Tóm tắt
Việc áp dụng đào tạo tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ là một tất yếu, phù hợp xu thế của giáo dục thế giới.
Tuy nhiên, song song với đó, những câu hỏi về chất lượng đào tạo cũng liên tiếp được đặt ra, đòi hỏi các
cơ sở đào tạo sau đại học phải xem xét lại quy trình đào tạo tiến sĩ và cách thức tổ chức, quản lý phù
hợp. Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ trong các cơ sở đào tạo sau đại
học hiện nay ở nước ta, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 396 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao hiệu quả đào tạo Tiến sỹ theo hệ thống tín chỉ ở các cơ sở đào tạo sau đại học hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 (34) - Thaùng 11/2015
58
Nâng cao hiệu quả đào tạo Tiến sỹ theo hệ thống tín chỉ
ở các cơ sở đào tạo sau đại học hiện nay
Increasing effectiveness of recent doctoral training under credit system in
postgraduate education institutes
ThS. Lã Thành Trung
Trường Đại học Sài Gòn
M.B. La Thanh Trung
Sai Gon University
Tóm tắt
Việc áp dụng đào tạo tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ là một tất yếu, phù hợp xu thế của giáo dục thế giới.
Tuy nhiên, song song với đó, những câu hỏi về chất lượng đào tạo cũng liên tiếp được đặt ra, đòi hỏi các
cơ sở đào tạo sau đại học phải xem xét lại quy trình đào tạo tiến sĩ và cách thức tổ chức, quản lý phù
hợp. Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ trong các cơ sở đào tạo sau đại
học hiện nay ở nước ta, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Từ khóa: đào tạo tiến sỹ theo hệ thống tín chỉ, cơ sở đào tạo sau đại học
Abstreet
The application of credit system in doctoral training becomes inevitable, compactible with worldwide
education trending. However, the quality of these programs is frequently questioned, which requires
postgraduate education institutes to review their procedures and management. Based on practical
analysis of doctoral training under credit system in postgraduate education institutes in Viet Nam, the
author proposes some solutions to improve the effectiveness of this situation.
Keywords: doctoral training under credit system, postgraduate education institutes
1. Đào tạo tiến sĩ theo hệ thống
tín chỉ - sự lựa chọn tất yếu cho đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo
toàn bộ thời gian bắt buộc của một người
học bình thường để học một môn học cụ
thể, bao gồm thời gian lên lớp; thời gian ở
trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các
phần việc khác đã được quy định ở thời
khóa biểu; thời gian dành cho đọc sách,
nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc
chuẩn bị bài Đây là phương thức đào tạo
theo triết lý “Tôn trọng người học, xem
người học là trung tâm của quá trình đào
tạo”, tuân theo quy luật giá trị, cạnh tranh
làm động lực không ngừng nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực (người học được
chọn thầy, chọn môn học) và có khả năng
chuyển đổi ngành nghề nhanh.
Hình thức đào tạo này lần đầu tiên
được tổ chức tại trường Đại học Harvard
vào năm 1872 sau đó nó lan rộng ra khắp
Bắc Mỹ và thế giới. Đến nay, đào tạo theo
hệ thống tín chỉ đã khẳng định tính ưu việt,
59
hiệu quả không chỉ đối với các nước phát
triển mà còn đối với các nước đang phát
triển. Ở Việt Nam, năm 2007, Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành “Quy chế Đào tạo
Đại học và Cao đẳng hệ chính quy theo hệ
thống tín chỉ” và năm 2011 là hạn cuối
cùng để các trường liên quan phải chuyển
đổi sang hệ thống đào tạo mới này. Hiện
nay, các cơ sở giáo dục không chỉ áp dụng
đào tạo theo tín chỉ cho sinh viên bậc Đại
học mà còn cho học viên, NCS sau Đại học
như: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội,
Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ
Chí Minh, Đại học Cần Thơ, Đại học Quốc
gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội Việc lựa chọn đào tạo theo hệ thống
tín chỉ đối với đào tạo sau Đại học nói
chung và đào tạo tiến sĩ nói riêng là sự lựa
chọn tối ưu, là con đường tất yếu để đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tại sao
lại như vậy?
Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành theo Thông
tư số 10/2009/TTBGĐT ngày 17/05/2009
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo xác
định mục tiêu đào tạo trình độ tiến sĩ là đào
tạo những nhà khoa học, có trình độ cao về
lý thuyết và năng lực thực hành phù hợp,
có khả năng nghiên cứu độc lập, sáng tạo,
khả năng phát hiện và giải quyết những vấn
đề mới có ý nghĩa khoa học, công nghệ và
hướng dẫn nghiên cứu khoa học. Trước
đây, đào tạo trình độ tiến sĩ chưa phát huy
được khả năng nghiên cứu độc lập của
NCS bởi mối quan hệ chặt chẽ, có phần
“công thức”, áp đặt giữa NCS với nhà
trường, với khoa đào tạo và người hướng
dẫn. Thế nhưng, đào tạo theo hệ thống tín
chỉ đáp ứng được mục tiêu này bởi đây là
hình thức tạo điều kiện cho người học tự
học, tự nghiên cứu ở mức độ cao nhất. Nói
cách khác, đào tạo theo hệ thống tín chỉ
giúp NCS phát huy hết các tố chất tiềm
năng của mình trong việc tự học và nghiên
cứu khoa học.
Thông thường, NCS là những người
đã có công việc ổn định (tại các trường Đại
học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu,...). Dẫu
rằng tham gia chương trình đào tạo trình độ
tiến sĩ tập trung thì NCS vẫn chịu sự quản
lý của cơ quan cử đi học, đồng nghĩa với
khó chủ động về thời gian, công việc. Nếu
đào tạo theo hệ thống tín chỉ, NCS sẽ chủ
động, linh hoạt hoàn toàn về mặt thời gian,
sắp xếp công việc để đạt kết quả học tập,
nghiên cứu cao nhất. Bên cạnh đó, NCS
cũng sẽ chủ động trong việc kéo dài hoặc
rút ngắn thời gian đào tạo. Trên thực tế, đã
có nhiều NCS chỉ mất gần 3 năm để hoàn
thành chương trình đào tạo tiến sĩ.
Trong bối cảnh quốc tế hóa đào tạo
như hiện nay, các trường Đại học, các cơ
sở đào tạo sau đại học trong nước có khả
năng mở các chương trình đào tạo liên kết
với các trường Đại học trong khu vực và
trên thế giới theo một chuẩn thống nhất.
Nếu áp dụng hình thức đào tạo theo hệ
thống tín chỉ, NCS có thể hoàn thành một
số tín chỉ cần thiết trong giai đoạn đầu của
chương trình đào tạo trong nước và sau đó
tiếp tục học tập, nghiên cứu tại trường Đại
học, cơ sở đào tạo sau đại học ở nước
ngoài mà nhà trường liên kết đào tạo để
hoàn thành những tín chỉ còn lại theo yêu
cầu của trường Đại học đó qui định.
Như vậy, rõ ràng, so với đào tạo theo
học phần, niên chế, đào tạo trình độ tiến sĩ
theo hệ thống tín chỉ dù mới mẻ nhưng
cũng đã đem lại kết quả bước đầu, khẳng
định tính ưu việt của hình thức đào tạo này
nói chung và sự phù hợp của nó với đào
tạo trình độ tiến sĩ nói riêng. Chính vì vậy,
các trường Đại học, các cơ sở đào tạo sau
60
đại học trong nước đã áp dụng hình thức
đào tạo này không chỉ với sinh viên mà còn
với học viên Cao học và NCS.
2. Thực trạng đào tạo trình độ
tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ ở một số
trường Đại học, cơ sở đào tạo sau đại học
ở nước ta hiện nay
Hiện nay, hầu hết các trường Đại học
trong nước ta đều đã áp dụng đào tạo tiến
sĩ theo hệ thống tín chỉ và ban hành quy
định cụ thể để đảm bảo hiệu quả của hình
thức này. Tuy nhiên, khi số lượng NCS
tăng nhanh đáng kể, cùng với đó là thêm
rất nhiều cơ sở được cấp phép đào tạo trình
độ tiến sĩ thì việc quản lý (ở tầm vĩ mô) sẽ
rất khó khăn. Thêm vào đó, đào tạo theo tín
chỉ là hình thức đào tạo tương đối tự do,
“mở”, buộc các cơ sở đào tạo sau đại học
phải đổi mới quy trình, phương thức quản
lý sao cho vừa đảm bảo sự linh hoạt, mềm
dẻo, vừa đảm bảo tính chặt chẽ, ràng buộc
người dạy và người học. Thế nhưng thực tế
cho thấy, trình độ quản lý của chúng ta còn
đôi lúc chưa theo kịp sự đổi mới của
chương trình đào tạo. Chính vì vậy, nó tạo
ra nhiều kẽ hở dẫn đến một số hạn chế, bất
cập như:
Trước hết, một hạn chế dễ thấy là việc
áp dụng đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ
thống tín chỉ để thay thế đào tạo theo niên
chế ở một số trường Đại học thực chất chỉ
là “bình mới rượu cũ”. Bởi để có thể áp
dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ cần phải
có các điều kiện về: số lượng, chất lượng
đội ngũ giảng viên; số lượng NCS tham gia
các lớp học; cơ sở vật chất phục vụ giảng
dạy, nghiên cứu Tuy nhiên, số giảng
viên có thể giảng dạy NCS không nhiều; số
lượng NCS trong một cơ sở giáo dục cũng
có hạn. Do đó, khó có thể tổ chức thành
các lớp tín chỉ khác nhau để NCS lựa chọn.
Bên cạnh đó, những điều kiện hỗ trợ NCS
học tập, nghiên cứu độc lập cũng không có
nhiều nên hoặc là người hướng dẫn phải
“cầm tay chỉ việc” hoặc là để NCS “tự
bơi”. Rất nhiều NCS chỉ gói gọn hoạt động
của mình trong một số công việc như: tham
gia các học phần, hoàn thành chuyên đề,
hoàn thành tiểu luận tổng quan và nộp luận
án mà không có sự tự học, tự nghiên cứu
trong phạm vi chuyên ngành. Kết quả là
sau 3 - 4 năm theo học tiến sĩ, năng lực
nghiên cứu của NCS không được cải thiện
ngoài việc hoàn thành luận án - một phạm
vi nghiên cứu rất nhỏ trong phạm vi
chuyên ngành rộng lớn.
Thứ hai, theo quy định, NCS chỉ phải
trải qua các học phần ở trình độ tiến sĩ, một
số chuyên đề, tiểu luận tổng quan. Sau khi
hoàn thành các nội dung quy định trong
chương trình đào tạo (thường chiếm chưa
đến 1/3 tổng thời gian đào tạo), NCS
không cần đến trường cho đến khi hoàn
thành luận án. Như vậy, một vấn đề nảy
sinh là NCS được “tự do” trong một
khoảng thời gian rất lớn mà không có sự
theo sát, quản lý chặt chẽ về chuyên môn.
Cơ sở đào tạo sau đại học chỉ quản lý kết
quả (là tiểu luận, chuyên đề) chứ không
kiểm soát được quá trình nghiên cứu, học
tập diễn ra như thế nào? Nhiều NCS đã
dùng khoảng thời gian này để tiếp tục làm
việc tại các cơ quan, đơn vị gốc hoặc nghỉ
ngơi ở gia đình trong khi đáng lẽ họ phải
toàn tâm cho việc nghiên cứu trong thời
gian theo học NCS. Nói cách khác, NCS
không được sống trong “môi trường học
thuật” thực thụ nên họ cũng không có
nghĩa vụ phải nghiên cứu nghiêm túc, liên
tục. Cũng chính vì sự “tự do” và lỏng lẻo
trong quản lý như thế này nên hiện tượng
viết hộ luận án diễn ra phổ biến mà bản
thân người hướng dẫn, khoa/phòng Sau
Đại học không thể kiểm soát được.
61
Một trong những ưu việt nổi trội của
quá trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ là
người học được phát huy khả năng tự học,
tự nghiên cứu. Nếu không tự học, tự
nghiên cứu được thì không phải là đào tạo
theo hệ thống tín chỉ, lại càng không cần
đến đào tạo tiến sĩ. Đối với NCS, điều này
là cần thiết (nếu không nói là bắt buộc).
Tuy nhiên, để nghiên cứu độc lập, NCS
cũng cần phải có sự chỉ đạo, định hướng từ
phía cán bộ hướng dẫn. Nếu không, việc
nghiên cứu “độc lập” sẽ trở thành tùy tiện,
không phương hướng. Ví như cán bộ
hướng dẫn phải giao nhiệm vụ cho NCS,
hỗ trợ NCS các thông tin liên quan đến đề
tài (ở nhiều nước, NCS được tham gia vào
dự án nghiên cứu dài hơi của cán bộ hướng
dẫn). Để làm được điều ấy, đòi hỏi cán bộ
hướng dẫn phải có trình độ, năng lực
nghiên cứu nhất định (ít nhất cán bộ hướng
dẫn cũng phải có dự án, chiến lược hướng
dẫn NCS nghiên cứu), cùng sự hỗ trợ của
hệ thống thông tin thư viện đầy đủ, các
phòng thí nghiệm hiện đại. NCS cũng cần
có trình độ ngoại ngữ thông thạo để tiếp
cận với các tài liệu khoa học nước ngoài.
Thế nhưng, những điều này lại khó có
thể thực hiện được ở nước ta. Thực tế cho
thấy có rất nhiều giáo viên/cán bộ hướng
dẫn khoa học vẫn đồng ý hướng dẫn NCS
những đề tài nằm ngoài lĩnh vực nghiên
cứu của mình. NCS đề xuất người hướng
dẫn cũng vì “độ nổi tiếng” hay vị trí chính
trị của họ chứ không hẳn vì định hướng
nghiên cứu của bản thân phù hợp với người
hướng dẫn. Nhất là ở các trường Đại học,
dù số lượng giảng viên có học hàm, học vị
GS, PGS, TS nhiều nhưng những người có
thể nghiên cứu khoa học và hướng dẫn
nghiên cứu không nhiều. Rất nhiều trường
hợp người hướng dẫn không có gì để
“hướng dẫn” và NCS cũng không xác định
được mình cần cán bộ hướng dẫn trợ giúp
điều gì. Rất nhiều NCS phải “tự lực cánh
sinh” hoàn toàn và luận án chỉ nhằm đối
phó với cán bộ hướng dẫn và hội đồng
khoa học mà không hướng đến tính khả thi
hoặc giá trị thực tiễn của luận án. Bên cạnh
đó, những hạn chế về hệ thống thư viện,
phòng thí nghiệm và khả năng ngoại ngữ
của NCS cũng ngăn cản họ nghiên cứu
khoa học độc lập theo đúng nghĩa.
Yếu tố trung tâm của quá trình đào tạo
theo hệ thống tín chỉ chính là người học.
Đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ thống tín
chỉ, NCS sẽ được làm chủ quá trình học
tập, đào tạo của mình theo đúng nghĩa. Tuy
nhiên, như trên đã nói, điều này sẽ dẫn đến
sự tùy tiện trong hoạt động đào tạo nếu
không được quản lý chặt chẽ và khoa học.
Trong khi đó, sự quản lý của khoa/phòng
Sau Đại học chỉ thuần túy hình thức, chưa
quản lý sâu về chuyên môn bằng các tiêu
chí, tiêu chuẩn được “lượng hóa” một cách
cụ thể. Ví như: “khả năng nghiên cứu độc
lập” của NCS trong quá trình đào tạo là gì?
NCS nắm vững “kiến thức nền tảng, vững
chắc về các học thuyết và lý luận của
ngành” thì nên hiểu “nền tảng”, “vững
chắc” này ở mức độ nào? Ai là người kiểm
chứng? Luận án là “công trình nghiên cứu
khoa học sáng tạo” của NCS, sự “sáng tạo”
này như thế nào thì đạt yêu cầu tối thiểu?
Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ mà Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành rất khoa học
nhưng đó chỉ là để quản lý ở tầm vĩ mô,
chung cho các trường Đại học và viện
nghiên cứu. Các cơ sở đào tạo trình độ tiến
sĩ phải có trách nhiệm cụ thể hóa quy định
ấy và các khoa chuyên ngành lại phải tiếp
tục cụ thể hóa quy định ấy một mức nữa để
xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn đặc thù
với chuyên ngành. Thế nhưng khi được
triển khai, quy định đào tạo trình độc tiến
62
sĩ của trường lại vẫn chung chung, khái
quát. Mục được cụ thể hóa thì lại triển khai
rất hình thức trên thực tế (ví như báo cáo
tiến độ thực hiện đề tài, bảo vệ chuyên đề,
tiểu luận). Vì sự lỏng lẻo này nên rất
nhiều NCS không đủ năng lực vẫn được
công nhận là tiến sĩ.
Như vậy, có thể thấy, đào tạo trình độ
tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ đã chứng tỏ
tính ưu việt, tất yếu của nó so với hình thức
đào tạo truyền thống. Tuy nhiên, khi áp
dụng vào thực tiễn, nó lại bộc lộ nhiều bất
cập, mà một trong những tồn tại nổi bật là
quy trình quản lý đào tạo khá lỏng lẻo,
không phát huy được tính tích cực, khả
năng tự học, tự nghiên cứu của NCS. Việc
kiểm tra, giám sát quá trình học tập, nghiên
cứu, thẩm định kết quả nghiên cứu của
NCS còn chưa đáng tin cậy. Nếu các cơ sở
đào tạo sau đại học không kịp thời điều
chỉnh thì việc đào tạo trình độ tiến sĩ theo
hệ thống tín chỉ không những không đạt
được mục tiêu mong đợi mà còn trở nên
tùy tiện, hình thức, không đem lại hiệu quả
đào tạo trên thực tế.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả
đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ thống
tín chỉ hiện nay
Để có thể nâng cao hiệu quả đào tạo tiến
sĩ theo hệ thống tín chỉ, theo chúng tôi, các
trường Đại học, các cơ sở đào tạo sau đại học
nên tập trung làm tốt một số việc sau:
Thứ nhất, tăng cường cơ sở vật chất
(đặc biệt là hệ thống thông tin, thư viện,
phòng thí nghiệm)
Đào tạo trình độ tiến sĩ là đào tạo nhà
khoa học. Muốn vậy, các trường, các cơ sở
đào tạo sau đại học phải xây dựng cơ sở
vật chất hiện đại, đầu tư công nghệ cao cho
các phòng nghiên cứu. Đối với NCS các
chuyên ngành khoa học tự nhiên, hệ thống
phòng thí nghiệm với các thiết bị tiên tiến
là rất cần thiết bởi nếu không trải qua thí
nghiệm thì sẽ không có kết luận khoa học,
không có phát hiện mới. Đối với NCS các
chuyên ngành khoa học xã hội, hệ thống
thông tin thư viện cần phải được kiện toàn,
cập nhật thêm nhiều tài liệu mới ở trong
nước và trên thế giới (thư viện các trường
hiện nay còn thiếu tài liệu về các chuyên
ngành hẹp). Đặc biệt, các thư viện cần tăng
cường liên kết, hợp tác để NCS có thể sử
dụng nguồn học liệu phong phú ở các
trường khác nhau. Thư viện cũng cần có
chế độ “chăm sóc” khi bạn đọc sử dụng tài
liệu trong thời gian dài (ví như các phòng
đọc đặc thù; chỗ nghỉ ngơi buổi trưa,
phương tiện đưa đón khi thời tiết bất lợi,
khi đọc tài liệu muộn).
Thứ hai, đổi mới nội dung chương
trình, hình thức đào tạo
Để quá trình đào tạo trình độ tiến sĩ
thực chất là đào tạo những người làm khoa
học thì việc đào tạo theo mô hình tập trung
là điều cần thiết. Theo mô hình này, NCS
phải có mặt ở trường hay viện nghiên cứu
toàn thời gian. Trong thời gian theo
học/nghiên cứu, NCS phải dự các buổi
giảng của các chuyên gia theo định kỳ,
phải tham gia tất cả các hội thảo liên quan
đến lĩnh vực nghiên cứu (dù với tư cách là
người nghe) và phải báo cáo tiến độ thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu được giao
với giáo viên hướng dẫn hàng tháng.
Tương ứng, giáo viên hướng dẫn phải đưa
ra các nhiệm vụ cụ thể trong quá trình
nghiên cứu và yêu cầu NCS hoàn thành
trong khoảng thời gian nhất định. Các
nhiệm vụ này không nhất thiết là nội dung
cụ thể của các phần trong luận án mà có
thể là những vấn đề liên quan, có phạm vi
gần gũi. Nói cách khác, tất cả đều được
thiết kế để NCS hoà mình trong thế giới
học thuật và khoa học để nâng cao khả
63
năng nghiên cứu và luyện sự độc lập của
nghiên cứu sinh..
Chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào
tạo bắt buộc nghiên cứu sinh phải có chứng
chỉ quốc tế về tiếng Anh và có bài báo
đăng trên các tạp chí quốc tế là một yêu
cầu rất cao, khó thực hiện nhưng cần thiết
để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
trình độ tiến sĩ và góp phần nâng cao chất
lượng nghiên cứu khoa học ở Viêt Nam.
Đối với các ngành khoa học tự nhiên, điều
này nên bắt buộc (vì tri thức của khoa học
tự nhiên là tri thức phổ quát). Đối với NCS
các ngành khoa học xã hội, các bài báo có
thể được đăng ở một số tạp chí chuyên
ngành uy tín và phải được kiểm duyệt bởi
hội đồng khoa học một cách nghiêm túc.
Việc đào tạo trình độ tiến sĩ không đơn
thuần là việc tổ chức các lớp học phần,
giao chuyên đề và bảo vệ luận án mà nên
tăng cường tích hợp nghiên cứu khoa học
với đào tạo bằng cách hướng các NCS vào
việc nghiên cứu giải quyết các tình huống
lý luận và thực tiễn, đặc biệt là những tình
huống mới cần tư duy sáng tạo để giải
quyết vấn đề.
Thứ ba, đổi mới quy trình kiểm tra,
đánh giá theo hướng chú trọng năng lực tự
học, tự nghiên cứu
Để làm được điều này, các trường, cơ
sở đào tạo sau đại học cần bổ sung một tiêu
chí xét tuyển là NCS cần phải có một số
bài báo khoa học đăng trên các tạp chí
trong nước, tức là phải được tập dượt
nghiên cứu và có trình độ nghiên cứu ở
một mức độ nhất định trước khi tham gia
đào tạo tiến sĩ. Đào tạo trình độ tiến sĩ là
quá trình làm cho các năng lực, kỹ năng ấy
trở nên nhuần nhuyễn, hệ thống chứ không
phải là “tập dượt” nghiên cứu nữa. Bên
cạnh đó, việc đánh giá dự định nghiên cứu
của NCS phải tập trung ở những điểm mới,
sáng tạo của đề tài so với các công trình
nghiên cứu trước đó.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu,
các trường cũng cần đánh giá năng lực của
NCS dựa trên kết quả nghiên cứu đa dạng,
ví như: khả năng hợp tác trong nhóm
nghiên cứu (cùng với nhóm NCS thực hiện
một hoặc một số đề tài trong phạm vi
chuyên ngành), khả năng nghiên cứu độc
lập (tự triển khai một hoặc một số đề tài),
khả năng nghiên cứu dưới sự định hướng
của người hướng dẫn (thực hiện một nhiệm
vụ nghiên cứu mà người hướng dẫn
giao) Những kết quả nghiên cứu này sẽ
chiếm khoảng 30 - 40% trong việc quyết
định NCS có được công nhận học vị tiến sĩ
hay không (cùng với luận án).
Bên cạnh đó, các trường, cơ sở đào tạo
sau đại học cần xây dựng các tiêu chí đánh
giá cụ thể về năng lực nghiên cứu của
NCS; tiêu chuẩn đánh giá luận án; ý thức,
thái độ trong quá trình học tập Trong
phạm vi có thể, những tiêu chuẩn này cần
được “lượng hóa” cụ thể đến mức tối đa để
dễ dàng cho việc đánh giá, tránh tình trạng
“mập mờ”, chung chung dẫn đến để lọt
những nghiên cứu kém giá trị.
Các cơ sở đào tạo sau đại học cũng cần
kết hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng
cơ quan nơi tiến sĩ làm việc xem xét lại
những trường hợp sau thời gian bảo vệ 2 -
3 năm không có công trình nghiên cứu nào
mới để tránh tâm lý cho rằng bảo vệ luận
án tiến sĩ là “xong”, chấm dứt quá trình
nghiên cứu, thay vào đó là tập trung vào
những việc làm khác không liên quan
đến học vị.
Thứ tư, tăng cường vai trò, trách
nhiệm của cán bộ hướng dẫn đối với hoạt
động chuyên môn của NCS
Một chân lý thực tiễn l