Nâng cao hoạt động giao tiếp trong giảng dạy nhằm cải thiện kỹ năng nói tiếng Anh cho người học

TÓM TẮT Bài viết nêu những ảnh hưởng tích cực của việc áp dụng phương pháp dạy học theo các hoạt động và đưa ra một số đề xuất mang tính lý luận giúp giáo viên nâng cao hoạt động giao tiếp khi dạy kỹ năng nói tiếng Anh bằng cách: phân biệt hoạt động giao tiếp với các hoạt động khác, tìm hiểu đặc tính quan trọng của hoạt động giao tiếp và nêu cách nhận biết hoạt động giao tiếp có thể tạo động lực cho người học tham gia vào hoạt động giao tiếp.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 93 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao hoạt động giao tiếp trong giảng dạy nhằm cải thiện kỹ năng nói tiếng Anh cho người học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 72 (06/2020) No. 72 (06/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: 81 NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP TRONG GIẢNG DẠY NHẰM CẢI THIỆN KỸ NĂNG NÓI TIẾNG ANH CHO NGƯỜI HỌC Enhancing communicative tasks in order to improve learners’ English speaking skill ThS. Nguyễn Phạm Phương Khánh Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Bài viết nêu những ảnh hưởng tích cực của việc áp dụng phương pháp dạy học theo các hoạt động và đưa ra một số đề xuất mang tính lý luận giúp giáo viên nâng cao hoạt động giao tiếp khi dạy kỹ năng nói tiếng Anh bằng cách: phân biệt hoạt động giao tiếp với các hoạt động khác, tìm hiểu đặc tính quan trọng của hoạt động giao tiếp và nêu cách nhận biết hoạt động giao tiếp có thể tạo động lực cho người học tham gia vào hoạt động giao tiếp. Từ khóa: hoạt động giao tiếp, kỹ năng nói, phương pháp dạy học theo các hoạt động ABSTRACT The article suggests some positive effects of applying Task-Based Language Teaching and shows some theoretical recommendations for teachers to enhance cummunicative tasks in teaching English speaking skill by: distinguishing between communicative tasks and non-communicative tasks, analyzing the key characteristics of the communicative tasks and proposing recognizing communicative tasks that can motivate learners to participate in the tasks. Keywords: communicative tasks, speaking skill, task-based language teaching 1. Đặt vấn đề Tiếng Anh là ngôn ngữ chủ yếu trong giao tiếp và kinh doanh quốc tế vì vậy vai trò của tiếng Anh đối với nền kinh tế của một nước, đặc biệt là các nước đang phát triển trở nên vô cùng quan trọng, trong bối cảnh toàn cầu hóa và vai trò của Internet như hiện nay (Phan Văn Hòa & Phan Hoàng Long, 2014). Tiếng Anh giúp nâng cao khả năng tìm việc làm và nâng cao thu nhập nguồn nhân lực, giúp cải tiến môi trường xuất khẩu của một nền kinh tế, giúp các nước phát triển hấp thu và hội nhập vào nguồn kiến thức khoa học của thế giới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Phan Văn Hòa & Phan Hoàng Long, 2014). Nghiên cứu cho thấy tương quan cùng chiều giữa trình độ tiếng Anh và sự tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông Nam Á (Lee, 2011). Việt Nam đánh giá cao vai trò của tiếng Anh trong những năm gần đây thông qua Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008- 2020 đã được Chính phủ phê duyệt. Theo như Thủ tướng Chính phủ (TTG) ban hành quyết định số 1400/QĐ-TTG về việc phê Email: khanhnguyenpp2017@gmail.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 82 duyệt đề án trên, chủ trương của đề án là đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong các trường của Việt Nam nhằm mục tiêu “đến năm 2020, đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa, biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam”. Để đạt được mục tiêu trên, Bộ Giáo dục đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển môi trường học và sử dụng ngoại ngữ ở tất cả các cấp và trình độ đào tạo (Quỳnh Trang, 2017). Theo như Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) ban hành Công văn số 681/BGDĐT-GDTH về việc hướng dẫn tổ chức dạy học môn Tiếng Anh, từ năm học 2020-2021 chương trình quy định môn tiếng Anh là môn học tự chọn với lớp 1, 2 và bắt buộc từ lớp 3 trở lên. Ngoài ra, Bộ Giáo dục quy định việc tổ chức dạy học môn Tiếng Anh cần tập trung phát triển kỹ năng nghe và nói cho người học. Phương pháp dạy học theo các hoạt động (Task-based Language Teaching – viết tắt là TBLT) được cho là có hiệu quả giúp phát triển kỹ năng nói cho người học được áp dụng ở nhiều trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp dạy học theo các hoạt động (TBLT) của giáo viên chưa thực sự có hiệu quả do sự hiểu biết của giáo viên về phương pháp này còn hạn chế (Nguyễn Gia Việt, Lê Văn Canh & Barnard, 2015; Nguyễn Việt Hùng, 2017). Bài viết điểm lại những ảnh hưởng tích cực của TBLT và đưa ra một số đề xuất về lý luận đối với giáo viên để nâng cao hoạt động giao tiếp của TBLT trong giảng dạy nhằm nâng cao kỹ năng nói tiếng Anh cho người học. 1.1. Ảnh hưởng tích cực của phương pháp dạy học theo các hoạt động Nghiên cứu đã cho thấy việc áp dụng TBLT là rất khả thi để dạy kỹ năng nói cho học sinh (Rahman, 2010). Nhiều nghiên cứu nêu ảnh hưởng tích cực của các loại hoạt động (tasks) của TBLT đối với kỹ năng nói của người học trong việc cải thiện kỹ năng nói của người học (Azar & Maragheh, 2012; Mujiningsih, 2009; Murad, 2009; Thompson & Blake, 2010; Thompson & Millington, 2012; Watamni & Gholami, 2012). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra từng lợi ích cụ thể của việc áp dụng các hoạt động giao tiếp trong việc nâng cao kỹ năng nói của người học: (a) giúp cải thiện từ vựng (Azar & Maragheh, 2012; Ruso, 2007); (b) tạo cơ hội cho người học sử dụng ngôn ngữ (Acar, 2006; Karlsson, 2012; Lee, 2010; Mujiningsih, 2009; Thompson & Blake, 2010; Watamni & Gholami, 2012); (c) tạo không khí học tập thoải mái (Mujiningsih, 2009; Ruso, 2007); (d) tạo động lực thúc đẩy người học sử dụng tiếng Anh; (e) giúp người học cải thiện kỹ năng nói (Mujiningsih, 2009; Ruso, 2007; Thompson & Blake, 2010; Watamni & Gholami, 2012). Để phát huy những đặc tính ưu việt đó, giáo viên lựa chọn phương pháp dạy học theo các hoạt động để dạy kỹ năng nói tiếng Anh cần quan tâm đến khác biệt giữa hoạt động giao tiếp theo phương pháp này với các hoạt động khác, những đặc tính quan trọng của hoạt động giao tiếp, việc lựa chọn hoạt động giao tiếp có thể tạo động lực nói cho người học tham gia vào hoạt động nói để cải thiện kỹ năng nói. 2. Phân biệt hoạt động giao tiếp của phương pháp dạy học theo các hoạt động với các hoạt động khác Hoạt động giao tiếp (communicative tasks) của TBLT được phát triển dựa trên phương pháp giao tiếp trong dạy học tiếng Anh (communicative approach), có thể NGUYỄN PHẠM PHƯƠNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 83 giúp cải thiện kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh. Littlewood (2007) phân biệt hoạt động giao tiếp với các hoạt động không mang tính giao tiếp. Littlewood (2007) còn đưa ra ví dụ về các hoạt động không mang tính giao tiếp như là bài tập ngữ pháp, bài tập rèn luyện phát âm. Nunan (1989), Ellis (2003) và xác định: hoạt động giao tiếp trong dạy học đòi hỏi người học tập trung vào việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp để diễn đạt ý thay vì tập trung vào cấu trúc ngữ pháp. 3. Những đặc tính quan trọng của hoạt động giao tiếp Khi người học tập trung vào việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp phải đảm bảo được người nghe hiểu được đúng thông tin mà người học cần truyền đạt và ngược lại (Nunan, 1989). Quá trình sử dụng ngôn ngữ trên sẽ mang lại lợi ích, vì người học có thể sử dụng được những kiến thức đã học trong lúc thực hiện hoạt động giao tiếp (Courtney, 2001; Willis & Willis, 2007). Một ưu điểm khác là, trong quá trình giao tiếp đó người học sẽ tự nhận biết được phần kiến thức mình còn thiếu (Courtney, 2001; Ellis, 2003). Chính vì vậy, để giao tiếp thành công, người học có thể phát triển được kỹ năng cần thiết đó là sự linh hoạt lựa chọn ngôn ngữ thay thế hoặc dùng ngôn ngữ cơ thể để diễn đạt ý thành công và trọn vẹn (Ellis, 2003). Nỗ lực tìm câu trả lời cho những thắc mắc bằng cách tự tìm hiểu, nhờ sự giúp đỡ từ các bạn khác hay từ giáo viên cũng giúp cho người học biết được phần kiến thức mà họ chưa biết. Những lợi ích của việc sử dụng tiếng Anh để giao tiếp giúp cho người học hình thành thói quen nói tiếng Anh một cách tự tin hơn. Giáo viên cần tập trung vào diễn đạt ý trọn vẹn và hiểu chính xác được ý của người khác trong quá trình giao tiếp, linh hoạt trong khi ứng phó với những hạn chế về mặt ngôn ngữ của người học là những yếu tố cần có để trang bị cho người học nói được tiếng Anh ngày càng tiến bộ và lưu loát hơn. 3.1. Môi trường học nói lý tưởng để tiến hành hoạt động giao tiếp Việc diễn đạt ý thành công giữa người nói và người nghe mà không cần quá tập trung vào sự chính xác trong ngữ pháp, người học thực hiện hoạt động giao tiếp trong môi trường học không có nhiều áp lực sẽ phát triển được sự lưu loát và kỹ năng nói tiếng Anh (Gutiérrez, 2005). Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là tầm quan trọng của ngữ pháp không được đề cao khi thực hiện hoạt động giao tiếp, sự tập trung về tính chính xác trong ngữ pháp sẽ được thể hiện vào giai đoạn cuối cùng của hoạt động giao tiếp (Willis & Willis, 2007). Chính sự phân chia giai đoạn này Brown (1994) and Gutiérrez (2005) nhấn mạnh vai trò của giáo viên trong việc tạo môi trường học lý tưởng đó để giúp người học không có cảm giác sợ mắc lỗi và bị giáo viên sửa từng lỗi sai của họ. Gutiérrez (2005) cho rằng môi trường học như thế sẽ thúc đẩy sự tương tác của người học và theo như Costa (2011) thì sự tương tác của người học có ảnh hưởng tốt đối với động lực học của người học. 4. Đặc điểm của hoạt động giao tiếp tạo động lực nói cho người học So với các kỹ năng tiếng Anh khác, nói tiếng Anh là kỹ năng khó nhất (Malihah, 2010; Soureshjani & Riahipour, 2012) và sẽ khó cải thiện nếu người học thiếu động cơ học nói tiếng Anh (Soureshjani & Riahipour, 2012; Luu 2012). Ryan và Deci (2000) phân loại động cơ học thành hai loại cơ bản, đó là động cơ nội tại (intrinsic motivation) và động cơ bên ngoài (extrinsic motivation). Theo họ, động cơ bên ngoài thúc đẩy sự tham gia của người học vào các SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 84 hoạt động do những lợi ích mà hoạt động đó đem lại, động cơ nội tại thúc đẩy người học tham gia vào hoạt động do họ yêu thích. Tuy nhiên ở môi trường lớp học, ở góc độ giáo viên, sự phân loại động cơ học của người học là không cần thiết, vì khi tiến hành một hoạt động nói thì sự tham gia và lợi ích mà hoạt động đó mang lại cho người học là quan trọng nhất cho dù động cơ tham gia (task motivation) của người học có thể khác nhau. Động cơ tham gia vào hoạt động (task motivation) tùy thuộc vào động cơ học (motivation) của người học và cách mà người học cảm nhận về hoạt động mà họ tham gia (Seegers & Bockaerts (1993, được trích từ Nakata, 2006, p.145). Nhiều nghiên cứu cho thấy các loại hoạt động (tasks) quyết định sự tham gia của người học vào hoạt động (Mujiningsih, 2009; Murad, 2009; Thompson & Blake, 2010; Azar & Maragheh, 2012). Chính vì vậy, sự lựa chọn hoạt động nói (communicative tasks) để có thể tạo động lực giúp người học tham gia lớp học, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kỹ năng nói của người học. Các hoạt động nói có thể tạo động lực cho người học cần có các đặc điểm sau: (a) khi người học yêu thích hoạt động đó; (b) người học sử dụng được tiếng Anh trong khi tham gia vào hoạt động đó; (c) kích thích sự tò mò của người học; (d) giúp người học sử dụng được những kiến thức đã học và giúp họ khám phá điều mà họ chưa biết (Agnesia, 2010). 5. Kết luận Tóm lại, các hoạt động giao tiếp của TBLT nên được áp dụng để dạy kỹ năng nói, vì các hoạt động này có ảnh hưởng tích cực đối với trong việc cải thiện và giúp nâng cao kỹ năng nói của người học. Thông qua những lợi ích đó của hoạt động giao tiếp, những đề xuất mang tính lý luận nêu trên là cần thiết giúp giáo viên hiểu và phát huy được tối đa những ảnh hưởng tích cực những hoạt động giao tiếp khi dạy kỹ năng nói tiếng Anh cho người học. Cụ thể là những đề xuất này giúp giáo viên tạo môi trường học nói tiếng Anh thoải mái và thuận lợi để hoạt động nói diễn ra khi tiến hành dạy nói trong lớp học. Dựa trên những đề xuất đó, giảng viên có thể lựa chọn và triển khai hoạt động giao tiếp trong lớp học vừa có hiệu quả vừa tạo hứng thú để giúp người học phát triển kỹ năng nói tiếng Anh. TÀI LIỆU THAM KHẢO Acar, A. (2006). Models, norms and goals for English as an international language pedagogy and task-based language teaching and learning. Trong P. Robertson & J. Jung (Eds.), Special Conference Proceedings Volume: Task-based Learning in the Asian Context (tập 8, trang 174-191). Road Town: Asian EFL Journal Press Agnesia, R. H. (2010). Features affecting task-motivation in English for academic purposes online learning. Second Language Studies, 29(1), 1-34. Azar, A. S., & Maragheh, R. T. (2012). The effect of pedagogical tasks in EFL learners’ performance. The Modern Journal of Applied Linguistics, 4(3), 119-128. Brown, H. D. (1994). Teaching by principles: An interactive approach to language pedagogy. New Jersey: Prentice Hall Regents. NGUYỄN PHẠM PHƯƠNG KHÁNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 85 Costa, B. C. D. A. (2011). The English language experience: The importance of the students’ motivation in English as a foreign or second language classes. Revista Litteris, 8, 201-213. Courtney, M. (2001). Tasks, talk and teaching: Task-based language learning and the negotiation of meaning in oral practice (L. Center, Trans.). Trong G. James (Ed.), Research reports (tập 1, trang 1-119). Hongkong: The Hong Kong University of Science and Technology. Ellis, R. (2003). Task-based language learning and teaching. Oxford: Oxford University Press. Gutiérrez, D. G. (2005). Developing oral skills through communicative and interactive tasks. Profile, 6, 83-96. Karlsson, P. A. (2012). Storytelling as a teaching strategy in the English language classroom in Iceland. Faculty of Teacher Education School of Education. Unpublished work. University of Iceland. Reykjavík. Lee, B. (2010). Effects of task and feedback types on Korean adult EFL learners' oral proficiency. English Teaching, 65(2), 101-130. Lee, C.G. (2011). English Language and Economic Growth: Cross-Country Empirical Evidence. Littlewood, W. (2007). Communicative and task-based language teaching in East Asian classrooms. Language Teaching, 40, 243-249. Luu, T. T. (2012). An empirical research into EFL learners’ motivation. Theory and Practice in Language Studies, 2(3), 430-439. Malihah, N. (2010). The effectiveness of speaking instruction through task-based language teaching. Register, 3(4), 85-101. Mujiningsih, E. S. (2009). Improving students’ speaking ability through project work. Unpublished work. Sebelas Maret University. Surakarta. Từ download/pdf/12350504.pdf Murad, T. M. (2009). The effect of task-based language teaching on developing speaking skills among the Palestinian secondary EFL students in Israel and their attitudes towards English. Department of Curriculum and Institution. Yarmouk University. Irbid. Nakata, Y. (2006). Motivation and experience in foreign language learning. Bern: Peter Lang AG. Nguyễn Việt Hùng. (2017). Nhận thức của giáo viên THPT về Phương pháp dạy học tiếng Anh dựa vào nhiệm vụ và niềm tin của họ về bộ sách giáo khoa tiếng Anh. Luận án tiến sĩ. Trường Đại học Quốc gia, Hà Nội. Nunan, D. (1989). Designing tasks for the communicative classroom. Cambridge: Cambridge University Press. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 86 Phan Văn Hòa và Phan Hoàng Long. (2014). Tác động của tiếng Anh đến sự phát triển kinh tế và chiến lược nâng cao trình độ tiếng Anh của Việt Nam. Ngôn ngữ và Đời sống, 12(230), 61-64 Quỳnh Trang. (2017). Bộ giáo dục sửa đề án 2020. Truy cập: 25/4/2020, từ https://vnexpress.net/bo-giao-duc-sua-de-an-ngoai-ngu-2020-3631023.html Rahman, M. M. (2010). Teaching oral communication skills: A task-based approach. ESP World, 9(1), 1-11. Ruso, N. (2007). The influence of task based learning on EFL classrooms. Asian EFL Journal, 18, 1-23. Ryan, R. M., & Deci, E. L. (2000). Intrinsic and extrinsic motivations: Classic definitions and new directions. Contemporary Educational Psychology, 25, 54-67. Soureshjani, K. H., & Riahipour, P. (2012). Demotivating factors on English speaking skill: A study of EFL language learners and teachers’ attitudes. World Applied Sciences Journal, 17(3), 327-339. Thompson, C. J., & Blake, G. A. (2010). Using a jigsaw task to develop Japanese learners’ oral communicative skills: A teachers’ and students’ perspective. Polyglossia, 18, 87-103. Thompson, C. J., & Millington, N. T. (2012). Teaching practice: Task-based learning for communication and grammar use. Language Education in Asia, 3(2), 159-167. Văn phòng Chính phủ Việt Nam. (2008). Quyết định số 1400/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 – 2020”. Viet, N.G., Canh, L.V., & Barnard, R. (2015). ‘Old Wine in New Bottles’: Two Case Studies of Task-Based Language Teaching in Vietnam. Trong M. Thomas & H. Reinders (Eds.). Contemporary Task-Based Language Teaching in Asia: Contemporary Studies in Linguistics (trang 68–86). London: Bloomsbury Academic. Retrieved May 21, 2020, from Watamni, K., & Gholami, J. (2012). The effect of implementing information-gap tasks on EFL learners’ speaking ability. Modern Journal of Applied Linguitics, 4(4) 267-283. Willis, D., & Willis, J. (2007). Doing task-based teaching. Oxford: Oxford University Press. Ngày nhận bài: 27/4/2020 Biên tập xong: 15/6/2020 Duyệt đăng: 20/6/2020