Trong nền kinh tế hiện đại, sự phát triển của các NHTM đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc cung cấp và điều chuyển vốn. NH kinh doanh trên lĩnh vực vô cùng nhạy cảm là tiền tệ, các vấn đề xung quanh lĩnh vực này luôn được xem xét một cách hết sức thận trọng vì có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của NH nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Hoạt động quản lý thanh khoản đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Tính thanh khoản hay tính lỏng là khả năng chuyển hoá thành tiền của tài sản. NH có đáp ứng được thanh khoản thì mới có thể đầu tư có hiệu quả nhằm tối đa hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro và tránh được nguy cơ phá sản.
Theo các chuyên gia, trong 36 loại rủi ro hoạt động tài chính ngân hàng thì rủi ro thanh khoản được coi là nguy hiểm nhất. Bởi nó không chỉ đe dọa sự an toàn của bản thân từng ngân hàng thương mại, mà còn liên quan đến sự an toàn của cả hệ thống.
62 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1754 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngân hàng thương mại Quản lý thanh khoản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI TỰA
Trong nền kinh tếluận văn báo cáo chuyên ngành kinh tế hiện đại, sự phát triển của các NHTM đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc cung cấp và điều chuyển vốn. NH kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh trên lĩnh vực vô cùng nhạy cảm là tiền tệ, các vấn đề xung quanh lĩnh vực này luôn được xem xét một cách hết sức thận trọng vì có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của NH nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Hoạt động quản lý thanh khoản đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Tính thanh khoản hay tính lỏng là khả năng chuyển hoá thành tiền của tài sản. NH có đáp ứng được thanh khoản thì mới có thể đầu tưluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Đầu tư có hiệu quả nhằm tối đa hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro và tránh được nguy cơ phá sản.
Theo các chuyên gia, trong 36 loại rủi ro hoạt động tài chính ngân hàng thì rủi ro thanh khoản được coi là nguy hiểm nhất. Bởi nó không chỉ đe dọa sự an toàn của bản thân từng ngân hàng thương mại, mà còn liên quan đến sự an toàn của cả hệ thống.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi NHNN siết chặt nguồn tiền thông qua công cụ lãi suất, các ngân hàng "đại gia" tăng lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng và ngân hàng nhỏ buộc phải đua lãi suất... một tình huống điển hình về những khó khăn trong thanh khoản của các ngân hàng đang hiện hữu. Trong khi đó, nguy cơ về tăng dự trữ bắt buộc cũng có thể sẽ xảy ra khiến nỗi lo thanh khoản của các ngân hàng ngày càng lớn.
A. Khái niệm về thanh khoản trong hoạt động của NHTM
Khái niệm về thanh khoản trong kinh doanh NH
Thanh khoản trong kinh doanh NH là khả năng NH đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh như chi trả tiền gửi, cho vay , thanh toán và các giao dịch tài chính khác.
Tính thanh khoản là một vấn đề mà các NH luôn phải đối mặt. Với nghiệp vụ chính là huy động bằng việc nhận một lượng lớn tiền gửi và dự trữ từ các cá nhân, tổ chức sau đó chuyển thành các khoản tín dụng cho người đi vay, ngân hàng luôn phải giải quyết bài toán khó về sự mất cân bằng giữa kì hạn của tài sản và kì hạn của các nguồn vốn. Thêm vào đó, vì NH có chức năng tạo phương tiện thanh toán nên họ luôn phải nắm giữ một tỷ lệ cao các nguồn vốn thanh toán tức thời nhằm đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng khi họ cần.
Một nguồn gốc khác đối với vấn đề thanh khoản là sự nhạy cảm của NH trước những thay đổi trong lãi suất. Khi lãi suất tăng, người gửi tiền sẽ rút vốn để gửi vào những nơi có thu nhập cao, hoặc chính sự thay đổi lãi suất lại ảnh hưởng tới giá trị thị trường của tài sản mà ngân hàng đang dự định bán. Những điều đó đều tác động tới trạng thái thanh khỏan của ngân hàng.
Tính thanh khoản của tài sản
- Ngân hàng quan tâm đến tính thanh khoản của mỗi tài sản và của danh mục toàn bộ tài sản của họ. Tính thanh khoản của mỗi tài sản chính là khả năng chuyển tài sản thành tiền, được đo bằng thời gian và chi phí trong khoản thời gian nhất định. Chi phí ở đây không phải là chi phí để bán tài sản thành tiền mà là tổn thất(giảm giá) của tài sản.
- Tính thanh khoản này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có thể thay đổi theo thời gian, giữa các vùng và các nước.
- Kết cấu tài sản với tính thanh khoản khác nhau tạo nên tính thanh khoản của danh mục tài sản.Tính thanh khoản của danh mục tài sản được đo bằng tỷ lệ ts có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản.
- Một tài sản được xem là thanh khoản khi đáp ứng được các tiêu chí sau:
+ Có sẵn số lượng để mua hoặc bán
+ Có sẵn thị trường giao dịch
+ Có sẵn thời gian giao dịch
+ Giá cả(chi phí giao dịch hợp lí)
3. Tính thanh khoản của nguồn vốn
- Khả năng huy động vốn tạo khả năng thanh toán cho ngân hàng, phản ánh tính thanh khoản của nguồn vốn, được đo bằng thời gian và chi phí mở rộng nguồn khi cần thiết.
- Tính thanh khoản của nguồn vốn phụ thuộc vào nhiều nhân tố như sự phát triển của thị trường tài chính, sự gia tăng thu nhập của dân cư, tính nhạy cảm của thu nhập đối với lãi suất, vị trí và mạng lưới ngân hàng...
4. Cung, cầu và trạng thái thanh khoản
Cung thanh khoản: Là khả năng cung ứng tiền của một ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của ngân hàng bao gồm việc giữ tài sản thanh khoản và khả năng huy động mới.
Cầu thanh khoản: Là nhu cầu thanh toán của khách hàng của ngân hàng mà ngân hàng có nghĩa vụ đáp ứng.
4.3 Trạng thái thanh khoản (khe hở thanh khoản) – Net Liquility Position
NLP là chênh lệch giữa tổng cung và tổng cầu thanh khoản tại một thời điểm và được xác định như sau:
NLP = ∑cung thanh khoản - ∑cầu thanh khoản
NLP > 0 : ngân hàng đối mặt với thặnn dư thanh khỏan :
NLP < 0: NH đối mặt với thâm hụt thanh khoản
NLP = 0 trạng thái cân bằng thanh khoản
4.4 Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến của ngân hàng, làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh
5. Tại sao cần phải quản lí thanh khoản?
- Sự đánh đổi giữa thanh khoản và khả năng sinh lời: nếu NH ở trạng thái thăng dư thanh khoản quá mức, nghĩa là NH đã duy trì một lượng vốn không sinh lời. Nếu NH ở trạng thái thâm hụt thanh khoản nghĩa là ngân hàng không có khả năng chi trả tức thời dẫn đến rủi ro thanh khoản
- Nếu rủi ro thanh khoản xảy ra, tùy theo mức độ mà ngân hàng có thể phải chịu:
Chuyển hóa tài sản có thanh khoản thành tiền với chi phí cao
Tiếp cận thị trường tiền tệ để tăng vốn với những điều kiện khắt khe hơn: phải có TS thế chấp, chịu mức lãi suất cao, không được tuần hoàn nợ cũ, hạn mức tín dụng bị xem xét lại thuyên hoặc bị từ chối cho vay.
Đình trệ hoạt động dẫn đến giảm thu nhập
Mất uy tín dẫn đến mất khách hàng, đặc biệt là các khách hàng truyền thống với các cơ quan quản lí.
Tất cả các biểu hiện này đều làm cho ngân hàng tiến gần tới bờ vực mất khả năng thanh khoản và đi đến phá sản.
- Trong trường hợp đặc biệt, nếu như ngân hàng bị phá sản sẽ trở thành hiệu ứng lây lan cho toàn bộ hệ thống ngân hàng và có thể đe dọa sự ổn định của cả hệ thống.
6.Nguyên nhân rủi ro thanh khỏan
6.1 Nguyên nhân tiền tệ
- Chuyển đổi kì hạn gửi tiền và cho vay: NH thường huy động vốn và đi vay với kì hạn ngắn sau đó tuần hoàn chúng để cho vay với thời hạn dài hơn.Thật hiếm khi luồng tiền ròng bên tài sản có vừa khít luồng tiền ròng bên tài sản nợ. Trong thực tế, NH luôn có một tỷ lệ đáng kể TS nợ phải được hoàn trả tức thời: tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn có thể rút trứơc, tài khoản NOW, do đó, ngân hàng luôn phải sẵn sàng thanh khoản
- Sự nhạy cảm của TS tài chính với thay đổi lãi suất. Thay đổi lãi suất ảnh hưởng đồng thời đến luồng tiền gửi và luồng tiền vay và cuối cùng là ảnh hưởng đến thanh khoản của ngân hàng. Ngoài ra lãi suất thay đổi làm ảnh hưởng đến thị giá của các TS mà ngân hàng đem bán, trực tiếp làm tăng chi phí đi vay trên thị trường tiền tệ(phát hành kì phiếu, tín phiếu)
- NH luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản một cách hoàn hảo. Những trục trặc về thanh khoản sẽ làm xói mòn niềm tin của dân chúng vào ngân hàng
6.2 Nguyên nhân hoạt động
- Nguyên nhân bên tài sản nợ: rủi ro thanh khỏan xảy ra bất cứ khi nào người gửi tiền rút tiền ngay lập tức.
- Nguyên nhân bên tài sản có: rủi ro thanh khỏan phát sinh liên quan đến các cam kết tín dụng.
7.Dấu hiệu thị trường nhận biết RRTK
Lòng tin của dân chúng
Sự biến động giá cổ phiếu của ngân hàng
Áp dụng mức lãi suất huy động cao hơn thị trường
Chịu lỗ khi bán tài sản
Khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng
Ngân hàng buộc phải vay NHTW với khối lượng lớn và thường xuyên hơn.
B. Quản lí thanh khoản
Quản lí thanh khoản là gì?
Quản trị rủi ro thanh khoản (quản lí thanh khoản) là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc tính thanh khoản (tính lỏng) của tài sản và quản lý tốt cấu trúc danh mục của nguồn vốn.
Mục tiêu quản lí thanh khỏan:
Thanh khoản liên quan trực tiếp đến an toàn và sinh lợi, 2 mục tiêu quan trọng nhất của hoạt động ngân hàng.
Duy trì an toàn thanh khoản, tức là khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản là mục tiêu quan trọng nhất và xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động quản lí thanh khoản của ngân hàng.
Cụ thể: 2 mục tiêu nhỏ
Đảm bảo khả năng chi trả kịp thời của ngân hàng với chi phí hợp lí
Dự đoán các nguy cơ rủi ro thanh khoản và tổn thất có thể xảy ra.
Các phương pháp đo lường :
Phương pháp cung cầu thanh khoản
Nghĩa là xác định nhu cầu chi trả của các nguồn thu của NH tại một thời điểm nhất định T
Cầu thanh khoản:
Khách hàng rút tiền gửi
Đây là nhu cầu thanh khoản chủ yếu có tính thường xuyên, tức thời và vô điều kiện.
Bao gồm tất cả các loại tiền gửi không kì hạn, tiền gửi phát hành séc, tiền gửi có kì hạn có thể rút trước hạn, tiền gửi có kì hạn thanh toán khi đến hạn, thanh toán kì phiếu và trái phiếu đến hạn.
Nhu cầu tín dụng của khách hàng
Nhu cầu tín dụng hợp pháp của khách hàng để thanh toán hàng hóa dịch vụ mà ngân hàng cam kết cho vay. Đây thường là các quan hệ tín dụng mà ngân hàng muốn duy trì và đáp ứng.
Bao gồm: nhu cầu tín dụng mới, gia hạn khi khoản vay đến hạn, sử dụng hạn mức tín dụng hay thực hiện cam kết tín dụng.
Các khoản vay đến hạn phải trả : Đây là các qua hệ tín dụng trên thị trường tiền tệ, bao gồm hoàn trả tiền vay cho các ngân hàng khác, cho NHTW và các thỏa thuận mua lại.
Chi phí hoạt động và trả thuế : bao gồm các chi phí liên quan đến hoạt động như : chi tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, công tác phí, mua sắm tài sản, chi sử dụng dịch vụ của các đơn vị khác, chi trả thuế các loại.
Thanh toán cổ tức cho cổ đông : chi trả cổ tức bằng tiền cho tất cả các loại cổ phiếu mà ngân hàng phát hành.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu thanh khoản
Thứ nhất, nhóm nhân tố tạo ra hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền như bất ổn chính trị, tham nhũng trong hệ thống tài chính, các khoản cho vay xấu dẫn đến mất khả năng thanh toán của 1 ngân hàng, lan sang các ngân hàng khác,
Thứ hai, là nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và nhu cầu chi tiêu của khách hàng, như tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng, mức thu nhập và hệ số tiết kiệm, mật độ dân số và doanh nghiệp sự đa dạng khách hàng gửi tiền và vay tiền
VD: cầu về thanh khoản thường rất lớn vào màu hè, cuối hè gắn với ngày tựu trường ngày nghỉ và các kế hoạch du lịch của khách hàng.Việc kế hoạch được những yêu cầu thanh khoản này sẽ giúp ngân hàng hoạch định được nhiều nguồn đáp ứng được cầu thanh khoản dài hạn hơn là trong trường hợp đối với cầu thanh khoản trong ngắn hạn.
Thứ ba , là nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn giữa các trung gian tài chính như chính sách lãi suất huy động , chính sách tín dụng…của mỗi tổ chức.
Thứ tư, nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân ngân hàng như cán bộ, công nghệ, thị phần, uy tín…các nhân tố này có thể tác động tới nhu cầu thanh khoản tức thời và xu hướng.
Cung thanh khoản
Tiền gửi bổ sung của khách hàng:
Đây được xem là nguồn cung thanh khoản quan trọng nhất đối với ngân hàng để duy trì nhu cầu thanh khoản thường xuyên.
Bao gồm : tất cả các lọai tiền gửi mới, tiền gửi bổ sung hay kéo dài thời hạn gửi tiền.
Khách hàng hoàn trả tín dụng
Đây được xem là nguồn thanh khoản quan trọng thứ hai. Vì hoạt động tín dụng là hoạt động chính mang lại nguồn thu lớn nhất cho ngân hàng nhưng cũng chứa đựng rủi ro mất vốn cao, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng
Đi vay trên thị trường tiền tệ
Vay TCTD khác hoặc vay ngân hàng TW. Phản ánh năng lực của ngân hàng có thể đi vay tức thời trên thị trường tiền tệ.
Phụ thuộc vào : uy tín của ngân hàng, tính thanh khoản của hệ thống tài chính nói chung,sự hoàn hảo của thị trường tiền tệ...???
Bao gồm các khoản: vay mới , gia hạn và tuần hoàn nợ vay kí kết hạn mức tín dụng hay bằng các hợp đồng mua lại.
Thu nhập từ bán tài sản:
Chuyển hóa một phần tài sản có thành tiền mặt tức thời. Tài sản có thanh khoản của ngân hàng chủ yếu gồm : trái phiếu , tín phiếu kho bạc, ngoài ra còn có: trái phiếu, kì phiếu , cổ phiếu của các ngân hàng và các công ty có độ tín nhiệm cao.
Thu nhập từ cung cấp dịch vụ
Bao gồm: thu chủ yếu từ các dịch vụ ngoại bảng như mở và thông báo L/C, bảo lãnh ngân hàng, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn,...Đối với một ngân hàng hiện đại, thì tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ ngày càng cao nên ngày càng có ý nghĩa trong việc hình thành nguồn cung thanh khoản cho ngân hàng.
Trạng thái thanh khoản ròng tại thời điểm T là
NLPt= St-Dt
NLP Thâm hụt thanh khoản: Khi đó nhà quản lý phải quyết định xem khi nào và ở đâu để Nh tăng nguồn cung thanh khoản( cần chú ý là cầu thanh khoản độc lập với ý chí của NH nên NH ko thể muốn giảm là giảm được)
NLP>0 => Thặng dư thanh khoản: Nhà quản lý phải quyết định xem khi nào và ở đâu để đầu tư sinh lãi các thăng dư
Phương pháp chỉ số tài chính
Là việc dùng các chỉ số tài chính để đo lường trạng thái thanh khoản của NH
Các chỉ số tài chính gồm: các hệ số H1 (Vốn tự có/Tổng nguồn vốn huy động) và H2 (Vốn tự có/Tổng tài sản “Có”)
chỉ số về trạng thái tiền mặt ( cash position indicator)
H3 =
Hoặc:
H3=
Cả hai công thức trên đều đo lường về trạng thái tiền mặt của ngân hàng. Sở dĩ trạng thái này quan trọng trong việc đánh giá tính thanh khoản là vì tiền mặt cũng như các khoản được nêu trong phần tử số của hai công thức đều là những tài sản có tính lỏng cao. Chỉ số này càng lớn chứng tỏ tính thanh khoản của ngân hàng càng tốt. Sự khác biệt giữa hai công thức là không đáng kể vì phần tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước của các ngân hàng thường là rất ít
Chỉ số H4 :Chỉ số năng lực cho vay H4
H4 =
Chỉ số này cho biết phần trăm các khoản cho vay tín dụng trong tổng mức tài sản “Có” của ngân hàng. Đây là chỉ số thanh khoản âm vì cho vay là tài sản có mức thanh khoản thấp nhất mà ngân hàng nắm giữ. Chỉ số này rất quan trọng trong nhận biết rủi ro lãi suất: khi có biến động về lãi suất khiến lãi suất trên thị trường tăng lên, vì ngân hàng bị buộc với các khoản vay có mức lãi suất cố định nên lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm. Ngoài ra còn có rủi ro về kì hạn khi ngân hàng dùng các khoản vay ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn khi có biến động xảy ra khiến khách hàng rút tiền thì ngân hàng cũng không thể đảm bảo cho khả năng chi trả. Vì vậy, chỉ số này càng cao thể hiện tính thanh khoản của ngân hàng càng kém.
Chỉ số H5 được tính theo công thức:
H5 =
Chỉ số này cho biết tỉ lệ dư nợ cho vay trên tổng số tiền gửi huy động được của ngân hàng. Tỉ lệ này càng cao thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng thấp. Cá biệt, H5 có thể lớn hơn 100% khi ngân hàng đi vay từ các nguồn khác ngoài tiền gửi khách hàng để thực hiện nghiệp vụ cho vay
chỉ số chứng khoán thanh khoản
H6=
Chỉ số này cho biết tỉ lệ nắm giữ các chứng khoán có khả năng chuyển thành tiền mặt, đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao, trạng thái thanh khoản của ngân hàng càng tốt
Chỉ số H7 được tính toán theo công thức:
H7=
Vì các khoản vay và gửi tiền tại các tổ chức tín dụng thường có kì hạn ngắn nên chỉ số này thể hiện sự chủ động của ngân hàng trong giải quyết các vấn đề thanh khoản. H7 thấp là dấu hiệu cho thấy ngân hàng bị động trong khả năng thanh khoản và ngược lại khi H7 cao. Để đánh giá chỉ tiêu này, trong phân tích, ta so sánh H7 với 1:
H7 >1: Ngân hàng chủ động trong thanh khoản.
H7<1: Ngân hàng bị động trong các vấn đề thanh khoản
Chỉ số H8 được tính theo2 công thức:
H8=
Hoặc:
H8=
Chỉ số H8 cho biết tỷ lệ của tài sản có tính thanh khoản cao và sẵn sàng để huy động khi cần thiết so sánh với số lượng tiền gửi của khách hàng. Chỉ số này cũng thể hiện tính chủ động của ngân hàng khi giải quyết các vấn đề về thanh khoản. H8 cao chứng tỏ ngân hàng chủ động và có tính thanh khoản tốt.
Phương pháp cấu trúc nguồn vốn
Các phương pháp đo lường thanh khoản ở trên đề cập đồng thời đến cung và cầu thanh khoản, phương pháp cấu trúc nguồn chỉ đề cập đến xác định cầu thanh khoản của NH là ntn. Phương pháp này dựa vào việc phân chia nguồn vốn theo khả năng có thể bị rút ra khỏi NH và được thể hiện qua các bước sau:
Bước 1: Chia tổng nguồn vốn của NH thành nhiều nhóm theo khả năng vốn bị rút khỏi ngân hàng. Thông thường được chia thành 3 nhóm chủ yếu sau:
Nhóm một: nguồn vốn nóng ( hot or speculative money) : Gồm 3 khoản : vốn đi vay, tài sản nhạy cảm với lãi suất hoặc dự tính sẽ rút ra khỏi ngân hàng trong kì kế hoạch.
NHóm 2: nguồn vốn kém ổn định: bao gồm các khỏan tiền gửi của khách hàng trong đó một phần đáng kể có thể bị rút khỏi ngân hàng tại một thời điểm nào đó trong kì kế hoạch.
Nhóm 3: Nguồn vốn ổn định :Bao gồm các khảon cốn mà ngân hàng tin tưởng là ít có khả năng bị rút ra khỏi ngân hàng. Nguồn vốn này còn gọi là tiền gửi cơ sở hay vốn cơ sở của ngân hàng.
Bước 2: Xác định nhu cầu dự trữ thanh khoản cho từng nguồn vốn
Tùy theo nguyên tắc quản trị, ngân hàng sẽ dành riêng một phần vốn trên nhằm đáp ứng nhu cầu rút vốn ra khỏi ngân hàng. Thông thường tỷ lệ dự trữ thanh khoản được lựa chọn như sau:
NHóm 1: 95%
NHóm 2: 30%
NHóm 3: 15%
Dự trữ thanh khoản = 0.95% (nguồn vốn nóng - DTBB) + 0.3 (nguồn vốn kém ổn định- DTBB) + 0.15 (nguồn vốn ổn định- DTBB)
Bước 3: Xác định nhu cầu thanh khoản đáp ứng các khoản vay có chất lượng
Chất lượng kinh doanh ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng các khoản cho vay, chính vì vậy ngân hàng thường xây dựng một chính sách tín dụng nhằm thỏa mãn tối đa các khoản cho vay có chất lượng cao. Với quan điểm như vậy, NH thườn dự tính chovay tối đa tiềm năng và dự trữ thanh khoản cho các khoản vay chất lượng cao, thường bằng 100% chênh lệch giữa tổng cho vay tối đa tiềm năng và dư nợ thực tế hiện tại
Bước 4: Xác định tổng nhu cầu thanh khoản:
Tổng nhu cầu thanh khoản = Nhu cầu dự trữ thanh khoản vốn + nhu cầu thanh khoản cho vay.
Dự trữ thanh khoản cho vay = Quy mô cho vay tối đa - Tổng dư nợ hiện tại
Tổng dự trự thanh khoản = DT thanh khoản vốn + DT thanh khoản cho vay
Tổng dự trữ thanh khoản = 0.95%(nguồn vốn nóng - DTBB)
+ 0.3 (nguồn vốn keóm ổn định- DTBB)
+ 0.15 (nguồn vốn ổn định- DTBB)
+ 1 (quy mô cho vay tối đa + tổng dư nợ hiện tại)
Ví dụ : Xác định nhu cầu thanh khoản của ngân hàng XYZ biết rằng :
NHóm 1: 25 tỷ VND
NHóm 2: 24 tỷ VND
NHóm 3: 100 tỷ VND
Tỷ lệ DTBB là 3% đối với tất cả các loại nguồn vốn. NH quyết định dự trữ thanh khoản 95% đối với nhóm 1, 30% đối với nhóm 2, 15% đối với nhóm 3
Dư nợ cho vay hiện tại là 135 tỷ VND, mức tối đa gần đây đạt được là 140 tỷ VND, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng bình quân là 10% / năm. NH sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu vay vốn có chất lượng tốt.
Hãy xác định tổng nhu cầu dự trữ thanh khoản của ngân hàng đó.
Giải
Nhu cầu thanh khoản nguồn = 0.95 x 25 x(1-0.03)
+ 0.3x24 x(1-0.03)
+0.15 x 100x(1-0.03) = 44.5715
Dự trữ thanh khoản cho vay = 140 x 1.1 -135 = 19
Tổng nhu cầu dự trữ thanh khoản = 63.5715
Các biện pháp quản lí thanh khoản
Trên bảng cân đối tài sản của NH, phần lớn tài sản nợ có đặc trưng là ngắn hạn như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi phát hành séc, tiền gửi có kỳ hạn có thể rút trước hạn… Trong khi đó phần lớn các tài sản có lại có thời hạn dài như tín dụng các khoản đầu tư,cho thuê…
Thực tế các NH đều biết rằng số dư trong điều kiện bình thường chỉ có một sô ít những người gửi tiền có nhu cầu rút tiền hàng ngày, do đó phần lớn số dư tiền gửi không kỳ hạn trở thanh số dư thường xuyên hàng ngày cung cấp nguồn vốn dài hạn cho NH. Đồng thời những nhu cầu rút tiền hàng ngày đc cân đối chủ yếu bởi những khoản tiền mới và các khoản thu nhập của NH. Hơn nữa qua thời gian nhà quản lý sẽ có kinh nghiệm dự tính khoản rút tiền gửi quá mức hàng ngày.
Có 2 phương án chính để NH quản lý khoản rút tiền gửi ra quá mức: thông qua quản lý tài sản nợ và thông qua tài