở các giờ lên lớp, qua nhiều năm công tác.
Mỗi tiết dạy đưa ra nhiều hay ít câu hỏi, còn tùy thuộc vào từng bài và đối tượng học sinh.
Điều quan trọng nhất là đưa ra được các câu hỏi cần thiết vừa đủ, có chất lượng, có tác dụng
thiết thực tạo được các tình huống có vấn đề, kích thích tư duy của học sinh khám phá kiến
thức. Có bài hầu như chỉ phù hợp với phương pháp thuyết trình, tuy nhiên nếu chịu khó tìm
tòi, cân nhắc chúng ta vẫn có cơ hội đưa ra được một số câu hỏi tạo tình huống có vấn đề
làm tăng hiệu quả giờ dạy.
Sau đây tôi xin đưa ra một số ý kiến về những câu hỏi nên và không nên sử dụng
1. YÊU CẦU CỦA CÂU HỎI
- Câu hỏi có tác dụng phát huy trí lực học sinh, đòi hỏi phải có sự động não mới làm sáng tỏ
được những điều mà giáo viên đặt ra.
- Câu hỏi dựa trên nền kiến thức cũ tạo cho học sinh kết nối, kế thừa giữa vốn kiến thức cũ
với việc tìm hiểu kiến thức mới.
- Câu hỏi có tính định hướng làm học sinh hiểu rõ, hiểu đúng yêu cầu thầy giáo đặt ra.
- Cần thiết có hệ thống gợi ý, dẫn dắt để học sinh trả lời các ý, từ đó hoàn chỉnh vấn đề cần
trả lời.
2. NHỮNG CÂU HỎI KHÔNG NÊN DÙNG.
Câu hỏi là phương tiện cần thiết cho việc dạy theo phương pháp nêu vấn đề. Tuy nhiên thực
tế cho thấy để đưa ra được các câu hỏi đạt yêu cầu quả không phải dễ dàng. Có không ít câu
hỏi sử dụng đã tạo ra tác dụng ngược lại làm cho giờ dạy nhạt nhẽo, lũng cũng, tốn phí thời
gian, tạo dấu ấn rất mờ nhạt, không có giá trị phát huy tính tích cực của học sinh. Xin nêu ra
đây một số ví dụ:
2.1. Câu hỏi không dựa trên nền kiến thức cũ: làm học sinh lúng túng và thường phản ứng
bằng cách đoán mò hoặc đọc sách giáo khoa tìm câu trả lời.
2. 2. Câu hỏi không định hướng: khó xác định hoặc xác định sai yêu cầu, điều này làm học
sinh rối trí, mất nhiều thời gian đồng thời không hoàn thành được yêu cầu thầy giáo đặt ra.
Dạng câu hỏi này thực tế dẫn tới người giải quyết vấn đề lại chính là thầy giáo.
2. 3. Đưa ra quá nhiều câu hỏi trong một bài học: làm cho bài giảng nát vụn ra, mất tính hệ
thống, giờ giảng bị căng, học sinh mệt mỏi, tốn nhiều thời gian, các kiến thức cốt lõi ít được
giảng giải phân tích.
7
2. 4. Các câu hỏi quá đơn giản không có giá trị phát huy trí lực học sinh, các câu hỏi vụn vặt
với những trả lời như: có, không, đúng ạ… loại câu hỏi này đưa ra vừa làm mất thời gian
vừa làm cho giờ dạy đơn điệu nhạt nhẽo.
3.VẤN ĐỀ SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA TRONG TIẾT HỌC
Một trong những đổi mới trong phương pháp dạy học hiện nay đó là rèn luyện khả năng tự
học, tự nghiên cứu của học sinh. Sách giáo khoa trở thành một phương tiện dùng cho mục
đích này và sử dụng trong các trường hợp sau:
- Nghiên cứu SGK để rút ra các kết luận về mặt lí thuyết hoặc so sánh các kiến thức các
nội dung liên quan…
- Từ vốn kiến thức SGK để giải thích các tình huống lí thuyết hoặc thực tiễn đặt ra (ví dụ
trả lời các lệnh trong SGK).
- Từ các hình ảnh, biểu đồ học sinh phân tích so sánh và rút ra các kết luận cần thiết theo
yêu cầu của bài học.
- Hình ảnh, biểu đồ được sử dụng minh họa giúp học sinh hiểu thêm những điều mà thầy
giáo trình bày.
- Một số nội dung được nêu trong sách giáo khoa không phải là kiến thức cốt lõi và đơn
giản học sinh có thể tự đọc để hiểu.
Hiện trạng đáng lưu ý hiện nay đó là một bộ phận giáo viên lạm dụng SGK trong quá
trình giảng dạy thể hiện:
- Câu hỏi đưa ra mà nội dung trả lời có sẵn trong SGK, học sinh không cần phải động não,
không cần ghi nhớ, chỉ cần đọc đúng là trả lời được vấn đề mà thầy giáo nêu lên.
- Giáo viên phát phiếu học tập, câu hỏi nêu lên trong phiếu học sinh chỉ cần dựa vào sách
giáo khoa chép lại nguyên xi là đạt yêu cầu…
Việc sử dụng SGK theo cung cách nêu trên sẽ dần dần hình thành tật xấu cho học sinh đó
là cứ mỗi khi giáo viên đưa ra câu hỏi học sinh không động não, không tư duy mà nhanh
chóng nhìn vào SGK để tìm câu trả lời. Với cách làm này giờ dạy diễn ra có vẻ trôi chảy
nhẹ nhàng và hình như một bộ phận đáng kể giáo viên và nhiều em học sinh cũng thích
cung cách này vì việc học tập diễn ra thật dễ dàng khỏe khoắn, thầy giáo thậm chí không
cần đọc sách giáo khoa và soạn bài trước mà đến lớp cùng học trò đọc luôn thể. Tuy nhiên
hiệu quả giờ dạy rất thấp, dấu ấn các kiến thức được khắc họa trong trí não học sinh rất mờ
nhạt, không đạt được các yêu cầu và mục tiêu của việc dạy học. Các câu hỏi mà giáo viên
đưa ra không những không phát huy tính tích cực mà trái lại làm cho học sinh có thói quen
trông chờ ỷ lại, ít cố gắng, lười biếng. Người thầy cũng thấy việc dạy học thật nhẹ nhàng,
không mất nhiều công sức cho việc soạn bài, không cần phải nghiên cứu học hỏi gì nhiều và
cảm thấy rồi mọi việc cũng ổn. Thật là tai hại, thời gian cứ trôi đi còn người thầy “sống lâu
mà không lên được lão làng”.
4. NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÂU HỎI
- Một bộ phận giáo viên chưa thật sự