Tóm tắt
Trên thế giới hiện có một số quan điểm khác nhau về bảo tồn di sản văn hóa. Dựa trên những phân
tích, đánh giá thực trạng nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, bài viết chỉ ra rằng, định hướng phù hợp
hiện nay là vừa bảo tồn kế thừa, vừa bảo tồn phát triển, trong đó, Nhà nước không chỉ trao quyền tự
chủ cho cộng đồng, mà còn có sự hỗ trợ tối đa bằng các thể chế, chính sách thiết thực. Hai mô hình
quản lý di sản được đề xuất, bao gồm mô hình đồng quản lý của Nhà nước và cộng đồng, doanh
nghiệp và mô hình kết hợp (đan xen) quản lý giữa cộng đồng, Nhà nước và doanh nghiệp, là những gợi
mở thiết thực giúp cho địa phương trong việc quản lý di sản, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của nghề làm tranh dân gian Đông Hồ.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ - Từ góc nhìn quản lý di sản văn hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 31 (Tháng 3 - 2020)10
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
NGHỀ LÀM TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ -
TỪ GÓC NHÌN QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA
NGUYỄN THỊ HẠNH*
Tóm tắt
Trên thế giới hiện có một số quan điểm khác nhau về bảo tồn di sản văn hóa. Dựa trên những phân
tích, đánh giá thực trạng nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, bài viết chỉ ra rằng, định hướng phù hợp
hiện nay là vừa bảo tồn kế thừa, vừa bảo tồn phát triển, trong đó, Nhà nước không chỉ trao quyền tự
chủ cho cộng đồng, mà còn có sự hỗ trợ tối đa bằng các thể chế, chính sách thiết thực. Hai mô hình
quản lý di sản được đề xuất, bao gồm mô hình đồng quản lý của Nhà nước và cộng đồng, doanh
nghiệp và mô hình kết hợp (đan xen) quản lý giữa cộng đồng, Nhà nước và doanh nghiệp, là những gợi
mở thiết thực giúp cho địa phương trong việc quản lý di sản, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của nghề làm tranh dân gian Đông Hồ.
Từ khóa: Di sản văn hóa, bảo tồn, phát huy, quản lý di sản, tranh dân gian Đông Hồ, nghề thủ công
truyền thống
Abstract
There are some different perspectives around the world on preserving cultural heritage. Based
on the analysis and assessment of the real situation of Dong Ho folk painting craft, the article shows
that the current orientation is to both inheritance conservation and development conservation, in
which, the State not only gives autonomy to the community, but also makes the maximum support by
institutions and practical policies. The two proposed heritage management models, including the co-
management model of the State and the community, enterprises and the combined model (interwoven)
of management between the community, the State and enterprises, are practical suggestions to help
the locality in managing heritage, preserving and promoting the cultural values of Dong Ho folk
painting craft.
Keywords: Cultural heritage, conservation, promotion, heritage management, Dong Ho folk
paintings, traditional crafts
Đông Hồ được biết đến là một trung tâm sản xuất tranh dân gian, tranh nghệ thuật từ lâu đời ở Việt Nam.
Làng tranh dân gian Đông Hồ thuộc xã Song
Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách
trung tâm Hà Nội khoảng 35 km về phía Đông.
Tranh Đông Hồ nổi tiếng với loại hình nghệ
thuật tranh khắc gỗ và in ván nét, ván màu,
xuất hiện cách ngày nay khoảng hơn 5 thế kỷ
và đã tồn tại thực sự trong đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân ta. Nghề làm tranh
dân gian Đông Hồ là một nghề thủ công đặc
biệt, không chỉ là lao động chân tay đơn thuần
mà còn là lao động nghệ thuật. Trải qua nhiều
giai đoạn lịch sử, nghề làm tranh ở Đông Hồ
có nhiều biến động thăng trầm. Trước đây
nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng,
tất cả đều làm tranh. Do thị trường và công
nghệ phát triển nhanh, tranh dân gian Đông
Hồ bây giờ không tiêu thụ nhiều như trước.
Đến nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng
nghề làm mã1. Hiện nay, chỉ còn hai dòng họ
với hai đại gia đình vẫn theo nghề làm tranh là:
gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và gia * ThS., Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam
11Số 31 (Tháng 3 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
đình cố nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam cùng các
con, cháu. Nghề tranh dân gian Đông Hồ đang
gặp nhiều khó khăn, thách thức về đầu ra cho
sản phẩm cũng như việc nối nghiệp, truyền
nghề cho thế hệ sau. Việc bảo tồn, duy trì và
phát triển nghề cổ truyền trước nguy cơ biến
mất là việc làm quan trọng, cấp thiết để góp
phần phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền
thống của cha ông trong bối cảnh hiện nay.
1. Một số quan điểm bảo tồn, phát huy,
quản lý di sản
* Quan điểm về bảo tồn di sản
Trong lĩnh vực quản lý di sản hiện nay, học
giả Ashworth đã tổng kết từ thực tế bảo tồn di
sản ở nhiều nước trên thế giới thành 3 quan
điểm và tương ứng với nó là định hướng bảo
tồn di sản: quan điểm bảo tồn nguyên trạng,
quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa và quan
điểm bảo tồn phát triển [8, tr.79-82].
Quan điểm bảo tồn nguyên trạng: Dựa trên
quan điểm bảo tồn văn hóa vật thể của các
nhà bảo tàng học, quan điểm này cho rằng,
các sản phẩm của quá khứ nên được bảo tồn
nguyên vẹn như nó vốn có để tránh tình trạng
thế hệ hiện tại làm méo mó, biến dạng di sản.
Mỗi di sản chứa đựng những giá trị văn hóa -
xã hội nhất định mà không phải lúc nào thế hệ
hiện tại cũng có thể hiểu biết một cách cụ thể
để có thể phát huy những giá trị ấy một cách
thích hợp.
Quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa: Bảo
tồn trên cơ sở kế thừa những giá trị độc đáo
của quá khứ là một quan điểm khá phổ biến
trong giới học giả hiện nay khi bàn đến di sản
nói chung, quản lý di sản nói riêng. Quan điểm
lý thuyết này dựa trên cơ sở mỗi di sản cần phải
thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình ở một thời
gian và không gian cụ thể. Khi tồn tại ở không
gian và thời gian hiện tại, di sản ấy cần được
phát huy giá trị văn hóa - xã hội phù hợp với xã
hội hiện nay và phải loại bỏ đi những gì không
phù hợp với xã hội ấy.
Quan điểm bảo tồn - phát triển: Đây là quan
điểm hiện đang chiếm vị trí chủ đạo trong giới
học thuật cũng như giới quản lý văn hóa ở
nhiều nước phát triển trên thế giới. Quan điểm
này không bận tâm với việc di sản nên bảo tồn
y nguyên như thế nào, nên kế thừa cái gì từ
quá khứ mà đặt trọng tâm vào việc làm thế
nào để di sản sống và phát huy được tác dụng
trong đời sống đương đại. Hạt nhân của quan
điểm lý thuyết này là khái niệm “tính xác thực”
(hay “tính chân thực”) của di sản (Authenticity
of Heritage). Chân thực hay không chân thực
không phải là một giá trị khách quan mà nó
được tính bằng những trải nghiệm.
* Quan điểm về mô hình quản lý di sản
Hiện nay, cũng có nhiều quan điểm về mô
hình quản lý di sản2. Ở mỗi cách nhìn, các học
giả đều chủ động đưa ra các biện luận và giải
pháp nhằm bảo tồn và phát huy3 giá trị di sản
hiện hữu. Có thể tổng hợp 3 quan điểm về mô
hình quản lý di sản như sau:
Mô hình kết hợp giữa phát triển du lịch và
quản lý di sản (hay là sự hỗ trợ của di sản cho
phát triển du lịch bền vững). Tác giả John Fletcher
(2005) [5, tr.28-48] đã đưa ra một cách tiếp
cận về mối quan hệ giữa quản lý di sản và
phát triển du lịch. Mục đích là để xem xét vai
trò hợp tác và quản lý của các bên liên quan
về phát triển du lịch và di sản; sự phụ thuộc
lẫn nhau của mối quan hệ bảo tồn di sản và
du lịch; đồng thời, thúc đẩy sự hợp tác giữa
bảo tồn di sản và du lịch thông qua sự tham
gia của các bên liên quan. Quan điểm của các
tác giả Nicholas, L. N; Thapa, B; Ko Y (2009)4 đã
chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hỗ trợ của
cộng đồng cư dân địa phương đối với lĩnh vực
quản lý di sản thế giới và đối với phát triển du
lịch bền vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
sự gắn kết cộng đồng ảnh hưởng tích cực đến
các hành vi hỗ trợ của họ thông qua nhận thức
về di sản thế giới. Đồng quan điểm này còn có
tác giả B McKercher và H Du Cros (2002)5, đã
xem xét mối quan hệ giữa các bên liên quan
đến dòng tiền của hoạt động du lịch văn hóa.
Trong khi các chuyên gia du lịch đánh giá tài
sản văn hóa có lợi cho tiềm năng lợi nhuận của
họ, thì các chuyên gia di sản văn hóa lại đánh
giá cao giá trị nội tại của chúng ví như các tài
Số 31 (Tháng 3 - 2020)12
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
sản tương tự. Du lịch văn hóa bền vững chỉ có
thể xảy ra khi hai bên hợp tác thực sự.
Mô hình đồng quản lý, kết hợp quản lý văn
hóa bản địa với lĩnh vực môi trường: Quan điểm
này được đưa ra bởi học giả Melissa Nursey-
Bray và Phillip Rist (2009) [6, tr.118-127]. Các
tác giả đưa ra khái niệm “đồng quản lý” để giải
thích cho việc tập hợp động lực như một cơ
chế để kết hợp những giá trị văn hóa bản địa
trong các lĩnh vực quản lý môi trường. Mỗi quy
trình quản lý có phương pháp riêng của nó; khi
hai mô hình giao nhau, chúng đưa ra một số
thách thức đối với kết quả quản lý chung.
Mô hình sử dụng các phương tiện truyền
thông mới để phục vụ quản lý di sản văn hóa
(là di sản ảo hoặc kỹ thuật số)6. Quan điểm
nàyđã đề cập đến việc sử dụng các phương tiện
truyền thông mới để phục vụ cho việc quản
lý di sản văn hóa. Trong đó, di sản ảo hoặc kỹ
thuật số là một lĩnh vực phát triển nhanh, được
biết đến nhiều hơn cả. “Di sản mới”, dưới quan
điểm này, để giải quyết sự phức tạp của di sản
văn hóa như: các vấn đề xung quanh việc giải
thích di sản cho công chúng và các nỗ lực để
nắm bắt bản chất của cả di sản văn hóa hữu
hình (như tòa nhà, di tích) và di sản văn hóa vô
hình - di sản văn hóa phi vật thể (như phong
tục, nghi lễ).
Như vậy, 3 quan điểm về mô hình quản lý di
sản nêu trên là những gợi mở đưa ra trong việc
xây dựng những kịch bản được lên kế hoạch
có sự đồng thuận của các bên liên quan nhằm
quản lý, vận hành di sản hiệu quả, đặc biệt là
trong việc phát huy di sản một cách bền vững.
2. Hiện trạng nghề làm tranh dân gian Đông
Hồ
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ hiện
nay vẫn đang được kế thừa từ truyền thống. Kỹ
thuật làm tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ có
nhiều điểm đặc sắc riêng và vẫn có sự kế thừa,
chắt lọc từ quá khứ. Trước đây, những nghệ
nhân giỏi ở Đông Hồ có thể tự mình đảm nhận
tất cả các khâu từ vẽ mẫu, khắc ván, in tranh.
Đến nay, do sự phát triển của làng nghề và khả
năng của các nghệ nhân trẻ nên ba khâu đó
tách ra như một yêu cầu cao về chuyên môn
hóa. Hoạt động sản xuất tranh Đông Hồ hiện
nay vẫn tiếp tục duy trì theo phương pháp kỹ
thuật làm tranh dân gian truyền thống. Các
quy trình kỹ thuật trong các bước sản xuất vẫn
tuân thủ chặt chẽ quy tắc nghề cổ truyền. Bên
cạnh đó, các hộ gia đình đã tìm tòi, học hỏi để
mở rộng thị trường tiêu thụ tranh. Đồng thời,
các nghệ nhân cũng đã sáng tạo ra nhiều sản
phẩm đặc trưng của nghề tranh và phù hợp
với nhu cầu của thị trường.
Hiện nay, hai dòng họ làm tranh dân gian
ở Đông Hồ vẫn đang truyền nghề cho các thế
hệ con, cháu tại các hộ gia đình, cho thấy nghề
làm tranh vẫn tiếp tục tồn tại. Từ năm 2016, các
gia đình nghệ nhân đã chủ động hơn trong
việc tiếp cận thị trường đầu ra cho sản phẩm
từ việc tham gia một số triển lãm tranh trong
nước và quốc tế, đôi lúc đã có sự hỗ trợ của
nhà nước, như: gia đình nghệ nhân Nguyễn
Đăng Chế tham gia triển lãm tranh ở Tp. Hồ Chí
Minh, gia đình nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam,
Nguyễn Hữu Hoa gửi sản phẩm đi triển lãm
tranh ở Mỹ, Nhật Bản...
Có thể nhận thấy, bản sắc văn hóa đặc
trưng của nghề làm tranh Đông Hồ là các ván
khắc gỗ (ván khắc gỗ để in nét và ván khắc gỗ
để in màu trên giấy điệp). Hiện nay, các bản
khắc gỗ đang được lưu giữ ở các hộ gia đình
làm tranh gồm có ván khắc in tranh bộ, ván in
chữ, ván in tranh điệp, ván in tranh vuông, ván
in bưu thiếp. Theo thống kê của Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh (năm 2013)
[7], ván khắc gỗ trong gia đình cố nghệ nhân
Nguyễn Hữu Sam là 377 ván, gia đình nghệ
nhân Nguyễn Đăng Chế là 557 ván, gia đình cố
nghệ nhân Trần Nhật Tấn là 108 ván, gia đình
nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả là 312 ván, gia
đình nghệ nhân Trần Nhật Sở là 254 ván. Như
vậy, tổng số ván khắc của nghề tranh Đông Hồ
lên đến hàng nghìn bản.
Ở làng tranh Đông Hồ đã bắt đầu có sự
sáng tạo, làm mới các chủ đề với các bản
khắc có nội dung đương đại. Ngoài các bản
khắc gỗ do cha ông từ xưa để lại, nghệ nhân
Nguyễn Đăng Chế đã tự khắc lại một số bản
13Số 31 (Tháng 3 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
khắc, hay phục chế lại các bản khắc bị mất...
Đồng thời, làng tranh Đông Hồ cũng bắt đầu
có xu hướng du nhập các loại tranh khác, như
trưng bày tranh làng Sình, tranh Kim Hoàng,
và đặc biệt là tranh Hàng Trống, do được nhiều
du khách yêu thích. Điều đó cho thấy sự thích
ứng, nhanh nhạy của làng nghề trong việc đáp
ứng thị hiếu, nhu cầu của du khách, đồng thời
chứng tỏ các dòng tranh đang có sự giao thoa
trong bối cảnh hiện nay.
Hiện nay, Trung tâm bảo tồn tranh dân gian
Đông Hồ đang được xây dựng. Các hạng mục
chính của Trung tâm đã được phê duyệt gồm
có: Nhà trưng bày kiến trúc nhà gỗ truyền
thống 7 gian, một tầng, mái đao; nhà giới thiệu
quy trình làm tranh và nhà dịch vụ kiến trúc nhà
gỗ truyền thống 5 gian, hai mái bít đốc; hành
lang, hồ nước...; các công trình phụ trợ, khôi
phục chợ tranh dân gian Đông Hồ. Đây là một
thuận lợi trong việc tổ chức các hoạt động bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa nghề làm tranh.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tế, tác giả nhận
thấy nghề làm tranh dân gian Đông Hồ đã và
đang tồn tại một số khó khăn, thách thức:
Đại đa số người làm nghề cho rằng, khó
khăn lớn nhất là tìm đầu ra cho sản phẩm.
Tranh làm ra nhiều nhưng không có nhiều đầu
ra tiêu thụ, thị trường tranh dân gian truyền
thống không khả quan. Các gia đình nghệ
nhân phải tự chủ động tham gia các cuộc triển
lãm tranh ở trong và ngoài nước để tìm kiếm
nguồn khách hàng. Nhà nước chưa chú ý đầu
tư và hỗ trợ nguồn kinh phí đáng kể nào cho
hoạt động này của làng tranh Đông Hồ.
Một số loại nguyên liệu đang có nguy cơ
khó tìm kiếm, hoặc giá thành cao như: nguồn
giấy dó được nhập về chủ yếu từ làng Đống
Cao (huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh), nhưng
hiện nay cả làng Đống Cao cũng chỉ còn một,
hai hộ gia đình cầm cự với nghề này bởi sản
lượng đầu ra thấp, thu nhập bấp bênh và
nguồn cây dó hiếm dần. Nguồn điệp ở các
vùng biển Quảng Ninh, Hải Phòng cũng trở
nên khan hiếm, vì nguồn nguyên liệu điệp hóa
thạch đã bị khai thác cạn kiệt.
Việc truyền dạy nghề trong cộng đồng
đang có nhiều bất cập. Thế hệ trẻ là con, cháu
trong các gia đình nghệ nhân có xu hướng
chuyển đổi sang nghề nghiệp khác; số người
ngoài làng đến làm nghề, học nghề tranh rất ít
ỏi, dẫn đến việc tìm người kế thừa nghề ngày
càng khó khăn. Hoạt động của nghề tranh
Đông Hồ mang tính chất cá nhân, mạnh ai
người nấy làm. Giữa các hộ gia đình làm tranh
chưa có sự gắn bó, đoàn kết, tương trợ nhau
để cùng phát triển. Sự hỗ trợ của chính quyền,
các nhà quản lý các cấp chưa thực sự đồng bộ
và hiệu quả.
Hiện trạng đó cho thấy nghề làm tranh dân
gian Đông Hồ cần được bảo tồn và phát triển
bền vững trong tương lai. Từ góc nhìn quản
lý di sản văn hóa, để bảo tồn và phát huy hơn
nữa nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, cần
thiết phải đưa ra mô hình quản lý thiết thực,
hiệu quả.
3. Mô hình bảo tồn và phát huy nghề làm
tranh dân gian Đông Hồ
Từ góc nhìn quản lý di sản, bài viết đưa ra
một vài gợi ý, nhằm tham vấn cho các nhà
quản lý địa phương có thể áp dụng, lựa chọn
1 trong 2 mô hình sau: (1) Mô hình đồng quản
lý của nhà nước và cộng đồng, doanh nghiệp;
(2) Mô hình kết hợp (đan xen) quản lý giữa cộng
đồng, nhà nước và doanh nghiệp.
3.1. Mô hình đồng quản lý của Nhà nước
và cộng đồng, doanh nghiệp
Mô hình này đề cập đến khả năng tham gia
đồng thời của ba bên trong bộ máy quản lý
Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ
cũng như việc thống nhất các quy tắc, phương
châm hoạt động để vận hành bộ máy đó. Cụ
thể là, sự tham gia của Nhà nước với vai trò
quản lý vĩ mô, các cơ quan chuyên trách sẽ
đề ra những chủ trương, chính sách, văn bản
pháp luật ở tầm vĩ mô. Doanh nghiệp là đơn
vị hỗ trợ các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các chủ trương, chính sách, đồng thời kết
nối với cộng đồng các nghệ nhân làm tranh để
thúc đẩy, triển khai các hoạt động trong thực
tiễn nhằm bảo tồn, phát huy di sản nghề làm
Số 31 (Tháng 3 - 2020)14
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tranh Đông Hồ. Cộng đồng giữ vai trò trung
tâm, là chủ thể nắm giữ, thực hành di sản, trực
tiếp tham gia giữ gìn, bảo vệ, phát huy giá trị
di sản theo kế hoạch của mình, làm sao để
thống nhất phương hướng, hành động chung
với cơ quan nhà nước và doanh nghiệp (Sơ đồ
1). Bộ máy quản lý phải đảm bảo hoạt động
nhịp nhàng, cùng quản lý dựa trên nguyên tắc
tôn trọng quyền lợi, trách nhiệm của ba bên.
Các công cụ quản lý được thiết lập với sự phân
công vai trò trách nhiệm của các bên liên quan
ngang bằng nhau, phân chia lợi ích trong việc
vận hành các dịch vụ phụ trợ (trông xe, biển
báo, biển tên...).
Trên cơ sở đó, cần thành lập Ban quản lý,
Ban điều hành Trung tâm bảo tồn tranh dân
gian Đông Hồ. Ban quản lý Trung tâm có thể
là đơn vị sự nghiệp
nhà nước trực thuộc
UBND huyện Thuận
Thành, hoặc trực
thuộc Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
tỉnh Bắc Ninh. Trong
đó, Ban quản lý sẽ
phân công nhiệm
vụ, công việc liên
quan giữa các bộ
phận, cán bộ, nhân
sự trong Ban quản lý
Trung tâm; đảm bảo
phối hợp hài hòa lợi
ích giữa Trung tâm
với cộng đồng người làm nghề (Sơ đồ 2). Nhân
sự của Ban quản lý Trung tâm có thể gồm:
1 trưởng ban (là đại diện của UBND huyện
Thuận Thành hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tỉnh Bắc Ninh); 4 phó ban (gồm: 1 đại diện
của chính quyền cấp xã, 2 đại diện cho cộng
đồng làm nghề tức đại diện của 2 hộ gia đình
làm tranh, 1 đại diện cho doanh nghiệp và 1
trưởng thôn); ngoài ra, còn có bộ phận chuyên
trách (5 người, gồm nhân viên an ninh và quản
lý dịch vụ; bộ phận hành chính, tài vụ; bộ phận
hướng dẫn viên du lịch, lễ tân...).
3.2. Mô hình kết hợp (đan xen) quản lý
giữa cộng đồng, Nhà nước và doanh nghiệp
Mô hình này đề cập đến khả năng tham gia
chủ yếu là của cộng đồng hoặc doanh nghiệp
tự đứng ra điều hành, bên cạnh đó có sự kết
hợp, đan xen chỉ đạo của nhà nước trong bộ
máy quản lý Trung tâm bảo tồn tranh dân
gian Đông Hồ. Do đó, việc đưa ra các quy tắc,
phương hướng hoạt động để vận hành bộ
máy đó mang tính độc lập, không phụ thuộc
vào sự quản lý trực tiếp của nhà nước (Sơ đồ 3).
Trong mô hình này, cộng đồng cử đại diện
đứng ra làm quản lý, bên cạnh đó, có đại diện
của doanh nghiệp, các hộ gia đình và cơ quan
chuyên môn nhà nước cùng đứng vai trò phối
hợp, hỗ trợ, tư vấn, giám sát. Cụ thể là, trưởng
ban điều hành do cộng đồng bầu ra, phải là
Sơ đồ 1. Mô hình đồng quản lý của Nhà nước
và cộng đồng, doanh nghiệp
Sơ đồ 2. Minh họa mô hình đồng quản lý
của Ban quản lý Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ
15Số 31 (Tháng 3 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
người có uy tín trong nghề làm tranh, có khả
năng lãnh đạo, tổ chức quản lý, điều hành công
việc cũng như phải nắm bắt nhanh nhạy các chủ
trương, chính sách của Nhà nước. Bên cạnh đó,
các phó ban cũng là người đại diện của doanh
nghiệp, người làm nghề và cơ quan chuyên môn
của nhà nước cùng hỗ trợ, phối hợp và tham gia
vào hoạt động điều hành chung trong Ban quản
lý Trung tâm. Ngoài ra, tổ chuyên trách cũng là
các đại diện của cộng đồng, là người có uy tín,
chuyên môn, có trách nhiệm với công việc, phụ
trách các nhiệm vụ được giao. Bộ máy quản lý
chỉ hoạt động hiệu quả khi đảm bảo sự kết hợp
hài hòa quyền lợi, trách nhiệm giữa các bên,
trong đó, cộng đồng
giữ vai trò trung tâm,
điều hành các công
việc của tổ chức. Mặc
dù đề cao vai trò của
cộng đồng, tuy nhiên,
cơ quan nhà nước và
doanh nghiệp vẫn
giữ vị trí quan trọng
trong công tác tư vấn,
giám sát và điều phối,
định hướng các hoạt
động của Trung tâm
bảo tồn tranh dân
gian Đông Hồ.
Trên cơ sở đó, Ban quản lý, Ban điều hành
của Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông
Hồ sẽ là tổ chức độc lập, hoạt động dưới sự bàn
bạc, thống nhất của các thành viên trong cộng
đồng. Ban quản lý Trung tâm là một tổ chức
bao gồm các đại diện của cộng đồng, doanh
nghiệp, cơ quan nhà nước. Trong đó, Ban quản
lý sẽ phân công nhiệm vụ, công việc liên quan
giữa các bộ phận, cán bộ, nhân sự trong Ban
quản lý Trung tâm; đảm bảo phối hợp hài hòa
lợi ích giữa Trung tâm với cộng đồng người
làm nghề (Sơ đồ 4). Nhân sự của Ban quản lý
Trung tâm có thể gồm: 1 trưởng ban (đại diện
do cộng đồng bầu ra); 4 phó ban (gồm: 3 đại
diện cộng đồng, doanh nghiệp, hộ gia đình
bầu ra và 1 đại diện của UBND huyện hoặc
phòng VHTT huyện cử ra); ngoài ra, còn có bộ
phận chuyên trách (gồm có nhân viên an ninh
và quản lý dịch vụ; bộ phận hành chính, tài vụ;
bộ phận hướng dẫn viên du lịch, lễ tân...).
Như vậy, hai mô