1. Khái niệm rừng:
• Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi không
gian nhất định ở mặt đất và trong khí quyển (Morozov 1930). Rừng chiếm phần lớn bề
mặt Trái Đất và là một bộ phận của cảnh quan địa lý.
• Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ,
cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát tri ển của mình chúng có
mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau và với hoàn cảnh bên ngoài (M.E.
Tcachenco 1952)
8 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kiến thức về rừng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ KIẾN THỨC VỀ RỪNG
1. Khái niệm rừng:
• Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi không
gian nhất định ở mặt đất và trong khí quyển (Morozov 1930). Rừng chiếm phần lớn bề
mặt Trái Đất và là một bộ phận của cảnh quan địa lý.
• Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ,
cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát triển của mình chúng có
mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau và với hoàn cảnh bên ngoài (M.E.
Tcachenco 1952).
• Rừng là sự hình thành phức tạp của tự nhiên, là thành phần cơ bản của sinh quyển địa
cầu (I.S. Mê lê khôp 1974).
• Rừng cũng có thể hiểu bằng một cách khác là vùng đất đủ rộng có cây cối mọc lâu năm.
• Rừng tự nhiên 9,77 triệu ha, chiếm 84,37%.
Rừng trồng 1,81 triệu ha, chiếm 14,63%.
• Rừng là một thể tổng hợp phức tạp có mối quan hệ qua lại giữa các cá thể trong quần
thể, giữa các quần thể trong quần xã và có sự thống nhất giữa chúng với hoàn cảnh trong
tổng hợp đó.
• Rừng luôn luôn có sự cân bằng động, có tính ổn định, tự điều hòa và tự phục hồi để
chống lại những biến đổi của hoàn cảnh và những biến đổi về số lượng sinh vật, những
khả năng này được hình thành do kết quả của sự tiến hóa lâu dài và kết quả của sự chọn
lọc tự nhiên của tất cả các thành phần rừng. Rừng có khả năng tự phục hồi và trao đổi
cao.
• Rừng có sự cân bằng đặc biệt về sự trao đổi năng lượng và vật chất, luôn luôn tồn tại
quá trình tuần hoàn sinh vật, trao đổi vật chất năng lượng, đồng thời nó thải ra khỏi hệ
sinh thái các chất và bổ sung thêm vào đó một số chất từ các hệ sinh thái khác.
• Sự vận động của các quá trình nằm trong các tác động tương hỗ phức tạp dẫn tới sự ổn
định bền vững của hệ sinh thái rừng.
II.1.1. Phân loại rừng:
II.1.1.1. Rừng lá kim:
o Ở vùng ôn đới có thành phần khá đồng nhất, khí hậu lạnh, có thời gian sinh trưởng
ngắn, năng suất thấp hơn vùng nhiệt đới (nhóm cây đặc trưng là thông, vân sam, lim sam
và cây Seqnota khổng lồ).
o Phân bố chủ yếu ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Nga, Trung Quốc và một số vùng núi cao nhiệt
đới.
II.1.1.2. Rừng rụng lá ôn đới:
Giáp nhiệt đới và phân bố chủ yếu ở vùng thấp, chủ yếu ở Châu Âu, Đông Bắc Mỹ,
Nam Mỹ, một phần Trung Quốc, Nhật Bản, Oxtrâylianó thường rụng lá vào mùa thu,
chiếm phần lớn diện tích canh tác của những nước này khoảng 35% diện tích .
Rừng taiga có tại khu vực có vĩ độ cao của Bắc bán cầu, chỉ dưới tundra (lãnh nguyên) và
phía trên của các thảo nguyên.
Taiga hay rừng taiga (từ tiếng Mông Cổ) là một quần xã sinh vật với đặc trưng nổi bật là
các rừng cây lá kim. Taiga bao phủ hầu hết phần trên đại lục của Alaska, Canada, Thụy
Điển, Phần Lan, Na Uy và Nga (đặc biệt là Siberi), cũng như phần xa nhất về phía bắc
của Hoa Kỳ (không kể Alaska), bắc Kazakhstan và khu vực Hokkaido của Nhật Bản.
Rừng taiga là quần xã sinh vật đất liền lớn nhất trên thế giới. Tại Canada, thuật ngữ
boreal forest ( rừng phương bắc) được sử dụng để chỉ phần phía nam của quần xã sinh vật
này, trong khi "taiga" được dùng để chỉ khu vực phía bắc trơ trụi hơn, ở phía nam của
ranh giới cây gỗ Bắc Cực.
Do Bắc Mỹ và đại lục Á-Âu trong quá khứ gần đây đã được nối liền bằng cầu đất liền
Bering, nên một loạt các loài động-thực vật (chủ yếu là động vật) đã có thể xâm chiếm cả
hai lục địa này và được phân bổ trong quần xã sinh vật taiga. Các nhóm sinh vật khác thì
khác biệt theo khu vực, thông thường với mỗi chi có vài loài khác biệt, chúng chiếm các
khu vực khác nhau của rừng taiga. Rừng taiga cũng có một số loài cây gỗ lá nhỏ sớm
rụng như bạch dương, tống quán sủi, liễu và dương rung; chủ yếu trong các khu vực
không có mùa đông quá lạnh. Tuy nhiên, các loài thông rụng lá lại sinh sống trong những
khu vực có mùa đông lạnh giá nhất ở Bắc bán cầu, tại miền đông Siberi. Phần phía nam
của rừng taiga còn có các loài cây như sồi, phong và du rải rác trong các rừng cây lá kim.
II.1.1.3. Rừng mưa nhiệt đới:
Phân bố chủ yếu ở vùng khí hậu nóng, mưa nhiều và có tính đa dạng sinh học cao
nhất.Hệ cây rừng quanh năm có lá,dây leo chằng chịt,phía dưới đất tối âm u, nóng và ẩm
Rừng nhiệt đới có giá trị kinh tế cao phục vụ đời sống con người do có khối lượng sinh
học cao phong phú về số lượng cũng như chất lượng nên đang bị con người khai thác một
cách triệt để
Diện tích chỉ còn khoảng 50% so với trước và chỉ còn chiếm 8% so với diện tích lục
địa.
VD: Rừng Cúc Phương khu rừng nhiệt đới điển hình, có diện tích 22,000 mẩu. Đây là
một rừng nguyên sinh trong vùng đá vôi với rất nhiều hang động. Có những động còn di
tích chứng tỏ rằng loài người đã xử dụng từ 12.500 năm về trước.
Có cây sống đến hàng ngàn tuổi. Đường kính đến vài thước và cao đến 50 mCó cây to
vài chục người ôm không xuể.
Rừng Cúc Phương với hàng trăm loài động vật hoang dã, hàng ngàn loài côn trùng, độ
1.800 loại, hai trăm họ và 30 bộ.
Năm 1996 đã tổng kết với 71 loài thú, 319 loài chim, 33 loài bò sát và 16 loài lưỡng cư.
Voọc quần đừi trắng( Trachipythecus francoisi delacouri) là biểu tượng của rừng Cúc
Phương. Ngoài ra những loài Cu li lùn, Tê Tê đang nằm trong sách đỏ Việt Nam.
Rừng có hai loài sóc bay.
Đặc biệt là một loài Sóc bụng đỏ ( Callosciurus erythraeus cucphuongensis) chỉ có ở rừng
Cúc Phương mà thôi.
Rừng có hai loại dơi. Dơi Đốm Hoa (Scotomanes ornatus) thấy lần đầu tiên ở Việt Nam
tại Rừng Cúc Phương.
Trong số 4 loài gà, ba loại là chim quý được bảo vệ, đó là Công (Pavo muticus), Gà Tiền
(Polyplectron bicalcaratum) và Gà Lôi Trắng (Lophura nycthemera). Đồng thời có những
chim quý khác như Hồng Hoàng và Cao Cát.
Rừng còn có 17 loài rắn, 13 loại thằn lằn, và ba loại rùa
II.1.1.4. Rừng phòng hộ:
Nhằm điều tiết nguồn nước cho các dòng chảy, các hồ chứa để hạn chế lũ lụt, giảm xói
mòn, bảo vệ đất, ngăn sự bồi lấp lòng sông, lòng hồ. Chủ yếu là những nơi đồi núi có độ
dốc cao, yêu cầu đối với rừng phòng hộ đầu nguồn đầu nguồn phải tạo thành vùng tập
trung có cấu trúc hỗn loài, nhiều tầng, có độ che phủ của tán rừng là 0,6 trở lên.
Rừng phòng hộ ven biển: Được thành lập với mục đích chống gió hạn, chắn cát bay, ngăn
chặn sự xâm mặn của biển, chắn sóng lấn biển, chống sạt lở, bảo vệ các công trình ven
biển. Rừng phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái: Nhằm mục đích điều hòa khí hậu,
chống ô nhiễm môi trường trong các khu dân cư, khu đô thị, khu du lịch.
Rừng phòng hộ 5,42 triệu ha, chiếm 46,8% (năm 2000)
II.1.1.5. Rừng đặc dụng:
Được sử dụng cho mục đích đặc biệt như bảo tồn thiên nhiên, mẩu chuẩn hệ sinh thái,
bảo tồn nguồn gen động thực vật, phục vụ nghiên cứu khoa học
Bao gồm các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu văn hóa lịch sử và môi
trường
Rừng đặc dụng 1,443 triệu ha, chiếm 12,46% (năm 2000)
II.1.1.5.1.Vườn quốc gia:
Là vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, đáp
ứng yêu cầu sau:
• Vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản còn nguyên vẹn hoặc
ít bị tác động của con người, các khu rừng có giá trị cao về văn hóa, du lịch.
• Phải đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái và không bị thay đổi bởi những
tác động xấu của con người.
• Tỷ lệ diện tích hệ sinh thái cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên.
• Điều kiện giao thông tương đối thuận lợi.
II.1.1.5.2Khu bảo tồn thiên nhiên (khu dự trữ tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh):
Là vùng đất tự nhiên được thành lập nhằm mục đích đảm bảo diễn thế tự nhiên và đáp
ứng các yêu cầu sau:
• Là vùng đất tự nhiên có dự trữ tài nguyên thiên nhiên và có giá trị đa dạng sinh học cao.
• Có giá trị cao về khoa học, giáo dục, du lịch.
• Có các loài động thực vật đặc hữu hoặc là nơi cư trú, ẩn náu, kiếm ăn của các loài động
vật hoang dã quý hiếm.
• Đủ rộng để chứa được một hay nhiếu hệ sinh thái, tỷ lệ cần bảo tồn trên 70%.
II.1.1.5.3.Khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường:
Là khu vực gồm một hay nhiều cảnh quan có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu có giá trị văn hóa-
lịch sử nhằm phục vụ các hoạt động văn hóa, du lịch hoặc để nghiên cứu, bao gồm:
• Khu vực có các thắng cảnh trên đất liền, ven biển hay hải đảo.
• Khu vực có di tích lịch sử-văn hóa đã được xếp hạng.
II.1.1.5.4.Nguyên tắc bảo vệ và phát triển:
• Phải đảm bảo sự phát triển tự nhiên của rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và cảnh quan
của khu rừng
• Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên phải xác định số phân khu bảo vệ nghiêm ngặt,
phân khu phục hồi sinh thái và phân khu hành chính dịch vụ. Ba phân khu này gọi là
vùng lõi của rừng đặc dụng ngoài ra còn có vùng đệm.
• Mọi hoạt động của rừng đặc dụng phải được phép của chủ rừng và phải tuân theo quy
chế quản lý rừng.
II.1.1.5.5.Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt:
Là khu vực được đảm bảo toàn nguyên vẹn và quản lý bảo vệ chặt chẽ nhằm theo dõi
diễn biến tự nhiên, nghiêm cấm mọi hành vi làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu
rừng. Cơ chế bảo vệ: nhà nước cẩm hoàn toàn các hoạt động sau:
• Làm thay đổi cảnh quan tự nhiên.
• Làm ảnh hưởng thay đổi đến đời sống tự nhiên của các loái động thực vật hoang dã.
• Cấm thả và nuôi trồng các loài động thực vật từ nơi khác tới.
• Cấm khai thác tài nguyên sinh vật.
• Cấm chăn thả gia súc.
• Cấm gây ô nhiễm môi trường.
• Cấm mang hóa chất độc hại vào rừng, đốt lửa trong rừng, ven rừng
II.1.1.6. Rừng ngập mặn:
Các vỉa san hô và cỏ biển còn nguyên vẹn có thể làm giảm nhẹ hoặc tiêu tan các đợt sóng
thần cao 15 mét. Một nghiên cứu của Nhật Bản cho thấy, một Rừng ngập mặn có chiều
rộng 100 mét có thể làm giảm 50% chiều cao của sóng triều và giảm 50% năng lượng của
sóng. Trong đợt động đất và sóng thần ngày 26 tháng 12 năm 2004, tại đảo Pulau Sêmplu
của Inđônêxia nằm gần tâm ngoài của trận động đất, chỉ có 100 người bị chết vì những
người dân trên đảo đã học được kinh nghiệm chạy trốn lên vùng đất cao và những vùng
có rừng ngập mặn bao quanh...
Việt Nam với bờ biển dài 3260 km, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm thường
xuyên phải hứng chịu những cơn bão và triều cường gây thiệt hại lớn. Trước đây, nhờ có
các dãy rừng ngập mặn tự nhiên và những dãy rừng được trồng ở các vùng cửa sông, ven
biển nên đê điều ít khi bị vỡ.
Nhưng gần đây do việc phá rừng ngày càng tăng, nạn lở đất, lũ lụt xảy ra nhiều nên cuộc
sống của cộng đồng dân cư ven biển ngày càng bị đe doạ. Ngay trong năm 2005, Việt
Nam đã phải gánh chịu những thiệt hại to lớn về người, tài sản và cơ sở hạ tầng. Nhiều
đoạn đê biển bị vỡ hoặc sạt lở nghiêm trọng. Nhưng sau những thiệt hại mà bão số 2, bão
số 6 và bão số 7 gây ra, nhiều người dân ở vùng biển đều có nhận xét rằng: ở những khu
vực có rừng ngập mặn, đê biển không hề sạt lở.
Tại tỉnh Thanh Hoá, bão số 7 đã gây những thiệt hại nghiêm trọng, nhưng cũng qua cơn
bão này, người dân càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của rừng ngập mặn. Bà Viên
Thị Hoa - Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Thanh Hoá nói: "Sau bão số 7, chúng tôi có dịp đi
một số tỉnh nằm trong dự án trồng rừng ngập mặn do Hội Chữ thập đỏ Đan Mạch và hội
Chữ thập đỏ Nhật Bản tài trợ. Tận mắt chứng kiến những đoạn đê vỡ, những khu nhà
ngập trong nước và có dịp so sánh với những quãng đê lành lặn được che chở bởi những
cánh rừng ngập mặn hoặc những khoảng tre gai... chúng tôi dễ dàng nhận thấy một điều:
ở đâu có rừng ngập mặn, sức tàn phá của sóng biển bị suy giảm. Rừng ngập mặn là vành
đai xanh góp phần quan trọng trong việc phòng chống và giảm thiểu thiệt hại thiên tai".
Giáo sư-Tiến sĩ Phan Nguyên Hồng - một chuyên gia trong lĩnh vực rừng ngập mặn cho
biết: "Rừng ngập mặn có ý nghĩa to lớn trong việc phòng vệ đê chống xói lở ở vùng ven
biển. Nếu chỗ nào không có rừng ngập mặn thì khi có bão dễ bị phá. Ở các nước có Rừng
ngập mặn, họ rất quan tâm giúp đỡ các nước không có rừng ngập mặn như Nhật Bản, Hà
Lan. Một số nước Bắc Âu muốn Việt Nam phát triển rừng ngập mặn để bảo vệ dân,
người ta đã đầu tư nhiều tiền cho chúng ta phục hồi rừng, nhưng một số địa phương lại có
chủ trương phá rừng đi để làm đầm tôm, vì lợi ích trước mắt không tính đến hậu quả lâu
dài. Hậu quả cơn bão số 7, số 6 là những bài học rất đắt giá cho chúng ta".
Chúng ta đều biết rằng, ngay sau trận sóng thần và động đất xảy ra ở khu vực Nam Á
cuối năm ngoái, rất nhiều hội thảo khoa học về thảm hoạ thiên tai đã được tổ chức và tầm
quan trọng của rừng ngập mặn trong việc phòng ngừa và giảm nhẹ thiên tai đã được các
quốc gia đặc biệt quan tâm, chú ý. Bài học nhãn tiền từ sự thiệt hại về người, về tài sản ở
Thái Lan - đất nước quá quan tâm đến việc phát triển kinh doanh du lịch mà chưa tính
đến sự tổn thất phải trả giá đắt vì thiên tai dường như chưa đủ vì ở một số địa phương vẫn
còn tình trạng phá rừng làm đầm nuôi trồng thuỷ sản.
II.1.1.7. Rừng sản xuất:
Bao gồm các loại rừng sử dụng để sản xuất kinh doanh gỗ, đặc sản rừng, động vật rừng
và kết hợp bảo vệ môi trưòng sinh thái
Rừng sản xuất 4,717 triệu ha, chiếm 40,73% (năm 2000)
Quyết định 147/2007/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành mới đây thực sự là
động lực để thúc đẩy các chủ rừng tham gia trồng rừng sản xuất, đảm bảo bình quân mỗi
năm có thêm 250.000ha (bao gồm cả diện tích trồng lại rừng sau khai thác).
Tổng mức đầu tư để thực hiện chương trình này khoảng 40.000 tỷ đồng, trong đó huy
động các thành phần kinh tế khoảng 31.000 tỷ đồng, vốn NSNN 9.000 tỷ đồng.
Cụ thể, ở các xã đặc biệt khó khăn (theo QĐ 164/2006/QĐ-TTg), bà con được hỗ trợ 3
triệu đồng/ha khi trồng các loài cây sản xuất gỗ lớn (khai thác sau 10 năm tuổi), cây bản
địa trên đất trống, đồi núi trọc, hay 2 triệu đồng/ha với các loài cây sản xuất gỗ nhỏ.
Riêng chủ rừng trồng rừng tại các xã biên giới được hỗ trợ thêm 1 triệu đồng/ha, ngoài
mức hỗ trợ trên.
Hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng là đồng bào dân tộc thiểu số nhưng không thuộc xã
đặc biệt khó khăn sẽ được hỗ trợ 2 triệu đồng/ha nếu trồng rừng sản xuất. Nếu trồng rừng
khảo nghiệm (giống mới, trên vùng đất mới) còn được trợ vốn bằng 60% giá thành trồng
rừng được duyệt.
Khi trồng rừng, chủ rừng được hưởng toàn bộ sản phẩm từ rừng trồng. Hơn nữa, khi khai
thác, sản phẩm được tự do lưu thông và được hưởng các chính sách ưu đãi về miễn giảm
thuế và tiền sử dụng đất theo quy định hiện hành. Chủ rừng chỉ phải nộp cho ngân sách
xã 80kg thóc/ha/chu kỳ rừng trồng khi khai thác để xây dựng quỹ phát triển rừng của xã
và quỹ phát triển rừng thôn, bản, trong đó trích nộp cho mỗi quỹ là 50%.
Trường hợp mất rừng do nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, sâu bệnh
được xác định theo đúng quy định của Bộ NN-PTNT, người trồng rừng không phải hoàn
trả số tiền đã nhận hỗ trợ.
Quyết định 147 cũng nêu rõ, các rừng giống, vườn giống cũng được hỗ trợ tối đa là 30%
tổng diện tích được quy hoạch. Mức hỗ trợ tối đa từ ngân sách nhà nước là 1,5 tỷ đồng
cho một trung tâm giống.
Đối với các DN, Nhà nước chỉ hỗ trợ đối với nhà máy sản xuất ván ghép thanh kết hợp
với ván dăm hoặc ván ghép thanh kết hợp với ván MDF để tận dụng nguyên liệu. Nhà
máy không được dời địa bàn đăng ký sản xuấttrong vòng 20 năm.
Nhà máy xây dựng có quy mô công suất thực tế tối thiểu 10.000 m3/năm; thiết bị máy
mới 100%; DN phải có diện tích rừng sản xuất đã trồng đến thời kỳ được thu hoạch bảo
đảm cung cấp nguyên liệu cho nhà máy tối thiểu đạt 50% công suất thiết kế, hoặc nơi đặt
nhà máy đã có vùng nguyên liệu bảo đảm cung cấp cho nhà máy đạt 100% công suất thiết
kế cũng được hỗ trợ từ nguồn ngân sách này, kể cả các DN ngoài quốc doanh.
Nếu là DNNN, Chính phủ chỉ hỗ trợ cơ sở chế biến gỗ đã được cổ phần hóa với phần vốn
nhà nước chiếm không quá 50%.
II.2.Vai trò của rừng:
• Cung cấp lâm sản, đặc sản phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội, trước hết là gỗ và lâm
sản ngoài gỗ
• Cung cấp động vât, thựcvật là đặc sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân
cư.
• Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, cho xây dựng cơ bản.
• Cung cấp dược liệu quý phục vụ nhu cầu chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cho con
người.
• Cung cấp lương thực, nguyên liệu chế biến thực phẩm...phục vụ nhu cầu đời sống xã
hội...
+Vai trò phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái
• Phòng hộ đầu nguồn, giữ đất, giữ nước, điều hòa dòng chảy, chống xói mòn rửa trôi
thoái hóa đất, chống bồi đắp sông ngòi, hồ đập, giảm thiểu lũ lụt, hạn chế hạn hán, giữ
gìn được nguồn thủy năng lớn cho các nhà máy thủy điện.
• Phòng hộ ven biển, chắn sóng, chắn gió, chống cát bay, chống sự xâm nhập của nước
mặn...bảo vệ đồng ruộng và khu dân cư ven biển...
• Phòng hộ khu công nghiệp và khu đô thị, làm sạch không khí, tăng dưỡng khí, giảm
thiểu tiếng ồn, điều hòa khí hậu tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển.
• Phòng hộ đồng ruộng và khu dân cư: giữ nước, cố định phù sa, hạn chế lũ lụt và hạn
hán, tăng độ ẩm cho đất...
• Bảo vệ khu di tích lịch sử, nâng cao giá trị cảnh quan và du lịch...
• Rừng còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là nơi dự trữ
sinh quyển bảo tồn các nguồn gen quý hiếm.
+Vai trò xã hội
Là nguồn thu nhập chính của đồng bào các dân tộc miền núi, là cơ sở quan trọng để phân
bố dân cư, điều tiết lao động xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo cho xã hội...
+Vai trò của rừng trong cuộc sống
• Nếu như tất cả thực vật trên Trái Đất đã tạo ra 53 tỷ tấn sinh khối (ở trạng thái khô tuyệt
đối là 64%) thì rừng chiếm 37 tỷ tấn (70%). Và các cây rừng sẽ thải ra 52,5 tỷ tấn (hay
44%) dưỡng khí để phục vụ cho hô hấp của con người, động vật và sâu bọ trên Trái Đất
trong khoảng 2 năm (S.V. Belov 1976).
• Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt Trái Đất, giữ vai trò to lớn đối
với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước,
nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm.
• Một ha rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 - 500 kg, 16 tấn oxy ( rừng thông
30 tấn, rừng trồng 3 - 10 tấn).
• Mỗi người một năm cần 4.000kg O2 tương ứng với lượng oxy do 1.000 - 3.000 m² cây
xanh tạo ra trong một năm.
II.2.TÌNH TRẠNG KHAI THÁC TÀI NGUYÊN RỪNG VÀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ.
II.2.1.Hiện trạng rừng Việt Nam:
Việt Nam là một nước nhiệt đới nằm ở vùng Đông Nam Á, có tổng diện tích lãnh thổ
khoảng 331.700 km2, kéo dài từ 9- 23 độ vĩ bắc, trong đó diện tích rừng và đất rừng là 20
triệu ha, chiếm khoảng 20% diện tích toàn quốc (Tổng cục thống kê năm 1994).
-Trước đây, rừng chiếm diện tích khoảng 60 triệu km2.
-Đến năm 1958 chỉ còn 44,05 triệu km2 (chiếm khoảng 33% diện tích đất liền).
-Năm 1973 còn 37,37 triệu km2.
Hiện nay diện tích rừng ngày càng giảm, chỉ còn khoảng 29 triệu km2.
+ Ở Việt Nam:
-Vào năm 1943 có khoảng 14 triệu ha, tỉ lệ che phủ 43% diện tích.
-Năm 1976 còn 11 triệu ha, tỉ lệ che phủ còn 34%.
-Năm 1985 còn 9,3 triệu ha, tỉ lệ che phủ còn 30%.
-Năm 1995, còn 8 triệu ha và tỉ lệ che phủ còn 28%.
Ngày nay chỉ còn 7,8 triệu ha, chiếm 23,6% diện tích, tức là dưới mức báo động cân bằng
3%.
+Còn trên thế giới:
-Tổng số rừng có trữ lượng gỗ trên 50 m3/ha chỉ có khoảng 2,8 tỉ ha, còn lại là rừng thưa
khoảng 1,2 tỉ ha.
-Phần lớn diện tích rừng kín phân bố ở vùng nhiệt đới.
II.2.2. Tình Hình Chung Về Nạn Phá Rừng:
+ Chặt phá rừng bừa bãi:
-Từ 7000 năm trước việc chặt phá rừng cho phát triển nông nghiệp được xác định ở
Trung và Nam Phi, còn ở Ấn Độ được xác định vào 9000 năm trước. Tuy nhiên, vào
những năm trước việc chặt phá rừng làm nương rẫy theo quy mô nhỏ nên không tác động
xấu đến môi trường.
- Ở những vùng nhiệt đới việc chặt phá rừng xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XIX
do mở rộng diện tích trồng cây nông nghiệp và công nghiệp.
-Theo FAO từ năm 1950 rừng nhiệt đới mất khoảng 50%, nhiều nhất là ở Trung Mỹ
(60%), Trung Phi (52%), Nam Phi và Đông Nam Á tương ứng là 37 và 38%.
- Đến những năm đầu của thế kỷ 80 rừng nhiệt đới bị mất theo tốc độ 113000 km2/năm,
trong đó có khoảng 3/4 rừng kín. Tốc độ mất rừng trong những năm gần đây càng ngày
càng gia t