TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL 
 ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY 
 Số 69 (03/2020) No. 69 (03/2020) 
Email: 
[email protected] ; Website:  
107 
MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI CỦA CHƯƠNG TRÌNH 
ĐÀO TẠO NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON TRƯỜNG ĐẠI HỌC 
SÀI GÒN TỪ GÓC ĐỘ CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG 
The levels of meeting social needs of Preschool education curriculum of 
Saigon University from the perspective of employers 
ThS. Trần Thị Tâm Minh 
Trường Đại học Sài Gòn 
TÓM TẮT 
Bài báo trình bày khái quát về chương trình đào tạo ngành Giáo dục Mầm non giai đoạn 2011-2015, 
phân tích những đánh giá từ phía người sử dụng lao động về chương trình đào tạo và sinh viên ngành 
Giáo dục Mầm non được đào tạo trong giai đoạn 2011-2015 (Chương trình đào tạo ngành Giáo dục 
Mầm non giai đoạn 2016-2020 chưa có sinh viên tốt nghiệp). Đồng thời, trên cơ sở đó, bài báo cũng 
đưa ra những định hướng xây dựng và phát triển chương trình đào tạo giai đoạn 2020-2024 nhằm đảm 
bảo đáp ứng nhu cầu xã hội, tăng thêm cơ hội làm việc và khả năng thích ứng cho người học cũng như 
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tại các đơn vị sử dụng lao động. 
Từ khóa: chương trình đào tạo, đáp ứng nhu cầu xã hội, Giáo dục Mầm non, người sử dụng lao động 
ABSTRACT 
The article presents an overview of the preschool education curriculum in the period of 2011-2015 and 
analyzes the assessments from the employers on the curriculum and the learners of Preschool Education 
Department trained in that period (The preschool education curriculum for the period 2016-2020 has no 
graduates yet). At the same time, on that basis, the paper sets out the orientations for constructing and 
developing a curriculum for the period 2020-2024 to ensure meeting social needs, increasing 
employment opportunities and adaptability for learners as well as improving the quality of education in 
employer agencies. 
Keywords: curriculum, meeting social needs, Preschool education, the employer 
1. Đặt vấn đề 
Xây dựng và phát triển chương trình 
đào tạo đại học đáp ứng nhu cầu xã hội là 
một trong những vấn đề cốt lõi, thể hiện 
năng lực đào tạo cũng như khả năng cạnh 
tranh của cơ sở đào tạo nói chung và 
khoa/ngành đào tạo nói riêng. Việc gắn kết 
chương trình đào tạo với nhu cầu xã hội 
đem lại cho đơn vị đào tạo cơ hội thu hút 
người học nhờ gia tăng khả năng cạnh 
tranh cho nguồn nhân lực được đào tạo tại 
đơn vị đó với nguồn nhân lực tốt nghiệp từ 
các đơn vị khác (Lê Thanh Sơn, Trần Thị 
Tú Anh, 2012, tr.1). Bên cạnh đó, đào tạo 
đáp ứng nhu cầu xã hội sẽ hạn chế lãng phí 
(nhân lực, tài lực, thời gian.v.v.) (Nguyễn 
Email: 
[email protected] 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 
108 
Huy Vị, 2015, tr.22). 
Đối với ngành Giáo dục Mầm non 
(GDMN), là ngành học có nhu cầu sử dụng 
lao động luôn ở mức cao, nguy cơ thất 
nghiệp thấp nhưng vẫn đòi hỏi sự cạnh 
tranh về chất lượng đào tạo. Với những 
thay đổi của xã hội, nghề giáo viên mầm 
non (GVMN) cũng có nhiều yêu cầu cao 
hơn về sự thích ứng với công việc nhờ vào 
kỹ năng thực tế, thích ứng các mô hình 
giáo dục hiện đại hoặc linh hoạt với những 
thay đổi của chương trình theo từng năm 
hoặc có năng lực làm việc trong môi 
trường quốc tế. 
Do đó, để xây dựng và phát triển 
chương trình đào tạo ngành Giáo dục Mầm 
non - Trường Đại học Sài Gòn, giai đoạn 
2020-2024 đạt hiệu quả hơn, tăng khả năng 
cạnh tranh, việc đánh giá mức độ đáp ứng 
nhu cầu xã hội của chương trình đào tạo 
trong giai đoạn 2011-2015 là cần thiết. 
(Chương trình giai đoạn 2016-2020 chưa 
có sinh viên tốt nghiệp). 
Nhu cầu xã hội bao gồm nhu cầu của 
nhà nước, của phụ huynh, của người học, 
của người sử dụng lao động (đơn vị sử 
dụng lao động), của xu hướng phát triển 
thế giới.v.v. (Nguyễn Xuân Thủy, 2013, 
tr.3) Bài báo này trình bày và phân tích sự 
đáp ứng nhu cầu xã hội ở góc độ người sử 
dụng lao động. 
2. Giải quyết vấn đề 
2.1. Khái niệm 
2.1.1. Nhu cầu xã hội 
- Đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, 
theo cách hiểu thông thường là các trường 
phải đào tạo ngành nghề mà xã hội có nhu 
cầu với chỉ tiêu hợp lý, không dư thừa, vì 
như thế là gây lãng phí. Ngành nghề mà xã 
hội đang cần, cũng như chỉ tiêu cần được 
xác định thông qua dự báo có cơ sở khoa 
học trong thời gian ngắn hạn, trung hạn và 
dài hạn. Đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội 
cũng có thể hiểu là trình độ sinh viên khi 
tốt nghiệp phải đáp ứng được mong đợi của 
người sử dụng lao động. Bài viết này tiếp 
cận theo cách hiểu thứ hai. 
- Nhu cầu sử dụng lao động là những 
mong muốn của các tổ chức, cơ quan, 
doanh nghiệp đối với người lao động mà 
họ cần tuyển dụng về kiến thức, kĩ năng, 
thái độ hành nghề để đảm bảo đúng chức 
năng nhiệm vụ được giao (Lê Thanh Sơn, 
Trần Thị Tú Anh, 2012, tr.3). 
2.1.2. Chương trình đào tạo 
Chương trình đào tạo là kế hoạch tổng 
thể bao gồm: mục đích đào tạo, mục tiêu, 
chuẩn đầu ra, nội dung đào tạo (với độ 
rộng và sâu), phương thức đào tạo và hình 
thức tổ chức đào tạo (với các phương pháp, 
phương tiện, công cụ dạy học), phương 
thức đánh giá kết quả đào tạo (trong so 
sánh, đối chiếu với chuẩn đầu ra) (Bộ Giáo 
dục và Đào tạo, 2016, tr.21). 
2.2. Tiêu chí về sự đáp ứng nhu cầu 
xã hội của chương trình đào tạo 
Theo Phan Văn Kha sự phù hợp giữa 
chương trình đào tạo với nhu cầu xã hội thể 
hiện qua nguyên tắc 3P: Performance (thỏa 
mãn về tiềm năng, năng lực), Punctuality 
(thời điểm cung cấp sản phẩm) và Price 
(giá thành sản phẩm) (Phan Văn Kha, 
2007, tr.32). Tiêu chí cụ thể để đánh giá sự 
đáp ứng nhu cầu xã hội của chương trình 
đào tạo GVMN như sau: 
- Tiêu chí “Thỏa mãn về tiềm năng, 
năng lực” 
Bao gồm các yêu cầu về kiến thức, kĩ 
năng, thái độ hành nghề được xây dựng 
theo chuẩn nghề nghiệp do nhà nước ban 
hành và phù hợp với định hướng phát triển 
chương trình của các trường mầm non, 
nhất là các trường mầm non tư thục chất 
lượng cao hoặc trường quốc tế thực thụ với 
TRẦN THỊ TÂM MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
109 
mô hình giáo dục riêng. 
- Tiêu chí “Thời điểm cung cấp sản 
phẩm-người lao động” 
Chương trình có thời gian đào tạo hợp 
lý, không quá dài vì sẽ gặp nguy cơ lỗi 
thời, lạc hậu nhưng cũng không rút ngắn 
thời gian đào tạo quá mức vì sẽ gặp vấn đề 
về chất lượng chuyên môn. 
- Tiêu chí “Giá thành sản phẩm” 
Ở góc độ người lao động, giá thành 
sản phẩm tốt là học phí không cao nhưng 
cơ hội làm việc có thu nhập cao, nhiều cơ 
hội thăng tiến sẽ là tiêu chí hàng đầu. Ở 
góc độ người sử dụng lao động chuyên 
nghiệp, giá thành sản phẩm tốt là năng lực 
của GVMN tương xứng với mức thu nhập 
được chi trả. Tuy nhiên, hiện nay, ngành sư 
phạm vẫn được nhà nước hỗ trợ học phí, 
với học sinh xuất sắc và giỏi vẫn được 
nhận học bổng, nên chi phí đào tạo không 
phải là tiêu chí đánh giá chất lượng chương 
trình. Bên cạnh đó, vì nhiều lí do khách 
quan, thu nhập của GVMN nhìn chung vẫn 
ở mức thấp, chưa tương xứng với công sức 
lao động thực tế. Do đó, chương trình đào 
tạo có giá thành sản phẩm tốt là chương 
trình đảm bảo cơ hội việc làm với mức thu 
nhập phù hợp, cơ hội thăng tiến cho sinh 
viên sau tốt nghiệp. 
2.3. Chương trình đào tạo ngành 
Giáo dục Mầm non giai đoạn 2011-2015 
của Trường Đại học Sài Gòn 
Chương trình đào tạo ngành GDMN 
giai đoạn 2011-2015 là sự kế thừa từ 
chương trình giai đoạn trước, trên cơ sở 
tiếp thu, học hỏi các chương trình đào tạo 
GVMN trong và ngoài nước. Chương trình 
đào tạo theo niên chế, thời gian đào tạo 4 
năm với 134 tín chỉ (chưa bao gồm học 
phần Giáo dục thể chất và Giáo dục quốc 
phòng). Trong đó: - Khối kiến thức chung: 
25 tín chỉ - Khối kiến thức cơ sở: 40 tín chỉ 
- Khối kiến thức ngành: 50 tín chỉ - Thực 
tập nghề nghiệp: 9 tín chỉ - Khóa luận tốt 
nghiệp/các học phần thay thế: 10 tín chỉ. 
Mục tiêu chính của chương trình như sau: 
2.3.1. Mục tiêu chung 
Đào tạo cử nhân ngành giáo dục mầm 
non có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, 
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để thực 
hiện công tác giáo dục trẻ và có khả năng 
học ở trình độ cao hơn. 
2.3.2. Mục tiêu cụ thể và chuẩn đầu ra 
2.3.2.1. Yêu cầu về phẩm chất đạo đức 
Sinh viên tốt nghiệp phải đạt những 
yêu cầu sau đây về phẩm chất chính trị và 
đạo đức nghề: 
Phẩm chất chính trị 
Có lập trường tư tưởng vững vàng, yêu 
nước, yêu chủ nghĩa xã hội; nghiêm chỉnh 
chấp hành đường lối của Đảng, chính sách, 
pháp luật của Nhà nước. Biết vận dụng 
sáng tạo đường lối giáo dục của Đảng và 
Nhà nước vào việc chăm sóc và giáo dục 
trẻ em. 
Phẩm chất nghề nghiệp 
- Yêu nghề, say mê, tận tụy với công 
việc; 
- Yêu trẻ, tôn trọng và có tinh thần 
trách nhiệm cao với trẻ; 
- Có tác phong nhanh nhẹn, linh hoạt, 
năng động, độc lập; giao tiếp cởi mở, chân 
tình, thân thương, gợi được cảm giác an 
toàn ở trẻ; 
- Có lối sống lành mạnh, trung thực, 
giản dị, nêu gương tốt cho trẻ; 
- Có văn hóa giao tiếp; đoàn kết, 
khiêm tốn học hỏi, sẵn sàng giúp đỡ đồng 
nghiệp trong chuyên môn, quan hệ tốt với 
cha mẹ trẻ và cộng đồng; 
- Có ý thức rèn luyện để hoàn thiện 
bản thân, bồi dưỡng nâng cao trình độ 
chuyên môn nghiệp vụ, thích ứng nhanh 
trước những biến đổi của xã hội và của 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 
110 
ngành GDMN. 
2.3.2.2. Yêu cầu về kiến thức 
Bên cạnh phẩm chất đạo đức, sinh viên 
tốt nghiệp phải dạt các yêu cầu về kiến 
thức nghề nghiệp, cụ thể: 
- Hiểu biết về kiến thức giáo dục đại 
cương để vận dụng một cách sáng tạo vào 
thực tiễn GDMN; 
- Nắm vững hệ thống kiến thức khoa 
học GDMN ở trình độ cao đẳng để thực 
hiện tốt công tác chăm sóc-giáo dục trẻ; 
- Hiểu biết đầy đủ về mục tiêu, nội 
dung chương trình GDMN, phương pháp 
tổ chức, đánh giá các hoạt động giáo dục 
và sự phát triển của trẻ em ở các độ tuổi 
khác nhau; 
- Áp dụng kiến thức khoa học GDMN 
vào việc tổ chức và đánh giá các hoạt động 
chăm sóc - giáo dục trẻ ở tất cả các nhóm 
tuổi, các loại hình trường, lớp mầm non 
khác nhau. 
2.3.2.3. Yêu cầu về kĩ năng 
Ngoài những yêu cầu trên, sinh viên 
cần có những kĩ năng nghề sau: 
- Phân tích chương trình giáo dục mầm 
non; 
- Quan sát, tìm hiểu và đánh giá các 
hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ; 
- Lập kế hoạch chăm sóc và giáo dục 
trẻ lứa tuổi mầm non; 
- Tổ chức, quản lý và thực hiện chế độ 
sinh hoạt; các hoạt động chăm sóc-giáo dục 
cho trẻ lứa tuổi mầm non theo kế hoạch; 
- Giao tiếp và ứng xử sư phạm với các 
đối tượng khác nhau; 
- Làm việc trong nhóm; khả năng thích 
ứng với yêu cầu của công tác chăm sóc 
giáo dục trẻ; 
- Tuyên truyền khoa học giáo dục, vận 
động xã hội hóa GDMN; 
- Ứng dụng công nghệ thông tin, thành 
tựu giáo dục mầm non trong và ngoài nước 
vào công tác chăm sóc giáo dục trẻ; 
- Tự nghiên cứu khoa học giáo dục 
mầm non, tự bồi dưỡng nâng cao năng lực 
sư phạm và trình độ chuyên môn. 
2.3.3. Vị trí làm việc của người học 
sau khi tốt nghiệp 
Sau khi tốt nghiệp, người học có đủ 
khả năng để làm việc ở các vị trí sau: 
- Giáo viên mầm non ở các cơ sở giáo 
dục mầm non; 
- Chuyên viên trong các cơ quan, tổ 
chức có liên quan đến bậc học mầm non; 
- Giảng dạy trong các trường đào tạo 
giáo viên mầm non; 
- Cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục 
mầm non (phải tốt nghiệp loại xuất sắc 
hoặc giỏi). 
2.3.4. Khả năng học tập và nâng cao 
trình độ sau khi tốt nghiệp 
Ngoài khả năng làm việc tại các vị trí 
vừa nêu, người học còn có khả năng tiếp 
tục học tập nâng cao sau khi tốt nghiệp, 
bao gồm: 
- Các chương trình bồi dưỡng chuyên 
môn, nghiệp vụ về giáo dục mầm non; 
- Các chương trình đào tạo sau đại học 
về giáo dục mầm non và quản lý giáo dục. 
2.4. Mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội 
của chương trình đào tạo giáo viên Mầm 
non giai đoạn 2011-2015 của Trường Đại 
học Sài Gòn, đánh giá từ góc độ của 
người sử dụng lao động 
Đối tượng được khảo sát bao gồm 41 
cán bộ quản lý trường mầm non công lập, 
tư thục, quốc tế, các công ty hoạt động 
trong lĩnh vực giáo dục kỹ năng sống - tổ 
chức hoạt động ngoại khóa... trên địa bàn 
Thành phố Hồ Chí Minh có sử dụng lao 
động là sinh viên ngành GDMN trường 
Đại học Sài Gòn đã được học chương trình 
giai đoạn 2011-2015. Phương pháp khảo 
sát được sử dụng là bảng hỏi và phỏng vấn. 
TRẦN THỊ TÂM MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
111 
Nội dung khảo sát bao gồm: đánh giá về 
chương trình đào tạo, về năng lực làm việc 
của người lao động. Về tiêu chí “Thỏa mãn 
tiềm năng, năng lực” của chương trình đào 
tạo, kết quả thu được như sau: 
Bảng 2.1. Mức độ đáp ứng của chương 
trình đào tạo ngành GDMN giai đoạn 
2011-2015 Trường Đại học Sài Gòn về 
thỏa mãn tiềm năng, năng lực 
STT Nội dung 
Phù 
hợp 
Chưa 
phù hợp 
1 Mục tiêu đào tạo 100% 0% 
2 Nội dung đào tạo 93% 7% 
3 Chất lượng đào tạo 67% 33% 
Về mục tiêu đào tạo, 100% nhóm khảo 
sát đánh giá mục tiêu đào tạo phù hợp với 
chuẩn nghề nghiệp cũng như nhu cầu thực 
tiễn công việc. Tuy nhiên, vẫn cần bổ sung 
thêm hoặc chi tiết hóa một số mục tiêu 
quan trọng về giao tiếp sư phạm mầm non, 
ứng dụng công nghệ thông tin, lập kế 
hoạch giáo dục. 
Về nội dung chương trình, 7% đánh 
giá chưa phù hợp với những lý do sau: 
- Một số nội dung đào tạo trong các 
môn chuyên ngành như các môn phương 
pháp, lập kế hoạch giáo dục vẫn chưa cập 
nhật những chỉ đạo của Sở Giáo dục. 
- Một số kỹ năng cần có nhưng sinh 
viên lại chưa được trang bị như kỹ năng 
quản lý nhóm lớp, kỹ năng sử dụng bảng 
tương tác, kỹ năng xử lý các tình huống sư 
phạm .v.v 
93% ý kiến cho rằng nội dung đào tạo 
phù hợp nhưng cũng có chia sẻ tương tự 
với nhóm trên. Tuy nhiên, nhóm khảo sát 
này cho rằng việc GVMN thiếu kỹ năng, 
chưa cập nhật các chỉ đạo mới vẫn có thể 
làm việc tốt sau một thời gian nếu có nền 
tảng cơ bản chắc chắn. Khoảng thời gian 
để thích ứng ngắn hay dài phụ thuộc vào 
nhiều yếu tố, nhưng chủ đạo vẫn do nỗ lực 
của chính sinh viên. Do đó, để tăng khả 
năng thích ứng cũng như năng lực làm việc 
cho sinh viên mới tốt nghiệp, chương trình 
đào tạo cần bổ sung những nội dung sau: 
Bảng 2.2. Những kỹ năng cần bổ sung vào 
chương trình đào tạo GVMN 
STT Nội dung 
Tỉ lệ 
(N=41) 
1 Kỹ năng quản lý nhóm lớp 100% 
2 Kỹ năng quan sát, tự học hỏi 90% 
3 
Thái độ khiêm tốn và kỹ 
năng lắng nghe, tiếp thu ý 
kiến 
88 % 
4 
Kỹ năng sử dụng bảng tương 
tác 
85% 
5 
Kỹ năng xử lý tình huống sư 
phạm 
78% 
6 Kỹ năng làm việc nhóm 78% 
7 Kỹ năng quản lý cảm xúc 66% 
8 
Kỹ năng lập kế hoạch giáo 
dục và tổ chức lễ hội 
36% 
9 Kỹ năng sử dụng nhạc cụ 14% 
100% nhóm khảo sát cho rằng cần bổ 
sung nội dung về “Kỹ năng quản lý nhóm, 
lớp” vì sinh viên mới tốt nghiệp, tuy đã qua 
hai kỳ thực tập nhưng vẫn chưa có khả 
năng tổ chức nhóm lớp, bị lệ thuộc nhiều 
vào giáo viên còn lại trong lớp. Việc điều 
động trẻ trong các hoạt động hàng vẫn rất 
lúng túng, nhất là khi tổ chức giờ học hoặc 
cho trẻ di chuyển đến vị trí khác. Ngoài ra 
việc quan sát, nắm bắt tình hình của trẻ 
trong nhóm lớp còn thụ động và chưa bao 
quát. Đặc biệt là chưa giải quyết ổn thỏa 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 
112 
những tình huống phát sinh từ trẻ như giúp 
trẻ mới thích nghi sớm, dỗ trẻ khóc.v.v. 
90% nhóm khảo sát đồng ý bổ sung 
nội dung về “Kỹ năng quan sát, tự học hỏi” 
vì rất ít sinh viên mới tốt nghiệp tỏ ra năng 
động, tích cực học hỏi từ đồng nghiệp 
trong quá trình làm việc. Nếu sinh viên 
quan sát tốt, có thể thích ứng rất nhanh vì 
với đặc thù nghề GVMN, các cô thường 
không có nhiều thời gian để trao đổi, 
hướng dẫn cụ thể chi tiết. 
Bên cạnh đó, vẫn có nhiều giáo viên 
nhiều kinh nghiệm sẵn sàng chia sẻ, hướng 
dẫn đồng nghiệp mới, nhưng nhiều sinh 
viên không tiếp thu và một vài trường hợp 
thể hiện rõ thái độ không hài lòng vì cho 
rằng người góp ý có trình độ thấp hơn 
mình. Đây cũng là lí do một số cơ sở giáo 
dục mầm non rất quan ngại khi tuyển dụng 
GVMN có trình độ đại học. Do đó, “Thái 
độ khiêm tốn và kỹ năng lắng nghe, tiếp 
thu ý kiến” là nội dung được 88% ý kiến 
tán đồng. 
Ngoài ra, nội dung về ứng dụng công 
nghệ thông tin tuy đã có, nhưng cần bổ 
sung thêm về việc sử dụng bảng tương tác 
(85%), vì đa số trường mầm non hiện nay 
đều có bảng tương tác, nhưng sinh viên 
mới tốt nghiệp hoàn toàn không biết sử 
dụng phương tiện này. 
Song song đó là cách ứng biến với các 
tình huống sư phạm của sinh viên mới tốt 
nghiệp vẫn còn nhiều lúng túng, ngây ngô, 
nên cần bổ sung “Kỹ năng xử lý tình huống 
sư phạm” (78%). Có những tình huống rất 
đơn giản như đang trong giờ học, trẻ đi ra 
khỏi lớp hoặc đi vệ sinh giữa lớp, hoặc 
khóc òa lên... nhưng GVMN mới không 
biết cách xử lý hoặc làm ngơ cho qua. 
Trong ứng xử với phụ huynh càng thể hiện 
sự vụng về. Một số vấn đề thường gặp như 
thường xuyên than phiền về trẻ với phụ 
huynh vì nghĩ đó là biểu hiện của sự quan 
tâm nhưng không nhận ra thái độ không 
vui của phụ huynh, quên hoặc nhầm đồ của 
trẻ khi trả trẻ, thiếu nụ cười và lời chào khi 
phụ huynh đưa hoặc đón con, giải đáp thắc 
mắc của phụ huynh một cách qua loa hoặc 
thiếu chính xác, quát mắng phụ huynh khi 
phụ huynh cư xử thiếu tôn trọng .v.v 
Một trong những nguyên nhân tác 
động đến vấn đề ứng xử do kỹ năng quản 
lý cảm xúc chưa phù hợp trong các tình 
huống giao tiếp với phụ huynh, trẻ và đồng 
nghiệp. Do đó, cần bổ sung thêm mục tiêu 
về quản lý cảm xúc (66%). 
Ngoài ra, công việc của GVMN là 
công việc đòi hỏi sự hợp tác, làm việc đội 
nhóm, do đó, 78% ý kiến cho rằng cần bổ 
sung “Kỹ năng làm việc nhóm” vào nội 
dung đào tạo. 
“Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức lễ 
hội” cũng cần bổ sung vào dù đây không 
phải là công việc chính của GVMN, nhưng 
là một phần không thể thiếu trong hoạt 
động ở trường mầm non, vì trẻ học qua vui 
chơi, trong lễ hội cũng có màu sắc của hoạt 
động vui chơi. Bên cạnh đó, việc trang bị 
kỹ năng này có thể tạo điều kiện cho những 
sinh viên yêu trẻ nhưng không thể chịu 
được áp lực khi làm GVMN có thể chuyển 
hướng sang làm ở lĩnh vực tổ chức sự kiện 
cho trẻ mầm non. 
14% ý kiến đề nghị bổ sung kỹ năng 
sử dụng nhạc cụ vì trường mầm non có 
trang bị đàn ở các lớp, nhưng giáo viên lại 
không biết sử dụng, vừa lãng phí vừa làm 
giảm hiệu quả giáo dục. Điều này hợp lý, 
vì trẻ mầm non giàu cảm xúc, thích vận 
động, thích cảm thụ cái đẹp, và âm nhạc 
chính là chất xúc tác tuyệt vời. Việc cô 
giáo biết sử dụng nhạc cụ sẽ đem lại cho 
trẻ nhiều cơ hội trải nghiệm cảm xúc, vận 
động tự do theo giai điệu ngẫu hứng của cô 
TRẦN THỊ TÂM MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
113 
để phát triển tưởng tượng, sáng tạo hoặc 
chỉ đơn giản là phá vỡ bầu không khí trầm 
buồn trong lớp khi cần thiết. 
Đánh giá về sản phẩm đào tạo, 67% 
đánh giá “Phù hợp” vì nhận định rằng sinh 
viên ra trường đã đáp ứng cơ bản nhu cầu 
nghề nghiệp. 33% nhóm khảo sát đánh giá 
“Chưa phù hợp” vì nhận thấy mục tiêu 
chương trình đào tạo về cơ bản là đầy đủ, 
nhưng một số sinh viên ra trường vẫn còn 
thiếu nhiều mục tiêu đã đề ra, nổi bật là 
tinh thần trách nhiệm, khả năng tự học, tinh 
thần học hỏi và sự yêu nghề. Nhiều sinh 
viên đi làm chỉ quan tâm đến thu nhập, 
không quan tâm đến những cơ hội, điều 
kiện đã được nhận. Tình trạng này chủ yếu 
xảy ra ở các trường mầm non tư thục chất 
lượng cao, trường mầm non quốc tế. 
Những trường chất lượng thật sự thường có 
những yều cầu riêng về chuyên môn, nên 
sinh viên tốt nghiệp mới vào làm sẽ được 
huấn luyện thêm, không thu phí. Tuy 
nhiên, chủ các cơ sở luôn lo lắng công sức 
đào tạo của mình bị lãng phí do sinh viên 
thường có xu hướng tìm nơi thu nhập cao – 
việc ít dù điều kiện làm việc tại những cơ 
sở này rất tốt. Tuy nhu cầu tăng thu nhập là 
chính đáng nhưng thái độ vô ơn, quay lưng 
chỉ vì thu nhập là điều không được hoan 
nghênh. Một số trường mầm non có cách 
chế tài bằng hợp đồng bồi thường nếu 
không đả