Một số vấn đề địa kỹ thuật liên quan đến các thành tạo sét - vôi ở Việt Nam

Some geotechnical problems concern with clay– lime form in Vietnam Abstract: Claystone – siltstone rock that contains lime is rather popular at many regions in Viet Nam. It usually contains mineral clay, calcite and pyrite. Anhydrite and gypsum are often in products of weathered claystone – siltstone rock. These minerals can be transition in both direction and accompany with expansion and shrinkage phenomenon, dissolution phenomenon, from there they can effect on stability of project

pdf13 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề địa kỹ thuật liên quan đến các thành tạo sét - vôi ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Một số vấn đề địa kỹ thuật liên quan đến các thành tạo sét- vôi ở Việt Nam Đặng Hữu Diệp* Liên Hiệp Địa Chất Công Trình – Xây Dựng và Môi Trường 34/31 cư xá Lữ Gia, Phường 15, Quận 11, TP. HCM Tel/Fax: 08.8654321; E-mai: ugce@vnn.vn Some geotechnical problems concern with clay– lime form in Vietnam Abstract: Claystone – siltstone rock that contains lime is rather popular at many regions in Viet Nam. It usually contains mineral clay, calcite and pyrite. Anhydrite and gypsum are often in products of weathered claystone – siltstone rock. These minerals can be transition in both direction and accompany with expansion and shrinkage phenomenon, dissolution phenomenon, from there they can effect on stability of project. I- Mở đầu Tại xã Hố Nai 3 thuộc huyên Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai nhiều công trình dân dụng là nhà ở của nhân dân xuất hiện nhiều vết nứt ngang dọc, cá biệt có một vài công trình bị nứt nghiêm trọng (hình 1). Hiện tượng nứt xảy ra ở nhiều công trình đã được xây dựng trên 10 năm và cả những công trình mới được xây dựng trong vòng vài năm trở lại đây. Vết nứt chẳng những xuất hiện trên các tường xây bằng vật liệu gạch hoặc bê tông, móng xây trên nền thiên nhiên, kể cả những công trình đặt trên móng, đà kiềng bằng bê tông cốt thép; vết nứt còn xuất hiện trên cả nền nhà được phủ bằng vật liệu xi măng. Các công trình bị nứt phần lớn là nhà trệt không có lầu, nhưng một số nhà 1 – 2 lầu cũng xuất hiện vết nứt. Hiện tượng này gây ra tâm lý lo lắng hoang mang cho nhân dân địa phương, gây sự chú ý của dư luận và các cơ quan chính quyền địa phương. Sở Khoa Học và Công Nghệ tỉnh Đồng Nai đã có dự án nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân với kinh phí có thể lên tới 500 triệu đồng. 1 Hình 1: Hình ảnh các nhà dân dụng bị nứt ở khu vực ấp Lộ Đức 2 II- Đặc điểm địa chất công trình của khu vực xã Hố Nai 3 Xã Hố Nai 3 nằm trên bậc thềm có cao độ 5-15 mét, được cấu tạo bởi các đá phiến sét và bột kết chứa vôi. Kết quả phân tích khoáng vật cho thấy đá có chứa 87% khoáng vật canxit, 6% hạt vụn thạch anh và 7% các khóang vật khác (hình 2). Hình 2: Lõi khoan các trầm tích đá sét – bột kết chứa vôi thuộc hệ tầng Dray Linh Nước dới đất tại đây là nước khe nứt trong hệ tầng Drayling. Kết quả phân tích nước cho thấy lọai hình nước là bicacbonat canxi, kali, natri, có cả sunfat trong thành phần của nước dưới đất các ion sắt (Fe++ và Fe+++) và CO3 - có hàm lượng không đáng kể, hàm lượng HCO3 - ngược lại rất cao, lượng CO2 tự do chiếm 28,63 mg/l, CO2 kết hợp trong HCO3 - chiếm 167,20 mg/l. Nước dưới đất khi đun sôi tạo ra kết tủa cacbonat và kết tủa sunfat. Trên bề mặt đá gốc đã hình thành lớp phong hóa phủ bên trên với bề dày 2 mét của tầng phong hóa mãnh liệt. Thành phần của sản phẩm phong hóa có hàm lượng SiO2 đạt 56,68%, Al2O3 đạt 17,01%, Fe2O3 đạt 15,38%, TiO2 đạt 0,85%, lượng MKN đạt 7,87%, trong thành phần khoáng vật sét chứa trong vỏ phong hóa không có mặt khoáng monmorinlonite. III- Quá trình phong hóa trong đá sét – bột kết chứa vôi và pyrit 1 Theo kết quả nghiên cứu địa chất thì nhiều vùng ở nước ta thường gặp các tập đá sét kết chứa vôi như ở Tây Nguyên, các tỉnh thuộc Đông Nam Bộ, các tỉnh thuộc Trung trung Bộ, các tỉnh ở phía Bắc như Lạng Sơn, Quảng Ninh, ở một số vùng có phân bố đá sét kết chứa vôi như vậy cũng đã xảy ra những hiện tượng tương tự như ở Hố Nai tỉnh Đồng Nai, điển hình nhất là vùng Nà Dương tỉnh Lạng Sơn. ở vùng Cà Giây thuộc tỉnh Bình Thuận cũng có mặt hệ tầng Dray Linh trầm tích Jura hạ - trung thuộc hệ tầng Bản Đôn mà theo Vũ Khúc và một số nhà địa chất khác [3] là có chứa đá bột kết chứa vôi và đá phiến vôi màu xám đen. Tại đây cũng có những hiện tượng tương tự như ở Hố Nai. Đá sét bột kết chứa vôi và phiến sét chứa vôi thường chứa các khóang vật sét như kaolinit, monmorinlonit, smectit, chúng còn chứa khoáng vật thạch anh, canxit, và đặc biệt trong các tập đá này thường có mặt các khoáng vật chứa sunfua thường ở dạng tinh thể nhỏ xâm tán, đặc biệt là pyrit (FeS2). Các khoáng vật sét thường có tính ưa nước và mỗi lọai khoáng vật sét đều có mức độ ưa nước khác nhau, trong đó đặc biệt khoáng monmorinlonit có tính ưa nước mạnh nhất, được biểu hiện ở tính trương nở mạnh, khi gặp nứơc thể tích của khoáng vật tăng lên rất nhiều, đồng thời gây áp lực trương nở lớn. Vì vậy các đá sét bột kết chứa vôi sau khi đã phong hóa có chứa hàm lượng nhiều khoáng vật monmorinlonit và smectit thì tính trương nở sẽ được thể hiện. Trong các đá sét bột kết chứa vôi ở các vùng của Việt Nam cho đến hiện nay vẫn chưa phát hiện sự có mặt của khoáng monmorinlonit và smectit. Tuy nhiên sự có mặt các khoáng sunfua, đặc biệt là khoáng pyrit trong các đá sét – bột kết chứa vôi là điều cần quan tâm. Khi tiếp xúc với nớc ma và khí quyển thì các khoáng sunfua sẽ bị oxyt hóa và tạo ra axit sunfuarit. Phản ứng oxyt hóa và thủy phân được mô tả bằng phản ứng hóa học sau: 2MeS(S) + 7/2O2 + H2O ( 2Me+ + + 2SO4-2 + + 2H+ (1) Đối với pyrit quá trình oxyt hóa và thủy phân được chia ra nhiều giai đọan (theo Fergusson và Erickson – 1987): Giai đọan I và II: FeS2 + 7/2O2 + H2O ( Fe+2 + 2 SO4-2 + + 2H+ (2) Fe+ + 1/2O2 + H+ ( Fe+3 + 1/2H2O (3) Khi pH > 5 thì Fe+3 + 3H2O ( Fe(OH)3 + 3H+ (4) ở giai đọan I và II các phản ứng xảy ra trong môi trường axit yếu (pH > 4,5), tốc độ phản ứng xảy ra chậm. Pyrit bị oxyt hóa tạo ta sắt hóa trị 2 (Fe+2) và các ion H+ (phương trình 2) sẽ làm cho môi trường tăng tính axit. Một khi giá trị pH giảm sẽ thuận lợi cho phản ứng theo (3) và (4), nhưng nếu pH của môi trường cao hơn 4,5 thì sắt hóa trị 3 (Fe+3) sẽ được kết tủa dới dạng hydroxyd sắt [Fe(OH)3] nh phương trình (4). Nhng nếu pH của môi trường thấp hơn 3,5 thì sắt hóa trị 3 (Fe+3) sẽ bị hòa tan trong dung dịch và khoáng pyrit sẽ trực tiếp bị oxyd hóa theo phương trình (5), đồng thời cho ra càng nhiều ion H+. Giai đọan III: FeS2 + 14Fe+3 + 8H2O ( 15Fe+2 + 1 + 2SO4-2 + 16 H+ (5) Ngoài ra khi pH thấp (pH<3,5) thì môi trường sẽ có nhiều vi khuẩn ưa axit yếm khí như Thiobacillus Feroxidan sẽ, đẩy mạnh các phản ứng phân giải theo (5) và (2) và (3). Phản ứng (3) và (5) kết hợp làm cho phản ứng oxyd hóa càng mãnh liệt, làm tăng nồng độ axit. Tổng quát lại là phản ứng oxyd hóa pyrit có thể biểu thị như sau: FeS2 + 15/4 O2 + 7/2H2O ( Fe(OH)3 + 2H2SO4 (6) Như vậy do pyrit có trong đá sét chứa vôi bị oxyd hóa sẽ làm cho trong nước ngầm chứa một lượng đáng kể axit sunfuarit. Ngoài ra các khoáng canxit (CaCO3) đồng thời bị hòa tan tạo ra một hàm lượng hydroxit canxi theo phản ứng H2O + CO2 + CaCO3 ( Ca(HCO3)2 (7) Phản ứng này xảy ra càng mãnh liệt khi lượng CO2 tự do trong dung dịch tăng lên. Có thể thấy, do quá trình phong hóa được thể hiện bằng qúa trình oxyd hóa pyrit và hòa tan ăn mòn khoáng vật canxit có trong đá sét bột kết chứa vôi, mà trong thành phần của nước ngầm đồng thời có mặt axit sunfuarit và bicacbonat canxi, chúng sẽ tạo ra anhydrit (CaSO4) theo phản ứng: H2SO4 + Ca(OH)2 = CaSO4 Anhydrit là một khoáng vật kém ổn định, nó chỉ ổn định ở môi trờng không có nước với nhiệt độ cao hơn 58oC và áp suất 100Kpa. Khi nằm gần mặt đất (trong vỏ phong hóa) với nhiệt độ và áp suất thấp, có nước ngầm vận động, thì anhydrit (CaSO4) sẽ chuyển thành khoáng thạch cao (CaSO42H2O), đồng thời thể tích của tinh thể sẽ tăng lên sau khi đã kết hợp với phân tử nước: Anhydrit ( Thạch cao CaSO4 + H2O ( CaSO42H2O (8) (46cm3) (36cm3) (74cm3) So sánh thể tích đã tăng lên của thạch cao với thể tích ban đầu của Anhydrit thấy thể tích đã tăng lên (V = [(74 – 46)/46 x100] = 61% Như vậy trong vỏ phong hóa của đá sét – bột kết chứa vôi và pyrit xâm tán lúc này ngoài các khoáng vật sét ra, còn có mặt anhydrit hoặc thạch cao. Trong điều kiện nước ngầm chưa bão hòa và vận động thì thạch cao có thể bị hòa tan. So với đá vôi khả năng bị hòa tan trong nước của thạch cao lớn hơn nhiều, lượng hòa tan trong dung dịch của thạch cao là 2100mg/l so với đá vôi là 400mg/l; trong một mét khối nước có thể hòa tan 2,5kg thạch cao. IV- Nguyên nhân phát sinh khe nứt ở các công trình xây dựng trên vỏ phong hóa của đá sét – bột kết chứa vôi và pyrit xâm tán Qua phân tích ở phần trên ta thấy rõ trong vỏ phong hóa của đá sét – bột kết chứa vôi và pyrit xâm tán có thể xảy ra các hiện tượng sau đây: 1) Quá trình hòa tan đá vôi tạo ra các lỗ rỗng lớn và hang hốc karst, làm cho khối đá bị rỗng, từ đó có thể gây ra hiện tượng sụt lún họac lún sập một khi chịu tải trọng tác dụng. 2) Quá trình hòa tan thạch cao cũng tạo ra các lỗ rỗng lớn và hang hốc gọi là karst sunfat, phát triển nhanh và mạnh hơn so với karst đá vôi. Các khoáng thạch cao thường lấp nhét trong các khe nứt phong hóa hoặc các lỗ rỗng trong đá, khi bị hòa tan thì càng làm cho độ rỗng tăng lên và hiện tượng sụt lún càng tăng lên khi chịu tải trọng tác dụng. 3) Trong vỏ phong hóa tiếp xúc với khí quyển bên ngoài, có nước ngầm vận động và áp suất 1 thấp, anhydrit dễ dàng bị thủy hóa chuyển thành thạch cao, thể tích tăng lên gây ra hiện tượng trương nở, làm cho thể tích của đá phong hóa có thể tăng từ 30 – 58%, tạo ra áp suất trương nở tăng từ 2 – 70Mpa. Các hiện tượng nêu trên khi xảy ra gây nên tác dụng tổng hợp là tăng độ rỗng xốp của đá đã bị phong hóa, từ đó nếu tải trọng bên ngoài vợt quá giá trị cho phép, thì nền công trình có thể bị sụt lún, tức là lún với tốc đô tương đối nhanh. Ngoài ra cần lưu ý quá trình hydrat anhydrit để chuyển thành thạch cao là quá trình thuận nghịch. Một khi có điều kiện thuận lợi như khan nước và nhiệt độ tăng cao thì thạch cao có thể bị thủy phân (dehydrat) để chuyển thành anhydrit kèm theo hiện tượng giảm thể tích, tức co ngót. ở các tỉnh phía Nam khí hậu có 2 mùa rõ rệt, mùa khô thường kéo dài, mực nước ngầm hạ thấp, nhất là Đông Nam Bộ thuộc vùng địa mạo bậc thềm, làm cho vỏ phong hóa nằm trong trạng thái khô hạn, tạo điều kiện cho thạch cao bị thủy phân biến thành anhydrit, gây hiện tượng co ngót cho nền công trình. Ngược lại ở các tỉnh phía Bắc thường có hiện lượng mưa tương đối điều hòa quanh năm, mực nước ngầm thường ít biến đổi, tạo điều kiện hình thành thạch cao, gây ra hiên tượng trương nở và áp lực trương nở. Vùng Nà Dương từ những năm 60 của thế kỷ trước đã phát hiện hiện tượng nhiều công trình có tải t rọng nhẹ thường bị nứt vào mùa mưa.Vùng Hố Nai ngược lại về mùa khô các khe nứt xuất hiện ở các công trình thường phát triển. Các hiện tượng nêu trên đồng thời cũng làm cho cường độ của đá giảm xuống nhanh chóng. Một vài nơi dùng đá sét- bột kết chứa vôi ở Đông Nam Bộ làm vật liệu đắp nền đường, trải qua thời gian không lâu cường độ của nền đường giảm, đường mau xuống cấp. Trên những tuyến đường mới mở, những đọan cắt qua địa tầng sét – bột kết chứa vôi và pyrit, tại đây mái ta luy 2 bên đường cũng mau chóng bị phong hóa, hiện tượng trượt lở mất ổn định cũng xảy ra. Một vấn đề nữa cũng cần lưu ý là khi pyrit chứa trong đá sét – bột kết chứa vôi bị oxyd hóa sẽ cho ra axit sunfuarit, làm cho nước ngầm có khả năng ăn mòn bê tông mạnh, ảnh hưởng đến tuổi thọ của công trình. V- Kết luận Đá sét – bột kết chứa vôi khá phổ biíen ở nhiều vùng của Việt Nam. ở những vùng này khi thiêt kế công trình phải khảo sát nắm rõ điều kiện địa chất công trình, đắc biệt chú ý đến cac khóang vật tạo đá của chúng, các điều kiện địa chất thủy văn, địa mạo, điều kiện tự nhiên. Một khi trong thành phần của đá ngòai khoáng vật sét còn có khoáng vật canxit và pyrit cùng tồn tại thì cần chú ý thành phần của sản phẩm phong hóa và những biến đổi của nó, để từ đó có thể nhận định khả năng xảy ra các hiện tượng tạo hang hốc lỗ rỗng lớn, hiện tượng trương nở và co ngót, khả năng ăn mòn vật liệu xây dựng của nước ngầm, khả năng ổn định của công trình khi chịu ảnh hưởng của các tác nhân phong hóa. Tài liệu tham khảo 1- Địa chất và khóang sản. Tờ TP. Hồ Chí Minh (C-48-1). Cục Địa Chất Việt Nam – Hà Nội 1996. 2- Đặng Hữu Diệp và các học viên lớp Cao học khóa 14 chuyên ngành Địa Chất Môi Trường – Trường ĐHBK TP. HCM – Kết quả khảo sát sơ bộ sự cố nứt nhà ở Hố Nai, 12/2004. 1 3- Phạm Hữu Si. Nghiên cứu khả năng biến đổi chất lượng nước của hồ chứa Cà Giây và các giảI pháp khắc phục. Các báo cáo khoa học – Hội nghị khoa học địa chất công trình và môi trường Việt Nam, TP.HCM, 1999. 4- Isik Yilmaz. Gypsum/anhydrite – Some engineering problems. Bulletin of Engineering Geology and the Environment, Volume 60 Number 3. August 2001. 5- John A. Franklin, Maurice B. Dusseault Rock Engineering applications. MacGraw – Hill International Edition, Civil Engineering Series 1992. 6- E.L.Pastor Impacts de recouvrements de résidus organiques sur des résidus miniers réactifs. Bulletin de L‟association internationale de Geologie de l‟ingénieur et de l‟environnement. Volume 62. Number 3. August 2003. Biến động đường bờ biển đồng bằng sông Hồng: Hiện trạng, nguyên nhân và một số giải pháp phục vụ khai thác hợp lý quỹ đất ven biển Đỗ Minh Đức* Bộ môn Địa kỹ thuật & Địa môi trường, Trường ĐH Khoa học tự nhiên, ĐHQG Hà Nội334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội Tel: 0912042804. E-mail: ducdm@fpt.vn Shoreline Change in the Red River Delta Coastal Zone: the Status, Reasons and Measures for Rational Coastal Land-Use Abstract: Shoreline change has long been recognized as a serious disadvantage for scio-economic development in the Red River Delta coastal zone. Sediments transported from the river system accumulate mainly around some big mouths (Tra Ly, Ba Lat, Lach Giang and Day) leading to rapid accretion (up to 100m/y), and causing severe erosion in the areas between them such as Dong Long, Hai Hau, Nghia Phuc. The shoreline change is entirely strengthened by influences of dike systems, dams upstream, and locally affected by human activities on the coast. The long-term measures against coast erosion are building seadykes reinforced by groins and internal standby dikes at the coast of Dong Long, Hai Hau, Nghia Phuc); building seadyke and re-cultivation of mangrove at the locations of weak erosion (Thuy Xuan, Lan mouth, Giao Long, Giao Phong and a part of Hai Dong). Mở đầu Khu vực ven biển đồng bằng sông Hồng kéo dài từ cửa Văn úc (Hải Phòng) đến cửa Đáy (Nam Định và Ninh Bình), là một trong những vùng có mật độ dân số cao nhất nước ta và có điều kiện tự nhiên rất đặc biệt. Tại đây diễn ra tương tác của các sông lớn thuộc hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình với biển, có nhiều nguồn tài nguyên, đặc biệt là du lịch, rừng ngập mặn (RNM), nông sản, thuỷ-hải sản,.v.v... Trong hệ thống phân loại châu thổ, đồng bằng sông Hồng thuộc loại sông chiếm ưu thế (hình 1). 1 S«ng chiÕm -u thÕ Sãng chiÕm -u thÕ TriÒu chiÕm -u thÕ C¸c l¹ch triÒu Mississipi Hoµng Hµ Mahakam H»ng - Bramaputra Amazon Fly Ord Po Danube Jaba Niger Nile Ebro Buderkin ShoalHaven Senegal San Francisco Hång Hình 1. Phân loại đồng bằng châu thổ (theo Coleman & Wright, 1975) Một trong các vấn đề cơ bản trong phát triển kinh tế-xã hội ở ven biển đồng bằng sông Hồng là việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đất, thể hiện ở hai khía cạnh chính: thứ nhất - tại các khu vực bờ biển bị xói lở, đặc biệt là Hải Hậu, biển lấn vào bờ với tốc độ lớn, đòi hỏi con người phải sử dụng các biện pháp công trình để bảo vệ quỹ đất; thứ hai - phần lớn chiều dài đường bờ biển được bồi tụ với tốc độ cao, tạo ra vùng đất mới với diện tích lớn. Tại đây mâu thuẫn cần giải quyết là ở bờ bồi tụ, theo quy luật tự nhiên RNM sẽ tăng triển về phía biển và suy tàn phía trong bờ. Do RNM chỉ phát triển ở những nơi có độ mặn và độ chặt đất thích hợp. Mặt khác, các khu nuôi trồng thuỷ sản chỉ thu được hiệu quả cao ở những nơi phát triển RNM. Như vậy, việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản mà đi kèm với nó là phá RNM và xây dựng đê bao cần phải được điều chỉnh sao cho vừa bảo vệ được các đầm nuôi trước tác động của biển vừa phải phù hợp với quy luật tiến hoá tự nhiên của quá trình bồi tụ-xói lở. Với thực tế đó, việc làm sáng tỏ hiện trạng, cơ chế hình thành và dự báo sự biến đổi bờ biển, từ đó đề xuất giải pháp khai thác hợp lý quỹ đất ven biển có ý nghĩa lớn về khoa học và thực tiễn. 1. Hiện trạng biến động đường bờ biển đồng bằng sông Hồng Kết quả xử lý các bản đồ địa hình tỷ lệ 1: 50.000 và 1: 25.000 đã xác định được hiện trạng biến động quỹ đất ven biển đồng bằng sông Hồng thời gian gần đây (bảng 1). Từ đây có thể nhận thấy, đường bờ biển đồng bằng Sông Hồng có xu thế chung là được bồi tụ mạnh, đặc biệt là ở các cửa sông Trà Lý, Ba Lạt và Đáy. Cơ chế bồi tụ điển hình là lấp đầy và nối cồn. Theo đó, một cồn cát cửa sông được hình thành, tạo ra vùng nước yên tĩnh phía trong, đẩy mạnh sự tích tụ vật liệu mịn từ sông đưa ra. Tốc độ lấn biển của bờ ở phía trong, do vậy, được tăng nhanh và dần nối liền với cồn cát cửa sông, đồng thời với quá trình hình thành cồn mới. Tốc độ bồi tụ trung bình là đạt tới 65m/năm (1930-1965), 84m/năm (1965-1985) và 60m/năm (1985-1995) ở cửa Ba Lạt và tới hơn 100m/năm ở cửa Đáy. Bảng 1. Hiện trạng bồi tụ và xói lở ở ĐVB TB-NĐ Khu vực Bồi tụ Xói lở 1 Chiều dài (km) Tốc độ bồi (m/năm) Diện tích bồi (ha) Chiều dài (km) Tốc độ xói (m/năm) Diện tích xói (ha) 1930-1965 Khu vực I 10,0 28 28 - - - Khu vực II 31,4 11 34,5 5,6 3,5 2,0 Khu vực III 4,5 65 29,3 9,5 12 11,4 Khu vực IV 14,0 5 7,0 13,5 5,5 74,3 Khu vực V 4,0 27 10,8 0,5 2 0,1 Khu vực VI 17,0 95 161,5 - - - 1965-1985 Khu vực I 8,4 24 20,2 1,6 15 2,4 Khu vực II 30,8 16 49,3 6,2 6 3,7 Khu vực III 6,5 84 54,6 7,5 8 6,0 Khu vực IV 7,2 6 4,3 20,0 9 18,0 Khu vực V 4,0 35 14,0 0,5 10 0,5 Khu vực VI 29,3 110 322 0,8 3 0,2 1985-1995 Khu vực I 8,8 16 14,1 1,2 3 0,4 Khu vực II 32,5 12 39,0 4,5 4,5 2,0 Khu vực III 11,5 60 69 2,5 2,5 0,6 Khu vực IV 8,0 4 3,2 19,2 11 21,1 Khu vực V 4,0 28 11,2 0,5 12 0,6 Khu vực VI 30,0 100 300 1,5 4 0,6 (I: cửa Thái Bình-Thuỵ Xuân, II: Thuỵ Xuân-cửa Lân, III: cửa Lân-cửa Hà Lạn, IV: huyện Hải Hậu, V: cửa Lạch Giang, VI: cửa Đáy) Đan xen giữa các đoạn bờ bồi tụ mạnh là các đoạn bờ xói lở. Các đoạn bờ xói lở có thể phân bố ở lân cận cửa sông lớn như Đông Long, Giao Phong, Nghĩa Phúc hoặc xa cửa sông lớn (Thuỵ Xuân, Bắc và Nam cửa Lân, Hải Hậu). Đoạn bờ xói lở điển hình nhất là ở huyện Hải Hậu, với chiều dài gần 20km. Hiện tượng xói lở bờ biển đã bắt đầu từ những năm đầu của thế kỷ XX, liên quan chặt chẽ đến sự suy tàn cửa sông Hà Lạn, chuyển sang phát triển cửa Ba Lạt, tạo ra vùng khuất về bồi tích ở Hải Hậu [4, 5]. Hiện nay khu vực ven bờ Hải Hậu không được cung cấp trầm tích từ các hệ thống sông. Đồng thời sự vận chuyển bùn cát dọc bờ và ra xa bờ với khối lượng lớn đã gây ra xói lở mạnh. Chiều dài đoạn xói lở tăng liên tục tới những năm thập niên 80, sau đó có xu thế thu hẹp dần do bờ biển được bảo vệ bằng hệ thống đê kè. Tuy nhiên, cường độ xói lở lại tăng lên rất rõ rệt trong giai đoạn 1985-1995, gấp 1,5 lần giai đoạn 1955-1985. Đặc biệt đoạn bờ Hải Chính - Hải Hoà, tốc độ xói lở đạt tới 15- 21m/năm. Hiện tượng xói lở thường diễn ra mạnh mẽ nhất vào mùa gió đông bắc và đang có xu thế chuyển dịch về phía Hải Thịnh, với tốc độ có thể đạt tới 40-50m/năm (ảnh 1, 2 và 3). Ngoài ra, rìa ngoài các cồn cát cũng bị xói lở mạnh với tốc độ trung bình 18 m/năm. Trong một cơn bão lớn, đường bờ có thể bị xói lở tới 7m ở Hải Hậu. Các khu vực có RNM bảo vệ như Thuỵ Xuân xói lở bờ trong bão chỉ đạt 1m. 1 Hình 2. Hải Thịnh, ngày 02/9/2003 Hình 3. Hải Thịnh, ngày 25/7/2004 Hình 4. Hải Thịnh, ngày 17/4/2005 Từ hình 2 đến hình 3, sau thời gian hơn 10 tháng, tại cùng một địa điểm ở bờ biển Hải Thịnh, khu vực khai thác thác sa khoáng đã “biến mất”, chỉ còn lại dàn tuyển bỏ
Tài liệu liên quan