MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
I. KHÁI NIỆM LUẬT HÀNH CHÍNH
1. Luật Hành chính là gì?
1.1. Khái niệm Luật Hành chính
Luật Hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt nam. Luật hành
chính điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính
nhà nước. Có thể nói Luật Hành chính là ngành luật về quản lý hành chính nhà nước.
- Quản lý là sự tác động có mục đích của các chủ thể quản lý đối với các đối tượng
quản lý. Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy. Có tổ chức thì mới phân định
rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, bộ phận và của những người tham
gia hoạt động chung. Có quyền uy thì mới bảo đảm được sự phục tùng của cá nhân đối
với tổ chức, của cấp dưới đối với cấp trên.
- Quản lý nhà nước là sự tác động của các cơ quan mang quyền lực nhà nước (chủ
thể quản lý) tới các đối tượng quản lý (đơn vị, tổ chức, công dân) nhằm thực hiện các
chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Nói cách khác quản lý nhà nước là hoạt
động của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các
chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Như vậy tất cả các cơ quan nhà nước đều có
chức năng quản lý nhà nước.
15 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 685 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về Pháp luật hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
I. KHÁI NIỆM LUẬT HÀNH CHÍNH
1. Luật Hành chính là gì?
1.1. Khái niệm Luật Hành chính
Luật Hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt nam. Luật hành
chính điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính
nhà nước. Có thể nói Luật Hành chính là ngành luật về quản lý hành chính nhà nước.
- Quản lý là sự tác động có mục đích của các chủ thể quản lý đối với các đối tượng
quản lý. Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy. Có tổ chức thì mới phân định
rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, bộ phận và của những người tham
gia hoạt động chung. Có quyền uy thì mới bảo đảm được sự phục tùng của cá nhân đối
với tổ chức, của cấp dưới đối với cấp trên.
- Quản lý nhà nước là sự tác động của các cơ quan mang quyền lực nhà nước (chủ
thể quản lý) tới các đối tượng quản lý (đơn vị, tổ chức, công dân) nhằm thực hiện các
chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Nói cách khác quản lý nhà nước là hoạt
động của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các
chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Như vậy tất cả các cơ quan nhà nước đều có
chức năng quản lý nhà nước.
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành
pháp. Hoạt động hành pháp là hoạt động thi hành pháp luật hay còn gọi là hoạt động chấp
hành và điều hành của Nhà nước. Nội dung hoạt động chấp hành và điều hành thể hiện
trên các mặt sau đây:
+ Hoạt động chấp hành thể hiện ở mục đích của quản lý hành chính nhà nước là
nhằm bảo đảm thực hiện các văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước trên
thực tế.
+ Hoạt động điều hành thể hiện ở chỗ để bảo đảm cho các văn bản pháp luật của cơ
quan quyền lực nhà nước được thi hành trên thực tế, các cơ quan hành chính nhà nước
phải tiến hành hoạt động tổ chức, chỉ đạo, điều hành trực tiếp đối với các đối tượng quản
lý thuộc quyền. Trong quá trình điều hành, các cơ quan hành chính nhà nước có quyền
nhân danh nhà nước ban hành các văn bản pháp luật (dựa trên các Luật, Pháp lệnh, Nghị
quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên)
hoặc ra các chỉ thị, yêu cầu, mệnh lệnh cụ thể bắt buộc đối tượng quản lý có liên quan
phải thực hiện.
Nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước:
Quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động có mục đích của Nhà nước, do vậy,
hoạt động này phải được tiến hành trên những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc cơ
bản của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước bao gồm 2 nhóm sau:
- Các nguyên tắc chính trị - xã hội gồm:
+ Nguyên tắc Đảng lãnh đạo;
+ Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước;
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ;
+ Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc;
+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (mọi cơ quan, tổ chức công dân phải
nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, luật pháp ban hành phải được thi hành và chấp hành
nghiêm chỉnh).
- Các nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật bao gồm:
+ Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương: quản lý theo
ngành là quản lý trên phạm vi tổng thể hoạt động của các đơn vị, tổ chức hoạt động có
cùng một mục đích (ví dụ như quản lý đối với ngành giáo dục, ngành y tế...). Quản lý
theo địa phương là quản lý trên phạm vi một lãnh thổ nhất định. Theo pháp luật nước ta
thì quản lý theo địa phương được thực hiện ở ba cấp: tỉnh, huyện và xã. Quản lý ngành
kết hợp với quản lý theo địa phương là sự kết hợp giữa quản lý theo chiều dọc của các Bộ
đối với quản lý theo chiều ngang của Uỷ ban nhân dân địa phương.
+ Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng: quản lý theo
chức năng là quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn nhất định. Cơ quan quản lý theo
chức năng là cơ quan quản lý một lĩnh vực chuyên môn hay một nhóm các lĩnh vực
chuyên môn có liên quan với nhau. Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức
năng để bảo đảm việc thực hiện có hiệu quả từng chức năng quản lý riêng biệt của các tổ
chức trong ngành, đồng thời, bảo đảm được mối quan hệ điều hòa phối hợp liên ngành.
1.2. Luật Hành chính quy định những vấn đề gì?
Với tư cách một ngành luật, Luật Hành chính gồm tổng thể các quy phạm pháp luật
quy định những vấn đề cơ bản sau:
- Quy định vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước,
quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khác của quản lý hành chính nhà nước, mối
quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước và công dân;
- Xác định những nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước;
- Xác định cơ chế quản lý hành chính trên mọi lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, an ninh, quốc phòng...);
- Quy định quy chế công vụ, quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức , chế độ khen
thưởng, kỷ luật;
- Quy định các hành vi vi phạm hành chính, chế tài (biện pháp) xử phạt, xử lý hành
chính;
- Quy định về cơ chế giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quản lý hành chính
nhà nước, trình tự, thủ tục tố tụng hành chính.
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính (tức là đối tượng mà Luật hành chính tác
động tới) là các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước,
bao gồm các nhóm quan hệ sau đây:
- Các quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước
(Chính phủ, các Bộ, Uỷ ban nhân dân....) thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cơ quan quyền lực Nhà nước
(Quốc hội, Hội đồng nhân dân), Tòa án, Viện Kiểm sát xây dựng và củng cố chế độ công
tác nội bộ của cơ quan.
- Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cơ quan nhà nước khác, các cá
nhân và tổ chức được Nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong
một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
Trong 3 nhóm quan hệ kể trên thì nhóm quan hệ thứ nhất là nhóm quan hệ cơ bản
nhất mà Luật Hành chính điều chỉnh. Theo đó, các quan hệ quản lý của cơ quan Nhà nước
phát sinh trong hoạt động chấp hành và điều hành gồm những mối quan hệ sau đây:
+ Mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên với cơ quan hành chính
cấp dưới theo hệ thống dọc (ví dụ quan hệ giữa Chính phủ với các Bộ, giữa Uỷ ban nhân
dân tỉnh với Uỷ ban nhân dân huyện).
+ Mối quan hệ giữa cơ quan hành chính cùng cấp, thực hiện các mối quan hệ phối
hợp, phục vụ lẫn nhau (ví dụ mối quan hệ giữa các Sở, quan hệ giữa các Phòng thuộc Uỷ
ban nhân dân huyện, quan hệ giữa các Cục, Vụ thuộc Bộ với nhau...).
+ Mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính Nhà nước với các đơn vị cơ sở trực
thuộc (ví dụ mối quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân huyện với các đơn vị trực thuộc...).
+ Mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính có thẩm quyền với các tổ chức sự
nghiệp và các tổ chức kinh doanh của các thành phần kinh tế trong xã hội (ví dụ quan hệ
giữa Bộ Y tế với các bệnh viện, trung tâm y tế; quan hệ giữa Sở Kế hoạch đầu tư với các
doanh nghiệp trong hoạt động đăng ký kinh doanh...).
+ Mối quan hệ giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền với các tổ chức xã hội và các
đoàn thể nhân dân (ví dụ quan hệ giữa Uỷ ban nhân dân tỉnh với các tổ chức xã hội trong
vấn đề đăng ký lập Hội, phê chuẩn Điều lệ hoạt động Hội; quan hệ giữa Chính phủ với
Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam trong việc phối hợp hoạt động bảo đảm quyền của
người lao động...).
+ Mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính có thẩm quyền và công dân (ví dụ quan
hệ giữa Uỷ ban nhân dân cấp xã với công dân trong vấn đề đăng ký khai sinh, đăng ký kết
hôn; quan hệ giữa cơ quan Địa chính - Xây dựng với công dân trong hoạt động cấp phép
xây dựng...).
3. Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính
Phương pháp điều chỉnh của Luật là cách thức tác động của Luật lên các mối quan
hệ xã hội.
Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh đơn
phương. Phương pháp mệnh lệnh đơn phương nghĩa là một bên (cơ quan hành chính nhà
nước) được nhân danh quyền lực nhà nước ra các mệnh lệnh mà không cần sự thoả thuận
của bên kia, thể hiện qua các quyết định quản lý nhà nước và bên kia tức là đối tượng
quản lý (tổ chức, đơn vị, công dân) phải phục tùng, thực hiện quyết định đó. Mệnh lệnh,
quyết định hành chính phải thuộc phạm vi thẩm quyền của bên nhân danh nhà nước, vì lợi
ích nhà nước, lợi ích xã hội, trên cơ sở pháp luật, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các
bên hữu quan và được đảm bảo thi hành bằng sự cưỡng chế nhà nước. Đây còn được gọi
là mối quan hệ quyền lực - phục tùng giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.
Cần chú ý là cơ quan hành chính nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước có quyền
đơn phương ra quyết định (không cần phải thỏa thuận với đối tượng bị quản lý) nhưng
quyết định này phải được ban hành trong phạm vi thẩm quyền luật định, vì lợi ích chung
của Nhà nước, của xã hội. Quyết định đơn phương của cơ quan quản lý hành chính Nhà
nước có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các đối tượng quản lý có liên quan và được bảo
đảm thi hành bằng cưỡng chế nhà nước.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN
LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Hình thức quản lý hành chính nhà nước
1.1. Thế nào là hình thức quản lý hành chính nhà nước
Hình thức quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện cụ thể bên ngoài của hoạt động
quản lý hành chính nhà nước. Hình thức quản lý hành chính nhà nước có những đặc điểm
sau:
- Mang tính quyền lực nhà nước bởi các hình thức này do chủ thể quản lý (tức là các
cơ quan nhà nước) thực hiện.
- Được tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật (được pháp luật cho phép).
- Áp dụng trong các mối quan hệ phát sinh từ hoạt động chấp hành và điều hành của
Nhà nước.
1.2. Các hình thức quản lý hành chính nhà nước
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật:
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp lý quan trọng nhất trong
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản
do cơ quan có thẩm quyền ban hành ấn định những quy tắc xử sự chung cho xã hội. Trong
văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan quản lý nhà nước ấn định những quy tắc chung
trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước như quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của
các bên tham gia quan hệ quản lý, xác định thẩm quyền và thủ tục tiến hành hoạt động
của đối tượng quản lý nhằm thực hiện chức năng chấp hành và thi hành pháp luật, đặt ra
những bảo đảm cho việc thực hiện trật tự quản lý nhà nước.
- Ban hành văn bản áp dụng pháp luật:
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là hình thức hoạt động chủ yếu của các cơ quan
hành chính nhà nước. Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản của cơ quan (người) có thẩm
quyền áp dụng các quy định pháp luật vào một trường hợp cụ thể. Cũng như văn bản quy
phạm pháp luật hành chính, đặc trưng cơ bản của văn bản áp dụng pháp luật là tính quyền
lực nhà nước và tính dưới luật. Bên cạnh đó, văn bản áp dụng pháp luật còn phải phù hợp
với văn bản quy phạm pháp luật hành chính.
- Thực hiện những hoạt động mang tính pháp lý khác:
Đó là các hoạt động như áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật (ví dụ
kiểm tra giấy phép sử dụng súng săn, kiểm tra hộ khẩu, kiểm tra đăng ký tạm trú, tạm
vắng...); đăng ký, chứng thực các sự kiện như đăng ký hộ khẩu, đăng ký khai sinh, công
chứng các giấy tờ, bản sao giấy tờ...; cấp một số giấy tờ nhất định như cấp giấy phép sử
dụng súng săn, cấp giấy chứng minh nhân dân... Hình thức này cũng là hoạt động áp
dụng, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật nhưng khác ở chỗ không phải ban hành
văn bản áp dụng pháp luật.
- Áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp:
Hình thức này là một loại biểu hiện của hoạt động quản lý thông qua hoạt động
mang tính hướng dẫn, điều phối, tổ chức chỉ đạo chung để thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật và áp dụng pháp luật như phân công nhiệm vụ giữa các bộ phận, giữa các
cá nhân trong tập thể, tổ chức triển khai hoạt động, chuẩn bị hội nghị, hội thảo, lập kế
hoạch công tác, kiểm tra hoạt động của các đơn vị, cá nhân....
- Thực hiện những tác động về nghiệp vụ, kỹ thuật:
Là hoạt động sử dụng kiến thức nghiệp vụ, áp dụng thành tựu của khoa học kỹ thuật
vào hoạt động quản lý nhà nước. Ngày nay những tác động nghiệp vụ, kỹ thuật được hỗ
trợ rất nhiều bởi khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ thông tin. Đây cũng là điều kiện
bảo đảm cho hoạt động quản lý được tiến hành nhanh nhạy, hiệu quả hơn.
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, cơ quan (người) có thẩm quyền sẽ
lựa chọn hình thức quản lý hành chính phù hợp để áp dụng trong các hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể nhằm bảo đảm hoạt động quản lý được thực hiện nhanh nhạy, hiệu quả. Người lãnh
đạo có năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức, có kiến thức quản lý hành chính tốt sẽ
tìm ra được phương án phù hợp nhất cần áp dụng để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2. Phương pháp quản lý hành chính Nhà nước
2.1. Phương pháp quản lý hành chính Nhà nước là gì?
Phương pháp quản lý hành chính nhà nước hiểu theo nghĩa hẹp là cách thức tác động
của chủ thể quản lý hành chính nhà nước lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích
đã đề ra. Nói cách khác phương pháp quản lý hành chính là cách thức thực hiện chức
năng của quản lý nhà nước. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước thể hiện ý chí của
Nhà nước trong việc quản lý xã hội.
2.2. Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước
Quản lý nhà nước là sự tác động của Nhà nước lên nhận thức và hành vi của con
người trong xã hội. Khoa học về quản lý đã xác định có hai khả năng tác động một cách
hiệu quả lên nhận thức và hành vi của con người là:
Thứ nhất, sử dụng tổng hợp những biện pháp và cách thức khác nhau để bảo đảm đối
tượng tự giác thực hiện hành vi xử sự cần thiết.
Thứ hai, sử dụng tổng hợp những biện pháp và cách thức khác nhau để bắt buộc đối
tượng thực hiện hành vi xử sự cần thiết.
Từ hai khả năng tác động nói trên lên hành vi và nhận thức của con người đã hình
thành các phương pháp quản lý hành chính chủ yếu sau:
* Phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế:
- Phương pháp thuyết phục:
Tương ứng với khả năng thứ nhất đã nói ở trên, thuyết phục là phương pháp làm cho
đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết phải thực hiện những hành vi nhất định hoặc tránh
(không) thực hiện những hành vi nhất định. Phương pháp thuyết phục là phương pháp
được sử dụng chủ yếu trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, vì lợi ích của chủ thể quản lý
(Nhà nước) và đối tượng quản lý (tổ chức, công dân) về cơ bản là thống nhất, hoạt động
quản lý của Nhà nước thể hiện ý chí và phục vụ người lao động trong xã hội. Thông qua
phương pháp thuyết phục, các chủ thể quản lý giáo dục cho mọi công dân nhận thức đúng
đắn về chấp hành kỷ cương, pháp luật, kỷ luật của Nhà nước, động viên họ tự giác thực
hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Phương pháp thuyết phục thể hiện trong việc sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau, ngoài việc tuyên truyền, giáo dục, vận động như đề cập ở trên
còn sử dụng các biện pháp như nhắc nhở, giải thích, hướng dẫn, kêu gọi, hô hào, cung cấp
thông tin, phát triển các hình thức tự quản, tổ chức, phát động thi đua, biểu dương, khen
thưởng người chấp hành tốt... và các biện pháp mang tính thuyết phục khác mà chủ thể
quản lý thấy sử dụng để đạt được mục đích vận động mọi người thực hiện hành vi xử sự
cần thiết một cách tự giác.
- Phương pháp cưỡng chế:
Cưỡng chế nhà nước là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng những biện
pháp bắt buộc bằng bạo lực về mặt vật chất hay tinh thần đối với cá nhân, tổ chức trong
những trường hợp pháp luật quy định, nhằm buộc các cá nhân hay tổ chức đó phải thực
hiện hay không được thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn
chế nhất định đối với tài sản của cá nhân, tổ chức hay tự do thân thể đối với cá nhân. Biểu
hiện của phương pháp cưỡng chế có thể là việc áp dụng xử phạt hành chính (cảnh cáo,
phạt tiền) hoặc xử lý hình sự (phạt tiền, phạt tù, phạt cải tạo không giam giữ).... Phương
pháp cưỡng chế thường được áp dụng khi đối tượng quản lý không thực hiện các hành vi
xử sự cần thiết một cách tự giác, khi phương pháp thuyết phục không có hiệu quả. Mặc dù
thuyết phục là phương pháp chủ yếu nhưng cưỡng chế có vai trò hết sức quan trọng. Nếu
không có cưỡng chế thì kỷ luật, kỷ cương, pháp luật của Nhà nước không được bảo đảm,
tạo điều kiện cho việc mất trật tự, an toàn xã hội, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân sẽ bị vi phạm.
Có 4 loại cưỡng chế nhà nước:
- Cưỡng chế hình sự: Là các biện pháp mà cơ quan tư pháp (Toà án) áp dụng đối với
cá nhân thực hiện hành vi được pháp luật quy định là tội phạm hình sự, người thực hiện
hành vi phạm tội có thể bị phạt tiền, phạt tù hoặc bị áp dụng các chế tài (biện pháp xử lý)
hình sự khác.
- Cưỡng chế dân sự: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước mà cơ quan tư pháp (Tòa án
dân sự) áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật dân sự, gây
thiệt hại cho Nhà nước hoặc công dân. Toà án có thẩm quyền quyết định các biện pháp
cưỡng chế dân sự (như buộc bồi thường thiệt hại).
- Cưỡng chế kỷ luật: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do cơ quan quản lý áp dụng
đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm kỷ luật lao động. Các biện pháp
cưỡng chế kỷ luật là khiển trách, cảnh cáo, cách chức, hạ ngạch, buộc thôi việc...
- Cưỡng chế hành chính: Là biện pháp cưỡng chế do các cơ quan, người có thẩm
quyền áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính. Cưỡng chế hành
chính bao gồm các hình thức xử phạt hành chính như cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật
vi phạm, các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ người, tạm giữ tang vật, khám nơi cất giấu
tang vật vi phạm... Các biện pháp xử lý hành chính khác như đưa vào trường giáo dưỡng,
đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh....
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, phương pháp cưỡng chế được các
chủ thể quản lý sử dụng là các biện pháp cưỡng chế hành chính và cưỡng chế kỷ luật. Còn
các biện pháp cưỡng chế hình sự và cưỡng chế dân sự không thuộc thẩm quyền áp dụng
của cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
* Phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế:
- Phương pháp hành chính:
Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý bằng cách ra chỉ thị (mệnh lệnh
hành chính) từ trên xuống, nghĩa là chủ thể quản lý ra những mệnh lệnh (quyết định) bắt
buộc đối với đối tượng quản lý. Phương pháp này có tính đơn phương áp đặt nhiệm vụ và
phương án hành động cho đối tượng quản lý. Phương pháp hành chính thể hiện tính chất
quyền lực của hoạt động quản lý, thể hiện mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng giưã chủ
thể quản lý và đối tượng quản lý. Phương pháp hành chính cần thiết để bảo đảm cho hoạt
động quản lý tiến hành có hiệu quả và bảo đảm kỷ luật nhà nước. Biểu hiện cụ thể của
phương pháp này là: cơ quan hành chính có thẩm quyền ban hành những quyết định, chỉ
thị mà các đối tượng quản lý có liên quan phải thi hành, cơ quan hành chính cấp trên giao
nhiệm vụ cho cơ quan hành chính cấp dưới, thủ trưởng giao nhiệm vụ cho nhân viên....
- Phương pháp kinh tế:
Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động gián tiếp đến hành vi của đối tượng
quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế như giá cả, tiền lương, tiền thưởng,
chính sách thuế, lãi suất ngân hàng, tín dụng, trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp... Bằng
phương pháp kinh tế, chủ thể quản lý gián tiếp tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt
được mục đích đề ra. Nội dung của phương pháp kinh tế chính là quản lý bằng lợi ích và
thông qua lợi ích của con người.
Trước đây, trong hoạt động quản lý hành chính, chúng ta nghiêng nhiều về việc áp
dụng phương pháp hành chính. Ngày nay, trong tiến trình đổi mới, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu khách quan là phải chuyển trọng tâm từ
việc