Tóm tắt
Di sản khảo cổ học ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, phản ánh diễn trình lịch sử và văn hoá
của nhiều cộng đồng người trong lịch sử. Trong quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh và mạnh ở
Việt Nam, di sản khảo cổ học (đã phát lộ và chưa phát lộ) đang phải đối mặt với nhiều thách thức,
khó khăn như: sự bất cập của việc thực thi Luật Di sản văn hóa trong thực tế, sự thiếu đồng bộ và nhất
quán về quản lý, nghiên cứu, đánh giá giá trị và bảo tồn, sức ép của quá trình đô thị hóa, tác động của
nền kinh tế thị trường,. dẫn đến thực tế là nhiều di sản khảo cổ học bị xóa sổ trước khi kịp nghiên cứu,
đánh giá giá trị, nhiều di sản khảo cổ học khác dù đã được Nhà nước xếp hạng nhưng chưa được quan
tâm đúng mức, thậm chí bị xâm phạm, dẫn đến chưa phát huy giá trị một cách hiệu quả. Do đó, cần
có những quan điểm nghiên cứu và đánh giá giá trị di sản khảo cổ học ở Việt Nam một cách tích cực
để bảo tồn và phát huy hiệu quả tiềm năng của nguồn tài nguyên văn hóa này, hướng tới mục tiêu
phát triển bền vững.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về bảo tồn di sản khảo cổ học ở Việt Nam trong quá trình đô thị hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 28 - Tháng 6 - 201918
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO TỒN DI SẢN KHẢO CỔ HỌC
Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
NGUYỄN ANH THƯ, HOÀNG THANH MAI
Tóm tắt
Di sản khảo cổ học ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, phản ánh diễn trình lịch sử và văn hoá
của nhiều cộng đồng người trong lịch sử. Trong quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh và mạnh ở
Việt Nam, di sản khảo cổ học (đã phát lộ và chưa phát lộ) đang phải đối mặt với nhiều thách thức,
khó khăn như: sự bất cập của việc thực thi Luật Di sản văn hóa trong thực tế, sự thiếu đồng bộ và nhất
quán về quản lý, nghiên cứu, đánh giá giá trị và bảo tồn, sức ép của quá trình đô thị hóa, tác động của
nền kinh tế thị trường,... dẫn đến thực tế là nhiều di sản khảo cổ học bị xóa sổ trước khi kịp nghiên cứu,
đánh giá giá trị, nhiều di sản khảo cổ học khác dù đã được Nhà nước xếp hạng nhưng chưa được quan
tâm đúng mức, thậm chí bị xâm phạm, dẫn đến chưa phát huy giá trị một cách hiệu quả. Do đó, cần
có những quan điểm nghiên cứu và đánh giá giá trị di sản khảo cổ học ở Việt Nam một cách tích cực
để bảo tồn và phát huy hiệu quả tiềm năng của nguồn tài nguyên văn hóa này, hướng tới mục tiêu
phát triển bền vững.
Từ khóa: Khảo cổ học, di sản khảo cổ học, đô thị hóa, bảo tồn
Abstract
Archaeological heritage in Vietnam is rich and diverse, reflecting the historical and cultural
process of many communities in the history. In the fast and strong process of urbanization in Vietnam,
archaeological heritages (discovered and undiscovered) have been facing many challenges and
difficulties such as: the inadequately of the implementing the Cultural Heritage Law in reality, the lack of
consistence and synchronism in management, research, value assessment and conservation, pressure
of urbanization process, impact of the market economy ... leading to the fact that many archaeological
heritages were wiped out before being able to be researched and evaluated the value; many other
archaeological heritages have been ranked by the State but have not been paid proper attention yet,
even been violated, resulting in not promote the value effectively. Therefore, it is necessary to have a
positive view of reseaching and evaluating the value of archaeological cultural heritages in Vietnam
in order to conserve and promote the potential effectiveness of this cultural resource, towards the goal
of sustainable development.
Keywords: Archeology, archaeological heritage, urbanization conservation, promotion
Đặt vấn đề
Theo cách nhìn về di sản hiện nay, trong Chiến lược EU 2020: “Di sản được coi là khái niệm phức hợp, liên
tục phát triển qua thời gian và kết hợp không chỉ
những chiều kích lịch sử, văn hoá, thẩm mỹ, biểu
trưng, tinh thần mà cả kinh tế, xã hội và chính
trị” [5]. Nội hàm của khái niệm di sản văn hóa
đã được mở rộng hơn những quan niệm trước
đây về di sản văn hóa, bao gồm: di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể, trong đó di sản khảo cổ
học (DSKCH) được coi là một thành tố của di
sản văn hóa vật thể.
Khái niệm DSKCH hiện hành trong các văn
liệu khảo cổ học thế giới, trong các công ước
quốc tế và tài liệu pháp lý quốc gia cũng có
nhiều cách hiểu và tên gọi khác nhau. Trong
bài viết này, khái niệm DSKCH được hiểu theo
Hiến chương về Bảo vệ và quản lý di sản khảo cổ
học do Uỷ ban Quốc tế Quản lý Di sản Khảo cổ
19Số 28 - Tháng 6 - 2019
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
học (ICAHM) soạn thảo và được Đại Hội đồng
ICOMOS thông qua tại Lausanne năm 1990:
DSKCH “là một bộ phận của di sản vật thể, bao
gồm mọi vết tích sinh tồn của con người được lưu
lại trong những địa điểm liên quan đến mọi hoạt
động của con người, trong những kiến trúc đã bị
hoang phế, trong những vết tích đủ các loại (cả
ở những di chỉ dưới đất và dưới nước) cũng như
các vật liệu văn hoá gắn với các di tích đó” [6].
Có nhiều DSKCH đang hiện diện ngay bên
cạnh đời sống của chúng ta, như những di
tích kiến trúc tôn giáo, thành quách, lăng mộ,
tàu đắm... Bên cạnh đó vẫn có nhiều di tích
khảo cổ đã được phát hiện một cách tình cờ
trong quá trình sản xuất, lao động của nhân
dân. Trong xây dựng những công trình dân sự,
quân sự, kinh tế cũng có khi làm xuất lộ nhiều
di tích, di vật khảo cổ quan trọng. Do đó, việc
quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của DSKCH
luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu cũng như những người làm công
tác bảo tồn di sản văn hóa trong cả nước.
1. Tiềm năng di sản khảo cổ học ở Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, những di tích khảo cổ học
đầu tiên ở Việt Nam được phát lộ dưới sự tìm
kiếm của các nhà địa chất học người Pháp
trong công cuộc khai thác thuộc địa. Kể từ đó
đến nay, nhờ sự miệt mài khám phá và nghiên
cứu của nhiều thế hệ các nhà khảo cổ học
Việt Nam, kho tàng DSKCH ngày một giàu có
và phong phú hơn với hàng trăm ngàn di tích
khảo cổ học, hàng trăm triệu di vật phản ánh
diện mạo văn hóa lâu đời của các cư dân bản
địa qua các giai đoạn lịch sử.
Khảo cổ học đóng vai trò quan trọng trong
việc phát hiện và xác định giá trị các di sản văn
hóa, tiêu biểu là văn hóa thời kỳ tiền - sơ sử, các
địa điểm có di sản trong lòng đất, dưới nước.
Những phát hiện, thăm dò, khai quật khảo cổ
học trong suốt hơn một thế kỷ qua trên mọi
miền đất nước đã xác lập nhiều nền văn hóa
cổ, minh chứng sự tồn tại, phát triển rực rỡ
nhiều giai đoạn văn hóa của nước ta. Các di chỉ
văn hóa thời tiền - sơ sử như Núi Đọ, Hang Con
Moong (Thanh Hóa), Ngườm (Thái Nguyên),
Sơn Vi (Phú Thọ), Hòa Bình (Hòa Bình), Bắc Sơn
(Lạng Sơn) rồi Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò
Mun - Đông Sơn ở Bắc Bộ, Quỳnh Văn (Nghệ
An), Đa Bút (Thanh Hóa) ở Bắc trung bộ, Tiền
Sa Huỳnh - Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) ở Trung
Trung Bộ, Đồng Nai ở Nam Bộ,... là những bằng
chứng về sự tồn tại và quá trình phát triển liên
tục của những cư dân bản địa trên đất nước
ta. Ngoài các di tích được phát hiện trong lòng
đất, nhiều tàu đắm đã được phát hiện, khai
quật trong vùng biển thuộc lãnh hải Việt Nam,
tiêu biểu như tàu đắm ở vùng biển Cù Lao
Chàm (Hội An - Quảng Nam), Quảng Ngãi, Bình
Thuận, Hòn Cau, Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu),
Hòn Dầm (Phú Quốc - Kiên Giang), Cà Mau
Giá trị nhiều mặt của những DSKCH dưới nước
này phản ánh vị trí địa lý cực kỳ quan trọng của
biển Đông trên các tuyến đường giao thương
quốc tế từ những thế kỷ XIV-XIV... Như vậy, có
thể khẳng định Việt Nam là một đất nước giàu
tiềm năng DSKCH, nhiều DSKCH có giá trị vượt
xa khỏi biên giới, được UNESCO công nhận là
Di sản văn hóa thế giới như khu di tích trung
tâm Hoàng thành Thăng Long (18 Hoàng Diệu
- Hà Nội), khu di tích thành Nhà Hồ (Thanh
Hóa), Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam)
2. Đánh giá hiệu quả công tác bảo tồn di sản
khảo cổ học ở nước ta hiện nay
2.1. Việc thực thi Luật Di sản văn hóa và
trách nhiệm quản lý của cơ quan quản lý di
sản các cấp đối với việc bảo tồn DSKCH
Ở nước ta, hoạt động khảo cổ học luôn có
mối quan hệ mật thiết với công tác bảo tồn di
sản văn hóa. Ngay từ năm 1945, Sắc lệnh số 65/
SL ngày 23/11/1945 do Chủ tịch lâm thời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký, giao cho Đông
Phương Bác cổ Học viện thay thế Pháp quốc
Viễn Đông Bác cổ Học viện đảm nhận nhiệm
vụ bảo tồn toàn bộ cổ tích trong toàn cõi Việt
Nam. Sự kiện này mở ra sự tiếp nối liên tục các
hoạt động nghiên cứu, bảo tồn các DSKCH
trên đất nước ta. Ngày 29/10/1957, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Nghị định số 519/TTg quy
định: “Tất cả những bất động sản và động sản có
giá trị lịch sử hay nghệ thuật (kể cả bất động sản
còn nằm dưới đất hay dưới nước) từ nay đều
đặt dưới chế độ bảo vệ của nhà nước”. Đến năm
2001, trong bối cảnh đất nước thực hiện đổi
mới, mở cửa, hội nhập, tiến hành công nghiệp
Số 28 - Tháng 6 - 201920
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH), Quốc hội nước
CHXHCNVN ban hành Luật Di sản văn hóa (có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2002), sửa đổi
bổ sung năm 2009 (có hiệu lực thi hành từ
1/1/2010), trong đó có những quy định rất cụ
thể, chi tiết từ khái niệm thăm dò, khai quật
khảo cổ học, tiêu chí phân loại di tích khảo cổ
học cấp tỉnh, cấp quốc gia, cấp quốc gia đặc
biệt, việc tổ chức lập quy hoạch khảo cổ ở
các địa phương (cấp tỉnh), việc thăm dò, khai
quật khảo cổ học, điều kiện của người chủ trì
thăm dò, khai quật, hợp tác quốc tế về thăm
dò, khai quật khảo cổ học, việc cấp phép thăm
dò, khai quật khảo cổ học [4]. Cùng với Luật Di
sản văn hóa là các văn bản quy phạm pháp luật
kèm theo: Chính phủ ban hành Nghị định số
86/2005/NĐ-CP ngày 8/7/2005 về Quản lý và
bảo vệ di sản văn hóa dưới nước; Bộ trưởng Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra Quyết định số
86/QĐ-BVHTT ngày 30/12/2008 ban hành Quy
chế thăm dò, khai quật khảo cổ học... Như vậy,
song hành cùng các hoạt động bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa, công tác khảo cổ
học với nhiệm vụ nghiên cứu một bộ phận di
sản văn hóa của đất nước phải tuân thủ những
quy định của Luật Di sản văn hóa. Những quy
định, chế tài cụ thể, chi tiết đã bước đầu tạo
điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, bảo
tồn DSKCH trong quá trình phát triển, đô thị
hóa ngày càng mạnh mẽ hiện nay. Nói cách
khác, DSKCH ở Việt Nam hiện đang được bảo
tồn và phát huy về mặt lý thuyết theo các
văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực như:
Nghị định, Pháp lệnh rồi Luật Di sản văn hóa.
Từ đó, nhiều công trình xây dựng trước khi
triển khai đã được tiến hành điều tra, thăm
dò, khai quật khảo cổ học như: nhà máy thủy
điện Yaly, Pleikrong (Kon Tum), Tuyên Quang,
Sơn La; khu công nghiệp Dung Quất (Quảng
Ngãi); Trung tâm Báo chí (11 Lê Hồng Phong -
Hà Nội), Trung tâm Thương mại Tràng Tiền, tòa
nhà Quốc hội, khu vực Trung tâm Hoàng thành
Thăng Long (18 Hoàng Diệu - Hà Nội), đàn Xã
Tắc, đàn Nam Giao (Hà Nội)... Trong những
cuộc khai quật, thăm dò đó, có những phát
hiện khảo cổ học quan trọng, được giới nghiên
cứu trong và ngoài nước đánh giá cao. Một số
trường hợp, do giá trị đặc biệt quan trọng, độc
đáo của di tích khảo cổ phát lộ đã thu hút sự
quan tâm của mọi tầng lớp nhân dân, chính vì
vậy, các cấp quản lý đã phải ra quyết định bảo
tồn nguyên trạng khu di tích, di dời công trình
xây dựng sang một địa điểm khác (trường hợp
Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Nhà Quốc Hội...).
Tuy nhiên, thực tế ở nhiều địa phương,
DSKCH chưa được các cấp chính quyền và cơ
quan quản lý quan tâm thỏa đáng, thậm chí có
sự “vênh” nhau giữa những người nghiên cứu
- người quản lý - và người thực thi theo Luật Di
sản văn hóa đối với DSKCH. Bản chất DSKCH là
một nguồn văn hoá mong manh và không tái
sinh được nên hoạt động thám sát, khai quật
các di tích khảo cổ học để phục vụ nghiên cứu
luôn “là một hành động duy nhất không thể lặp
lại; không thể khai quật lần thứ hai một địa điểm;
khai quật một di tích khảo cổ cũng đồng thời là
sự tiêu huỷ vĩnh viễn di tích khảo cổ đó” [3, tr.55].
Do đó, Luật Di sản văn hóa được xem như là
công cụ pháp lý giúp cho Nhà nước Việt Nam
quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị DSKCH đến
với người dân trong cả nước. Trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương,
việc sử dụng quỹ đất đai trong xây dựng các
công trình kiến trúc đã được quy định chặt
chẽ, tuân thủ Luật Di sản văn hóa để giảm thiểu
việc hủy hoại nguồn tài nguyên DSKCH1. Tuy
nhiên, việc tuân thủ và thực thi Luật di sản văn
hóa ở nhiều địa phương không đồng bộ, nhất
quán, thiếu chặt chẽ đã gây cản trở cho việc
bảo tồn các DSKCH. Ngay tại Thủ đô Hà Nội, nơi
quá trình CNH-HĐH và đô thị hóa đang diễn ra
với tốc độ nhanh, mạnh từng ngày, từng giờ
thì việc vi phạm Luật di sản văn hóa vẫn xảy ra.
Ví dụ như trường hợp di chỉ Vườn Chuối (Hoài
Đức - Hà Nội)2 bị xâm hại nặng nề do nạn đào
trộm cổ vật vốn diễn ra từ hàng chục năm nay
và DSKCH này hiện đang có nguy cơ bị xóa sổ
bởi dự án Thăng Long 9 (Khu đô thị Kim Chung
- Di Trạch).
2.2. Công tác bảo tồn DSKCH: nguy cơ,
thách thức trong quá trình đô thị hóa
Sự xuống cấp, bị xâm phạm của DSKCH:
Ở Việt Nam, nhiều DSKCH có giá trị, sau
khi được thám sát khai quật và nghiên cứu,
được địa phương xếp hạng di tích và giữ lại
bảo tồn nhưng qua thời gian đã bị xuống cấp,
21Số 28 - Tháng 6 - 2019
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
xâm phạm và dần rơi vào quên lãng. Ngay
cả những DSKCH nổi tiếng, có giá trị đặc biệt
quan trọng, được Nhà nước xếp hạng cấp
Quốc gia cũng từng ngày, từng giờ đối mặt
với nguy cơ xuống cấp. Điển hình như trường
hợp di tích khảo cổ học Đồng Đậu (Vĩnh Phúc),
đây được coi là khu di tích khảo cổ học quan
trọng của quốc gia3, sau một thời gian bị lãng
quên và do công tác quản lý của chính quyền
các cấp rơi vào tình trạng “cha chung không ai
khóc”, nay đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Hơn
nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi được phát hiện,
khu di tích này mới chỉ được đầu tư xây dựng
cổng và đoạn tường rào phía trước, còn lại cây
cỏ mọc um tùm, che kín hết cả đường đi lối lại.
Khu đất nằm trong quy hoạch xây dựng khu di
tích rộng 4,2ha, hiện bị một số người dân tận
dụng diện tích đất bỏ không để trồng cây, ảnh
hưởng lớn đến kết cấu hạ tầng và các điểm
khai quật.
Việc huy động kinh phí bảo tồn, phát huy giá
trị DSKCH gặp khó khăn:
Một trong những nguyên nhân khiến cho
DSKCH trở nên kém hấp dẫn hơn so với các
loại hình di sản văn hóa khác (di tích lịch sử,
danh lam thắng cảnh, các di sản văn hóa phi
vật thể) bắt nguồn từ việc để bảo tồn, bảo
quản được một DSKCH cần đến nguồn kinh
phí nhất định của địa phương trong khi nguồn
thu trực tiếp từ DSKCH lại hầu như không có.
Nếu so với các di tích lịch sử, danh lam thắng
cảnh có nguồn thu thường xuyên hàng năm từ
các hoạt động phát triển du lịch, góp phần cải
thiện đời sống kinh tế - xã hội của địa phương
thì vấn đề nguồn thu từ DSKCH, kinh phí để
bảo tồn loại hình di sản này đến nay vẫn là
bài toán nan giải của nhiều địa phương. Thêm
vào đó, do đặc thù của loại hình DSKCH rất
dễ bị ảnh hưởng bởi các tác nhân bên ngoài:
môi trường, khí hậu, thời tiết, con người,
nên việc bảo tồn và phát huy giá trị của loại
hình di sản này đòi hỏi sự đầu tư về vật chất
và nhân lực nhiều hơn so với các loại hình di
sản vật thể khác. Điều này dẫn đến sự thờ ơ,
thiếu quan tâm trong công tác bảo tồn và phát
huy giá trị DSKCH ở nhiều địa phương. Ở một
số nơi, việc đầu tư cho DSKCH về cơ chế, tài
chính còn chưa thỏa đáng nên việc bảo tồn và
phát huy giá trị DSKCH gặp nhiều khó khăn.
Không những thế, ở nhiều nơi, công tác quản
lý, bảo vệ di sản văn hóa bị coi nhẹ, thậm chí
bỏ bê khiến hàng trăm di tích khảo cổ học bị
xâm hại nghiêm trọng bởi nạn đào bới, săn tìm
cổ vật
DSKCH chưa thực sự thu hút được sự quan
tâm của cộng đồng:
Nếu so sánh với một số loại hình di tích,
danh lam thắng cảnh thì DSKCH rõ ràng chưa
nhận được sự quan tâm của cộng đồng. Phần
lớn di tích khảo cổ học sau khi được khai quật,
nghiên cứu sẽ bị lấp lại, toàn bộ di vật được
chuyển về các bảo tàng. Những di tích kiến
trúc dù ban đầu có quy mô hoành tráng đến
đâu thì dấu vết để lại cho đến ngày nay chỉ ở
dạng phế tích. Việc phục dựng, phục chế lại các
công trình kiến trúc cổ đòi hỏi nguồn kinh phí
quá lớn nên tuyệt đại đa số di tích kiến trúc sau
khi khai quật xong chỉ được phủ nilon, lấp cát
để bảo vệ. Số lượng di tích khảo cổ học được
xếp hạng di tích cấp Quốc gia còn rất nhỏ trên
tổng số di tích được khai quật nên phần lớn di
tích khảo cổ sau khi được thăm dò, khai quật
không nhận được sự khoanh vùng bảo vệ,
thậm chí bị lấn chiếm, xâm phạm. Ngay đối với
những di tích khảo cổ học đã được xếp hạng
cũng khó có thể phát huy giá trị trong điều
kiện nước ta hiện nay. Tại không ít địa phương,
nhiều di tích khảo cổ học được giữ lại làm khu
trưng bày ngoài trời, có mái che để phục vụ
nhu cầu tham quan, nghiên cứu, học tập ở địa
phương. Tuy nhiên, việc bảo quản các di tích
này ngày càng bộc lộ nhiều bất cập bởi di tích
khảo cổ học vốn nằm sâu trong lòng đất, khi
được khai quật phát lộ, sự thay đổi môi trường,
nhiệt độ, độ ẩm, tác động của mưa nắng, nấm
mốc, rêu phong đã ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sự bền vững của di tích, di vật, khiến di
tích xuống cấp nhanh chóng. Đây là vấn đề
nan giải trong công tác bảo tồn di tích khảo cổ
học mà các nước phải đối mặt, kể cả Nhật Bản
- một nước phát triển, có nhiều kinh nghiệm
trong việc bảo tồn di sản văn hóa cũng chưa
tìm ra biện pháp kỹ thuật hiệu quả đối với việc
bảo tồn DSKCH trước những ảnh hưởng của
môi trường.
Số 28 - Tháng 6 - 201922
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Một nguyên nhân khác khiến DSKCH ở Việt
Nam chưa nhận được sự quan tâm chú ý của
cộng đồng còn bởi nhận thức của cộng đồng
về giá trị của DSKCH rất hạn chế. Các giá trị
khảo cổ học, bề dày lịch sử trải qua hàng nghìn
năm lịch sử trong mỗi di tích không dễ nhận
biết. Nếu không có nghiên cứu, giải thích,
tuyên truyền của những các nhà khảo cổ học
hoặc người am hiểu văn hóa thì công chúng rất
khó tiếp cận với giá trị của di sản. Mặt khác, các
DSKCH ở nước ta đều chưa được tuyên truyền,
quảng bá hình ảnh thường xuyên để thu hút
sự chú ý của cộng đồng, từ đó phát huy giá trị
của di tích. Ngay tại Hoàng thành Thăng Long,
mặc dù đã được UNESCO công nhận di sản văn
hóa thế giới nhưng lượng khách đến đây còn
khiêm tốn, chưa xứng với tiềm năng của một
khu di sản được thế giới ghi danh.
Từ những thực trạng trên có thể thấy rõ,
nếu không có kế hoạch và giải pháp bảo tồn,
phát huy giá trị nguồn tài nguyên DSKCH một
cách hợp lý và bền vững thì loại hình di sản này
sẽ đứng trước nguy cơ dần mai một, biến mất
trong quá trình đô thị hóa.
3. Giải pháp bảo tồn di sản khảo cổ học trước
những thách thức của quá trình đô thị hóa
3.1. Hoàn thiện chính sách bảo tồn DSKCH
Việc chọn lựa giữa bảo tồn và phát triển
luôn là bài toán nan giải và luôn hiện hữu
đối với mọi quốc gia, dù là nước phát triển
hay đang phát triển. Làm sao để vừa bảo vệ
được DSKCH mà không cản trở tới sự phát
triển chung của kinh tế - xã hội, đặc biệt trong
quá trình đô thị hóa, khi việc khai thác các tài
nguyên thiên nhiên được mở rộng thì cũng
đồng nghĩa với việc càng có nhiều DSKCH
được xuất lộ, thậm chí đứng trước nguy cơ bị
phá bỏ, biến dạng hay khai thác quá mức bởi
chính quá trình phát triển đất nước. Do vậy, các
chính sách bảo vệ DSKCH phải thường xuyên
được xem xét lại và cập nhật để phù hợp, sát
với thực tế. Các chính sách bảo vệ DSKCH phải
là một bộ phận hợp thành của các chính sách
liên quan đến việc sử dụng đất đai, phát triển
đô thị, hoạch định kế hoạch và cả các chính
sách văn hóa, môi trường và giáo dục để giảm
thiểu tác động của các kế hoạch phát triển đến
DSKCH. Luật Di sản văn hóa cần có những điều
khoản quy định rõ việc quản lý, bảo tồn tài
nguyên DSKCH đã được xếp hạng và bổ sung
quy định bảo vệ tạm thời những di tích khảo
cổ học chưa được xếp hạng các cấp, hoặc mới
được phát hiện, cho đến khi có sự đánh giá
giá trị của các cơ quan chuyên môn. Việc bảo
vệ DSKCH phải được các nhà hoạch định kế
hoạch ở cấp quốc gia, vùng, địa phương quan
tâm và thực thi đồng bộ, nhất quán.
3.2. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu
DSKCH, góp phần xây dựng chiến lược quản
lý và bảo tồn DSKCH ở các địa phương
Việc quản lý và bảo tồn DSKCH phải được
đặt trên cơ sở hiểu biết đầy đủ nhất về phạm vi
và tính chất của di sản. Vì vậy, việc nghiên cứu
tổng quát các nguồn tư liệu khảo cổ học ở các
tỉnh cần được đẩy mạnh và nhận được sự hỗ
trợ, đầu tư kinh phí từ Nhà nước và các tổ chức
xã hội. Đây được coi là một việc làm thiết yếu
để xây dựng các chiến lược bảo vệ DSKCH phù
hợp với sự biến đổi của xã hội trong bối cảnh
toàn cầu hóa.
Công tác nghiên cứu, bảo tồn DSKCH trước
hết là chỉnh lý - bảo lưu toàn bộ thông tin khoa
học của các di tích khảo cổ học, từ đó nghiên
cứu đề xuất phương án bảo tồn các DSKCH
phục vụ n