kho tàng nghệ thuật dân gian truyền thống của Việt Nam có 
một điệu hát vô cùng đặc sắc và là nét đặc trưng văn hóa của 
đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Thái đó là điệu hát Then
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 13 trang
13 trang | 
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 2721 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghệ thuật hát Then, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghệ thuật hát Then 
kho tàng nghệ thuật dân gian truyền thống của Việt Nam có 
một điệu hát vô cùng đặc sắc và là nét đặc trưng văn hóa của 
đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Thái đó là điệu hát Then. 
 Các nghệ sĩ hát Then tỉnh Lạng Sơn 
“Then” theo tiếng đồng bào dân tộc là Thiên tức là Trời, vì 
thế hiểu theo ngôn ngữ dân tộc thì điệu hát Then được coi là 
điệu hát thần tiên, là một loại hình nghệ thuật mang màu sắc 
tín ngưỡng thuật lại một cuộc hành trình lên thiên giới để cầu 
xin một điều gì đó. 
Hát Then gắn bó sâu sắc với đời sống tinh thần và tâm linh 
của đồng bào dân tộc bởi nó xuất phát từ tín ngưỡng về một 
thế giới thần bí, nơi có những nhân vật và sức mạnh diệu kỳ 
như: Bụt, Giàng, TrờiChỉ có những ông Then, bà Then 
mới có đủ sức mạnh và bản lĩnh cũng như khả năng đến được 
thế giới đó. Khi những ông Then, bà Then này dâng lên 
Mường Trời những sản vât của con người thì họ hát. Lúc đầu 
hát Then chỉ có một người, tay đệm đàn, miệng hát, chân xóc 
nhạc. Chính lời hát bài hát Then, hòa trong nhịp đàn tính dìu 
dặt, cùng tiếng đệm đàn, miệng hát, chân xóc nhạc sẽ đưa 
ông Then, bà Then đến với Mường Trời. Do vậy, người hát 
Then trong dịp lễ, tết là những người đại diện cho cộng đồng, 
cho người dân giao tiếp với thần linh để cầu xin mùa màng 
bội thu, tươi tốt, đời sống ấm no, hanh phúc.. 
Âm nhạc là yếu tố xuyên suốt cuộc hát Then. Hát Then có 
nhiều bài bản, làn điệu khác nhau, đến nay ngoài các điệu 
Then cổ còn có các điệu Then mới được biên soạn. Người 
Tày, người Nùng và người Thái bất kể tuổi tác, giới tính đều 
rất thích nghe hát Then. Hát Then không chỉ là một làn điệu 
dân ca thông thường mà còn là một nghệ thuật tổng hợp bởi 
người nghệ sĩ hát Then vừa phải biết hát, biết đệm đàn lai 
phải biết múa. Mặc dù ở mỗi vùng quê đều có những làn điệu 
hát Then khác nhau ví dụ như: Then – Lạng Sơn dìu dặt tha 
thiết, Then – Tuyên Quang dồn dập như thúc quân ra trận, 
Then – Hà Giang lại nhấn nhá từng tiếng một, Then – Bắc 
Kạn lại như tiếng thì thầmTuy nhiên nhìn một cách tổng 
thể, Then có một số loại hình thể hiện các chức năng chính 
như: Then Kỳ Yên có nghĩa là cầu an, Then cầu mùa, Then 
chúc tụng, Then chữa bệnh, Then cấp sắc 
Nói đến nghệ thuật hát Then sẽ không thể không nhắc đến 
cây đàn Tính, bởi nếu thiếu đi âm thanh của cây đàn này thì 
điệu hát Then sẽ không hoàn chỉnh. Tiếng trầm bổng ngân 
nga từ cây đàn tính quyện với những lời ca, tiếng hát của 
Then như đưa người ta vào một thế giới hư ảo, huyền bí 
Cho đến hôm nay, hát Then vẫn còn được lưu giữ và là một 
món ăn tình thần không thể thiếu ở nhiều địa phương nơi có 
người đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Thái sinh sống. 
Bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật hát then 
Cũng như rất nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống khác, 
hát Then đang đứng trước nguy cơ mai một. Để bảo tồn và 
phát huy giá trị nghệ thuật của hát Then, các nhà nghiên cứu, 
các tỉnh có đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Thái sinh sống đã có 
những hành động tích cực và cụ thể góp phần bảo tồn nghệ 
thuật này. 
Được biết đến là một di sản văn hóa – nghệ thuật truyền 
thống độc đáo của các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở các tỉnh 
miền núi phía bắc như Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, Lạng 
Sơnthen được lưu giữ, phát triển thành một không gian văn 
hóa hát then – đàn tính hết sức đồ sộ về khối lượng, phong 
phú về thể loại, đa dạng về hình thức biểu diễn. Trải qua 
nhiều năm, một số đồng bào người dân tộc ở phía bắc đã di 
cư đến phía Nam sinh sống và mang theo loại hình này vì vậy 
hiện nay ở một số tỉnh phía nam cũng thấy xuất hiện nghệ 
thuật hát then. 
Vốn không chỉ đơn thuần là một loại hình nghệ thuật diễn 
xướng, hát then còn là một hình thức tín ngưỡng lâu đời của 
người đồng bào dân tộc. Truyền thuyết kể rằng: Nhà Mường 
Then có 22 vạn gian nhà, nhà Then rộng mở khang trang, tha 
hồ cho đôi con Rồng đùa nhau bay lượn khắp các gian nhà 
Then, đàn voi, đàn ngựa có thể chạy nước đại trên sân nhà 
Then. Nhà Mường Then cái gì cũng đẹp vì vậy người trần 
muốn đến được nhà Mường Then để ngắm phong cảnh và 
cầu xin cho con người ai ai cũng được khỏe mạnh, xinh đẹp, 
cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.. 
Nghệ nhân truyền dạy nghệ thuật hát then cho các bạn trẻ 
Chính vì hát then gắn với tín ngưỡng của đồng bào dân tộc 
nên loại hình nghệ thuật này đươc lưu giữ và truyền lại cho 
biết bao thế hệ. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, cũng như 
nhiều loại hình văn hóa phi vật thể khác, hát then đang đứng 
trước nguy cơ mại một trong xã hội phát triển. Lý do là bởi 
lớp nghệ nhân đã quá già, thiếu những thế hệ kế cận, bên 
cạnh đó không gian diễn xướng cho loại hình nghệ thuật này 
cũng đang mất dần trong cơn lốc đô thị hóa. Để bảo tồn và 
phát huy giá trị nghệ thuật của hát Then những năm vừa qua 
các tỉnh, địa phương có người dân tộc Tày, Nùng đã có 
những hành động cụ thể như: Tỉnh Bắc Kạn đã tổ chức mời 
các nghệ nhân hướng dẫn, truyền dạy cho thế hệ trẻ thông 
qua các lớp học do Sở VHTTDL tỉnh tổ chức. Trong các dịp 
lễ, tết, hội làngtỉnh luôn đưa hát then vào chương trình 
biểu diễn chính 
Tại Quảng Ninh, ngoài việc hỗ trợ các lớp học UBND tỉnh 
còn tuyên truyền tích cực cho loại hình nghệ thuật này. Vì thế 
đến nay một số xã, huyện tại Quảng Ninh luôn vang lên tiếng 
hát then trong các dịp cưới hỏi, lễ cầu an, chúc thọ ông bà. 
Tỉnh còn xây dựng hẳn một đề án bảo tồn và phát huy nghệ 
thuật này. Còn ở tỉnh Tuyên Quang – một trong những tỉnh 
tích cực nhất trong việc tìm các giải pháp bảo tồn thì năm nào 
cũng có đến mấy lớp học được tỉnh tổ chức. Tuy nhiên theo 
ông Nguyễn Vũ Phan – Giám đốc Sở VHTTDL tỉnh cho biết 
thì mặc dù tỉnh tổ chức rất nhiều các lớp học song số lượng 
các bạn trẻ tham gia không nhiều. Tại tỉnh Tuyên Quang chỉ 
có 4 nghệ nhân nắm giữ làn điệu then cổ thì 2 nghệ nhân đã 
khuất núi, hát then giờ bị trẻ hóa nhiều, lời then đa phần được 
đặt lời mới. Điều đáng lo nhất theo ông Nguyễn Vũ Phan là 
người dân tộc Tày hiện nay phần nhiều không nói được tiếng 
mẹ đẻ, đây là một thực trạng ảnh hưởng nghiêm trọng tới 
việc bảo tồn hát then. Tại tỉnh Lạng Sơn thì dự án bảo tồn đã 
được hoành thành trên giấy nhưng lại không có kinh phí thực 
hiện, ông Hoàng Thành Khởi – trưởng phòng Văn hóa Sở 
VHTTDL tỉnh cho biết: nếu có kinh phí thì cũng không thể 
thực hiện được bởi không có nghệ nhân nào có thể truyền 
dạy 
Như vậy có thể thấy, mặc dù các tỉnh đã có nhiều những hành 
động tích cực cho việc bảo tồn loại hình nghệ thuật độc đáo 
của đồng bào dân tộc song kết quả thì vẫn còn hạn chế. Về 
vấn đế này, ông Nguyễn Vũ Phan đã có ý kiến: Yếu tố quyết 
định là phải coi trọng vai trò của các nghệ nhân, hạt nhân văn 
hóa dân tộc Tày. Từ trước tới nay, mới chỉ là sự coi trọng về 
mặt tinh thần, động viên, cổ vũ, đến giờ cần phải quan tâm 
vật chất, dành một phần kinh phí thỏa đáng hỗ trợ hoạt động 
của các nghệ nhân để họ truyền dạy làn điệu Then cho thế hệ 
trẻ và đào tạo người kế nghiệp. Không ai có thể thay các 
nghệ nhân đào tạo người kế nghiệp mà phải do chính các 
nghệ nhân đảm nhiệm. Đồng thời, hàng năm các địa phương 
cần tổ chức hội nghị tôn vinh các nghệ nhân, hạt nhân văn 
hóa dân gian để động viên, cổ vũ những người có đóng góp 
tích cực đối với đời sống sinh hoạt văn hóa cộng đồng. 
Nhạc sĩ Lương Nguyên, người từng làm Tổng đạo diễn Liên 
hoan hát Then – đàn Tính thì lại cho rằng: Muốn bảo tồn hát 
Then phải để cho nó được sống trong cộng đồng. Cơ quan 
quản lý nhà nước chỉ giữ vai trò định hướng chứ không thể 
làm thay 
Liên hoan nghệ thuật Hát Then, đàn Tính toàn quốc lần thứ 
IV tại tỉnh Lạng Sơn, năm 2012 vừa được tổ chức từ ngày 02 
tháng 11 đến ngày 06 tháng 11. Liên hoan không chỉ là cơ 
hội giao lưu giữa các tỉnh có nghệ thuật hát then, đàn tính, 
giới thiệu loại hình nghệ thuật đến với đông đảo công chúng 
mà còn là một hành động thiết thực trong công tác bảo tồn, 
phát huy giá trị nghệ thuật của di sản văn hóa này.