Tóm tắt: Thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước trong thời gian qua
của Đảng cho phép khẳng định, việc quán triệt phép biện chứng duy vật vào
việc hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới là một trong những điều
kiện bảo đảm nâng cao tính hiệu quả lãnh đạo của Đảng và sự phát triển của
đất nước. Muốn đạt được điều đó, Đảng ta phải không ngừng nâng cao hiệu
quả vận dụng phép biện chứng duy vật trong quá trình lãnh đạo cách mạng
bằng cách Đảng ta không ngừng trau dồi, nâng cao năng lực nhận thức về mâu
thuẫn gắn với thực tiễn của đổi mới.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 41 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 30
MỘT SỐ MÂU THUẪN ĐẶT RA VỀ VIỆC VẬN DỤNG PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT CỦA ĐẢNG TA TRONG XÂY DỰNG VÀ
THỰC HIỆN ĐƢỜNG LỐI ĐỔI MỚI
ThS. Nguyễn Thành Đạo
Khoa Lý Luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước trong thời gian qua
của Đảng cho phép khẳng định, việc quán triệt phép biện chứng duy vật vào
việc hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới là một trong những điều
kiện bảo đảm nâng cao tính hiệu quả lãnh đạo của Đảng và sự phát triển của
đất nước. Muốn đạt được điều đó, Đảng ta phải không ngừng nâng cao hiệu
quả vận dụng phép biện chứng duy vật trong quá trình lãnh đạo cách mạng
bằng cách Đảng ta không ngừng trau dồi, nâng cao năng lực nhận thức về mâu
thuẫn gắn với thực tiễn của đổi mới.
Từ khóa: Nhận thức về mâu thuẫn.
1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu vận dụng
phép biện chứng duy vật với việc chƣa
thực sự quán triệt yêu cầu đó trong
quá trình đổi mới.
Xét về nguyên tắc, một khi chúng
ta thừa nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động
cách mạng thì việc quán triệt những yêu
cầu cơ bản của phép biện chứng duy vật
trong mọi hoạt động xây dựng và chỉ
đạo thực hiện đường lối, nghị quyết của
Đảng phải được coi là công việc thường
xuyên.
Chúng ta đã từng có những bài học
lớn về những thành công lẫn những thất
bại trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội theo mô hình cũ. Những thành công,
những thất bại đó đều liên quan trực tiếp
đến việc Đảng ta vận dụng phép biện
chứng duy vật trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội như thế nào. Nếu
khi nào những yêu cầu cơ bản của phép
biện chứng duy vật được quán triệt thì
trong hoạch định cũng như chỉ đạo thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước đạt được những thành quả
to lớn, hoạt động sáng tạo của Đảng và
nhân dân ta được khẳng định. Ngược lại,
nếu một chủ trương, nghị quyết nào đó ra
đời một cách vội vàng, với giải pháp
chung chung xa rời thực tiễn... thì khi đó
chủ trương, nghị quyết của Đảng không
thể thực hiện được, đồng thời tạo ra sự
băn khoăn, nghi ngờ của dân đối với
năng lực của Đảng và Nhà nước.
Đành rằng, những yếu kém cũng
như những sơ hở trong hoạch định và tổ
chức thực hiện đường lối đổi mới có
những nguyên nhân khách quan và chủ
quan. Nhưng, trong số nguyên nhân đó
không thể không kể đến là sự vận dụng
phép biện chứng duy vật của Đảng ta
vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện
đường lối đổi mới có lúc, có nơi còn
chưa thật khoa học. Bởi lẽ, một khi xác
định Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó
hạt nhân là phép biện chứng duy vật làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 31
hành động cách mạng của mình thì thực
tiễn những hạn chế về thành tựu phát
triển kinh tế - xã hội đều liên quan trực
tiếp đến trách nhiệm lãnh đạo và hoạt
động của Đảng. Trong đó có việc chưa
vận dụng một cách khoa học vai trò to
lớn vốn có của phép biện chứng duy vật
với tư cách là cơ sở phương pháp luận
phổ biến cho mọi hoạt động của Đảng,
trong đó có hoạt động xây dựng và chỉ
đạo thực hiện các quyết định chính trị?
Một trong những sai lầm trong lĩnh
vực tư tưởng, lý luận của Đảng ta thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô
hình cũ mà Đại hội lần thứ VI của Đảng
đã chỉ ra là: sự lạc hậu về nhận thức lý
luận và các quy luật đang vận động
trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh chủ
quan duy ý chí, giản đơn hóa, nóng vội
chạy theo nguyện vọng chủ quan. Có thể
nói, những căn bệnh này của Đảng ta
chưa được khắc phục triệt để trong thời
gian đổi mới vừa qua. Những căn bệnh
đó thực chất, xét về mặt tư tưởng là sự
xa rời phép biện chứng duy vật, hoặc
chưa thực sự quán triệt phép biện chứng
duy vật trong quá trình đổi mới đất
nước. Nếu phép biện chứng duy vật
được Đảng ta chú trọng phát huy sức
mạnh của nó thì chắc chắn rằng chúng ta
sẽ hạn chế những sai lầm chủ quan trong
hoạch định và chỉ đạo thực hiện đường
lối đổi mới.
2. Mâu thuẫn giữa việc đòi hỏi phải
vận dụng sáng tạo phép biện chứng
duy vật với sự thiếu hụt của Đảng ta
trong việc nhận thức đúng đắn sâu sắc
nội dung, thực chất phép biện chứng
duy vật.
Xét về nguyên tắc, việc vận dụng
lý luận vào thực tiễn chỉ đạt hiệu quả khi
lý luận đó được nhận thức sâu sắc, thấm
sâu vào trong đầu óc của con người.
Ngược lại, một khi lý luận chưa được
nhận thức sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn thì
con người không thể vận dụng một cách
nhuần nhuyễn vào thực tiễn.
Trong thực tiễn cải tạo xã hội, con
đường gần nhất dẫn người ta đến chỗ
vấp ngã là do thiếu sự chỉ dẫn của lý
luận, phương pháp luận khoa học. Lý
luận là "kim chỉ nam" cho hoạt động, soi
đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lênin
khẳng định: Không có lý luận cách
mạng thì cũng không thể có phong trào
cách mạng. Lý luận khoa học làm cho
con người trong hoạt động của mình trở
nên chủ động, hạn chế tình trạng mò
mẫm. Vì vậy, Hồ Chí Minh ví "không có
lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà
đi" [7, tr. 234]. Cũng do thiếu lý luận và
phương pháp luận khoa học mà trong
hoạt động thực tiễn, con người dễ sa ngã
vào bệnh chủ quan, bệnh giáo điều, bệnh
kinh nghiệm và sự tự ti, v.v... và v.v...
Theo nhận xét của nhiều nhà khoa
học thì, nếu không dừng lại ở từng cá
nhân, nhìn chung tư duy lý luận của cán
bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay còn
những hạn chế đáng kể.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau
nên trong suốt thời kỳ cách mạng giải
phóng dân tộc cho đến trước đổi mới,
hoạt động nghiên cứu lý luận của cán bộ,
đảng viên còn rất hạn chế. Bước vào đổi
mới, hoạt động nghiên cứu lý luận được
đẩy mạnh hơn, nhưng nhìn chung hiệu
quả thu được còn ở mức khiêm tốn. Hoạt
động nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin,
trong đó có phép biện chứng duy vật cũng
trong tình hình chung đó. Hơn nữa, khoa
học Mác - Lênin nói chung, phép biện
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 32
chứng duy vật nói riêng với tính đặc thù
về nội dung và hình thức vốn đã rất khó
thấu hiểu ngay cả đối với những chuyên
gia chuyên ngành thì lại càng khó khăn
đối với những cán bộ, đảng viên trong
những lĩnh vực chuyên biệt khác. Đảng
ta xác nhận "Trình độ kiến thức, năng
lực lãnh đạo của Đảng có mặt còn chưa
theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới"
[1, tr. 44]. Do đó Đảng ta chỉ ra biện
pháp khắc phục là "mỗi cán bộ, đảng
viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, chủ
chốt, phải gương mẫu học tập, rèn luyện,
phấn đấu nâng cao trình độ về mọi
mặt..." [2, tr. 50].
Nhìn chung, cùng với đổi mới và vì
đổi mới, Đảng ta nói chung và cán bộ,
đảng viên của Đảng nói riêng đã cố gắng
nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin,
trong đó có phép biện chứng duy vật,
nhằm tăng cường sự linh hoạt trong xử
lý những vấn đề mà cuộc sống đặt ra.
Tuy nhiên, mặc dù có sự cố gắng đó,
nhưng nhìn chung mức độ nắm bắt khoa
học Mác - Lênin nói chung, phép biện
chứng duy vật nói riêng của Đảng ta còn
chưa đáp ứng được sự nghiệp đổi mới,
đòi hỏi phải cố gắng nhiều hơn nữa.
Thực tiễn lãnh đạo đổi mới đất
nước cũng đã làm cho Đảng ta nhận thức
rõ hơn về vai trò của phép biện chứng
duy vật cũng như nhận thấy những thiếu
hụt của mình trong quá trình vận dụng
phép biện chứng duy vật và Đảng có trách
nhiệm sửa chữa những yếu kém của mình.
"Chúng ta không sợ sai lầm và khuyết
điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa
chữa sai lầm và khuyết điểm" [3, tr. 38].
Một trong những giải pháp nhằm khắc
phục những hạn chế trên đây được Đại
hội lần thứ IX của Đảng chỉ ra: "Từ nay
đến năm 2005, phần lớn cán bộ, lãnh
đạo chủ chốt từ cấp huyện trở lên học
xong chương trình cao cấp về lý luận
chính trị và có trình độ đại học về một
chuyên ngành nhất định" [4, tr. 142].
Mặc dù nếu chỉ với một giải pháp này
thì chưa đủ để Đảng ta nâng cao trình độ
lý luận cũng như khả năng vận dụng
sáng tạo phép biện chứng duy vật của
mình. Nhưng, chúng ta mong rằng giải
pháp khả thi trên đây của Đảng ta sẽ
được triển khai nghiêm túc trên thực tế,
góp phần nâng cao trình độ lý luận của
Đảng ta nói chung, góp phần nâng cao
hiệu quả việc vận dụng phép biện chứng
duy vật trong sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay nói riêng.
3. Mâu thuẫn giữa việc vận dụng phép
biện chứng duy vật với những huynh
hƣớng tƣ tƣởng sai lầm trong Đảng.
Trên thực tế, như đã đề cập, trong
hoạch định và chỉ đạo đường lối, nghị
quyết, chính sách đổi mới còn nhiều sai
sót mang nặng thói quen trì trệ trong tư
duy. Đảng ta chủ trương thiết lập cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế mới này với tư cách là cái khẳng
định, nó phủ định cơ chế cũ - cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp, đồng thời là sự
phủ định đối với thói quen tư duy kiểu cũ
- sản phẩm của chính cơ chế cũ. Nhưng
trên thực tế, không những cơ chế cũ đã
được hoàn toàn xóa bỏ mà ngược lại, như
đã đề cập, xu hướng quay trở lại cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp ở một mức
độ nào đó vẫn đang tồn tại ở nước ta
hiện nay. Chừng nào chưa loại bỏ hoàn
toàn cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
ra khỏi đời sống kinh tế - xã hội thì
chừng ấy những sản phẩm của nó, trong
đó có thói quen tư duy "kiểu cũ" còn
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 33
chưa được khắc phục hoàn toàn. Thực
tiễn đã chứng tỏ, chủ nghĩa chủ quan
duy ý chí không những đã dẫn đến nhiều
sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội mà còn là trở
ngại cho việc nâng cao năng lực tư duy
biện chứng khoa học, khả năng vận dụng
linh hoạt phép biện chứng duy vật vào
việc phát triển đất nước. Những hạn chế,
những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội
hiện thực, do điều kiện lịch sử cũng như
sai lầm chủ quan gây nên cũng được
phản ánh vào tư duy lý luận, chi phối
quá trình phát triển đất nước. Thực tế
cũng đã chứng tỏ, cơ chế quản lý kinh tế
và quản lý xã hội mang tính chất tập
trung quan liêu là trở lực to lớn đối với
sự phát triển năng lực sáng tạo của con
người, của tư duy lý luận. Cơ chế đó
cũng kéo theo thói quen "lười suy nghĩ"
hành động theo lối cảm tính, thụ động,
khi xuất hiện tình huống, những người
làm công tác lãnh đạo, chỉ đạo khó có
thể nhanh nhạy trong phân tích thấu đáo
vấn đề, và do đó không thể có giải pháp
tích cực làm thay đổi tình hình theo
chiều hướng phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn. Hơn nữa, như V.I. Lênin đã
viết:
Những quan hệ kinh tế lạc hậu hay
chậm phát triển thường xuyên dẫn tới
chỗ là, trong phong trào công nhân, xuất
hiện những phần tử chỉ lĩnh hội được
một số khía cạnh của chủ nghĩa Mác,
một số bộ phận riêng biệt của thế giới
quan mới, hoặc một số khẩu hiệu và yêu
sách riêng biệt, mà lại không thể đoạn
tuyệt dứt khoát với tất cả những truyền
thống của thế giới quan tư sản nói chung
và thế giới quan dân chủ - tư sản nói
riêng [5, tr. 77].
Chúng ta cũng biết rằng, chủ nghĩa
chủ quan trong tư duy chính trị và bệnh
giáo điều, bệnh kinh nghiệm trong hoạt
động chính trị thực tiễn là cản trở trực
tiếp và chủ yếu đối với hoạt động chính
trị thực tiễn. Đến lượt mình, hoạt động
chính trị thực tiễn đã trở thành một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự khủng
hoảng về kinh tế - xã hội ở nước ta thời
kỳ trước đổi mới. Ngày nay, trong sự
nghiệp đổi mới, chủ nghĩa chủ quan,
bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm vẫn
chưa hoàn toàn được khắc phục.
Có thể nói, chừng nào chủ nghĩa
chủ quan, bệnh giáo điều và bệnh kinh
nghiệm... chưa được khắc phục hoàn
toàn thì chừng đó còn cản trở việc vận
dụng phép biện chứng duy vật trong quá
trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của đổi mới.
Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh
rằng, sự nghiệp đổi mới của chúng ta
càng đi vào chiều sâu thì càng làm xuất
hiện những vấn đề phức tạp, đòi hỏi
phải được lý giải sáng tỏ về mặt lý luận
làm cơ sở cho việc hoạch định đường
lối, chính sách của đổi mới. Hơn nữa,
đặc điểm của thời đại ngày nay là sự
tương tác giữa hai quá trình cách mạng
- cách mạng khoa học công nghệ và
cách mạng xã hội, đang tạo nên sự biến
đổi rất năng động của đời sống thế
giới. Đối với nước ta, cuộc cách mạng
công nghệ đang mở ra một cơ hội lớn
để chúng ta "đi tắt, đón đầu". Nhưng
cũng chính cuộc cách mạng đó đem lại
cho chúng ta những mâu thuẫn mới
trong việc lựa chọn công nghệ sao cho
phù hợp, đồng thời phải tính đến những
hậu quả mà có thể cách mạng khoa học
công nghệ đem lại.
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 34
Những đặc điểm trên đây là hiện
thực khách quan của đổi mới. Bản thân
hiện thực đó sẽ còn tiếp tục vận động
vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của tư
duy không biện chứng. Tính biện chứng
của sự tiến hóa xã hội diễn ra trong
những mâu thuẫn và thông qua các mâu
thuẫn của sự nghiệp đổi mới cũng là một
trong những nguồn gốc nảy sinh những
khuynh hướng sai lầm khác nhau, thậm
chí đi tới "xét lại" trong không ít cán bộ,
đảng viên như Đảng ta đã từng cảnh báo.
Do quá quen thuộc trong môi trường tập
trung quan liêu, bao cấp, ưa hưởng thụ
hơn là lao động, cống hiến, lại trì trệ bảo
thủ trong việc rèn luyện trong thực tiễn,
lười biếng trong tư duy lý luận, đứng
trước những khó khăn tạm thời của đất
nước mà sự nghiệp đổi mới đang phải
trải qua, những người này dễ dẫn đến
chỗ sa ngã, xét lại.
Theo nhận xét của Ban Tư tưởng -
Văn hóa Trung ương thì: Một bộ phận
cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng
cách mạng, mơ hồ, dao động mục tiêu
xã hội chủ nghĩa. Tình trạng nhạt chính
trị, ít quan tâm đến chính trị, nặng kinh
tế, làm ăn, vun vén cá nhân diễn ra ở
không ít cán bộ, đảng viên.
Một số cán bộ, đảng viên có những
biểu hiện cơ hội dưới nhiều hình thức.
Trong đó có người bác bỏ toàn bộ, hoặc
từng bộ phận, hoặc bác bỏ cái họ gọi là
"vai trò độc tôn chân lý" của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đặt ngang hàng chủ nghĩa
Mác - Lênin với các học thuyết, lý luận
chính trị, xã hội khác; quy kết sự lãnh
đạo của Đảng là "chế độ đảng trị", có
người công khai "sám hối", có kẻ "chia
tay ý thức hệ", đòi đa nguyên, tự do, dân
chủ tuyệt đối, phản đối nguyên tắc tập
trung dân chủ, chủ trương tư nhân hóa
nền kinh tế... Xong thực chất, quan điểm
của số này là quan điểm tư sản đang
được một số thế lực dùng để chống lại
chúng ta.
Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
đã chỉ ra: Một số ít cán bộ, đảng viên, có
cả một số cán bộ hoạt động lâu năm, do
bất mãn cá nhân, cơ hội, hoặc do thiếu
thông tin, nhận thức không đầy đủ, được
nước ngoài tâng bốc, tạo dựng, đã tự do
phát tán tài liệu, truyền bá những quan
điểm sai trái với Cương lĩnh, Điều lệ
Đảng, Hiến pháp Nhà nước. Số này
không nhiều nhưng rất nguy hại.
Thực tiễn đấu tranh giải phóng dân
tộc, nhất là công cuộc đấu tranh bảo vệ
và xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi
Đảng ta phải nắm vững lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trước hết, phải thấm nhuần thế giới
quan duy vật và phương pháp biện chứng
khoa học của nó (cả những thành công
cũng như những mặt còn hạn chế trong
quá trình đổi mới chứng tỏ sự cần thiết
phải kiên quyết đấu tranh chống chủ
nghĩa xét lại), đồng thời khắc phục chủ
nghĩa chủ quan, bệnh giáo điều và bệnh
kinh nghiệm trong việc vận dụng phép
biện chứng duy vật vào thực tiễn đổi mới
đất nước. Chúng ta không thể đổi mới
thành công nếu xa rời phép biện chứng
duy vật, rơi vào chủ nghĩa chủ quan,
bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm và
chủ nghĩa xét lại. Chủ nghĩa chủ quan và
bệnh giáo điều còn dẫn đến sự vận dụng
lý luận theo lối chủ nghĩa chiết trung,
mà đó lại là cách xuyên tạc chủ nghĩa
Mác - Lênin của chủ nghĩa cơ hội.
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 35
Trong việc xuyên tạc chủ nghĩa
Mác theo cách cơ hội chủ nghĩa thì việc
dùng chủ nghĩa chiết trung để xuyên tạc
phép biện chứng là dễ đánh lừa quần
chúng hơn cả, nó làm cho quần chúng
tựa hồ như được thỏa mãn; nó làm ra vẻ
xét đến mọi phương diện của quá trình,
mọi xu hướng của sự phát triển, mọi
ảnh hưởng có tính chất mâu thuẫn...
nhưng kỳ thực, nó không đưa ra được
một quan niệm nào hoàn chỉnh và cách
mạng về quá trình phát triển của xã hội
[6, tr. 27].
Đương nhiên, những vấn đề mà sự
nghiệp đổi mới đang đặt ra không thể giải
quyết được chỉ bằng phép biện chứng duy
vật và bản thân việc Đảng ta vận dụng
phép biện chứng duy vật trong quá trình
đổi mới đất nước cũng cần được đổi mới
để phát triển. Việc tìm giải pháp cho
những vấn đề mà sự nghiệp đổi mới đất
nước cũng như việc nâng cao hiệu quả
vận dụng phép biện chứng duy vật của
Đảng ta không thể không liên quan đến
những giải pháp thích hợp.
4. Kết luận
Nhờ vận dụng sáng tạo phép biện
chứng duy vật, Đảng ta đã thành công
trong những quyết định chính trị của
mình liên quan đến sự phát triển của đất
nước với những nội dung lớn như sau:
- Đổi mới quan niệm về chủ nghĩa
xã hội và ngày càng làm sáng tỏ con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
làm cơ sở cho mọi hoạch định trên những
lĩnh vực lớn của công cuộc đổi mới.
- Nhờ vận dụng phép biện chứng
mà Đảng ta đã đi đến quyết định đổi mới
căn bản và toàn diện tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Quyết định này rất quan
trọng bởi nó tránh cho Đảng ta những sai
lầm về chính trị, đồng thời phản ánh
đúng những nội dung phải đổi mới; từ
đó mở ra định hướng cho sự phát triển
toàn diện, sâu sắc và triệt để trên mọi
bình diện của đất nước.
- Kết hợp biện chứng giữa đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, trong
đó đổi mới kinh tế là bước đột phá. Dựa
trên sự phát triển của kinh tế mà từng
bước đổi mới chính trị. Sự kết hợp hài
hòa này phản ánh đúng đắn hiện thực
của những vấn đề hệ trọng của đất nước.
Thực tế đổi mới ở nước ta đã chứng tỏ
sự lựa chọn trên đây của Đảng ta là sự
lựa chọn duy nhất đúng đắn.
- Phát triển kinh tế đi đôi với giải
quyết các vấn đề xã hội trong từng bước
và trong cả quá trình. Trong điều kiện cụ
thể của nước ta, nếu chúng ta lựa chọn
hoặc là ưu tiên kinh tế, hoặc ưu tiên xã hội
đều sai lầm, đều chệch định hướng xã hội
chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Phát triển kinh tế đi đôi với giải
quyết những vấn đề xã hội là một nội
dung chủ yếu xuyên suốt của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, đồng thời là biểu hiện
tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1991. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1996. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 36
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1996. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1999. Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5]. V.I. Lênin. 1981. Toàn tập, tập 20, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
[6]. V.I. Lênin. 1976. Toàn tập, tập 33, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
[7]. Hồ Chí Minh. 1996. Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.