Tóm tắt
Người Tu Dí ở Lào Cai là một nhánh của tộc người Bố Y ở Việt Nam. Nghi tục nhảy lửa của người
Tu Dí ở Lào Cai không phải là một lễ riêng mà là một phần trong lễ cúng ma của họ. Nghi tục này có
những nét đặc sắc so với nghi tục cùng loại của một số tộc người khác ở Việt Nam. Ngoài ý nghĩa chính
là dùng lửa để tẩy rửa linh hồn cho người quá cố trước khi về nhập với tổ tiên, nghi tục nhảy lửa của
người Tu Dí còn mang ý nghĩa giải đen, giải hạn hoặc đem lại may mắn cho những người tham gia.
Những con người ở trạng thái bình thường dám bước đi trên than hồng, nhảy qua chảo lửa cũng là nét
đặc biệt của nghi tục này. Những điều đó góp phần cho thấy người Tu Dí vẫn còn giữ được ít nhiều bản
sắc dân tộc cho tới ngày nay.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghi tục nhảy lửa trong lễ cúng ma của người Tu Dí ở Lào Cai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 25 - Tháng 9 - 201852
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
NGHI TỤC NHẢY LỬA TRONG LỄ CÚNG MA
CỦA NGƯỜI TU DÍ Ở LÀO CAI
TRẦN QUỐC VIỆT
Tóm tắt
Người Tu Dí ở Lào Cai là một nhánh của tộc người Bố Y ở Việt Nam. Nghi tục nhảy lửa của người
Tu Dí ở Lào Cai không phải là một lễ riêng mà là một phần trong lễ cúng ma của họ. Nghi tục này có
những nét đặc sắc so với nghi tục cùng loại của một số tộc người khác ở Việt Nam. Ngoài ý nghĩa chính
là dùng lửa để tẩy rửa linh hồn cho người quá cố trước khi về nhập với tổ tiên, nghi tục nhảy lửa của
người Tu Dí còn mang ý nghĩa giải đen, giải hạn hoặc đem lại may mắn cho những người tham gia.
Những con người ở trạng thái bình thường dám bước đi trên than hồng, nhảy qua chảo lửa cũng là nét
đặc biệt của nghi tục này. Những điều đó góp phần cho thấy người Tu Dí vẫn còn giữ được ít nhiều bản
sắc dân tộc cho tới ngày nay.
Từ khóa: Nghi tục, nhảy lửa, Tu Dí, cúng ma
Abstract
The Tu Di in Lao Cai province is a branch of Bo Y ethnic group in Vietnam. Their fire dance ritual is a
not separate one but is a part of their ghost worshipping. It has some special characteristics compare
to the common rituals of some other ethnic groups in Vietnam. In addition to the main meaning that
using fire to cleanse the soul for the deceased before following their ancestors, it also has meaning that
using the fire to release their troubles or bring lucky to the attendance. Normal people who dare to walk
on the hot red charcoal, jump over the fire are also characteristics of this ritual. Those contribute to the
fact that Tu Di people still retain some of their traditional identity up to present.
Keywords: Ritual, fire dance, the Tu Di, ghost worshipping
Đặt vấn đề
Nói đến nghi tục nhảy lửa, nhiều người thường nghĩ ngay đến người Pà Thẻn ở Hà Giang, bởi
nghi tục nhảy lửa của tộc người này đã khá nổi
tiếng, được các nhà nghiên cứu văn hóa và các
phương tiện thông tin đại chúng quảng bá. Tuy
nhiên, ở Việt Nam không chỉ người Pà Thẻn mà
một số tộc người khác như Tày, Dao, Chăm...
cũng có nghi tục nhảy lửa. Nhóm người Tu Dí
ở Lào Cai - một bộ phận của tộc người Bố Y,
cũng có nghi tục nhảy lửa nhưng nghi tục này
của họ còn chưa được nhiều người biết đến,
cũng chưa được đề cập chi tiết trong các tài
liệu đã công bố về văn hóa người Tu Dí.
Khi điền dã thâm nhập vào đời sống người
Tu Dí, chúng tôi được nghe một số người ở các
tộc lân cận như Nùng, Pa Dí, H’mông, Kinh...
kể người Tu Dí có lễ nhảy lửa rất kỳ bí nhưng
họ chỉ có thể kể sơ lược bởi nghi tục này luôn
được người Tu Dí thực hiện vào đêm khuya ở
trên núi cao - trong phần cuối của một lễ cúng
ma, nên ít người các tộc khác được chứng kiến
trọn vẹn. Điều đó khiến chúng tôi tò mò, quan
tâm và muốn tìm hiểu. Chúng tôi trình bày
nguyện vọng của mình xin tham dự khi có lễ
đó diễn ra với các thầy cúng Tu Dí mà chúng
tôi quen biết và được họ đồng ý.
1. Sơ lược về người Tu Dí ở Việt Nam
Theo các tài liệu đã được công bố, Tu Dí là
một bộ phận thuộc tộc người Bố Y ở Việt Nam
53Số 25 - Tháng 9 - 2018
VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
(trong các văn bản của tỉnh Lào Cai hiện nay
đều gọi họ là người Bố Y nhưng người dân vẫn
tự xưng tộc danh là người Tu Dí). Theo gia phả
của dòng họ Lồ (chiếm đa số trong các dòng
họ người Tu Dí) và lời kể của những cụ già,
người Tu Dí di cư từ phủ Đô Vân, tỉnh Quý Châu,
Trung Quốc sang Việt Nam vào khoảng những
năm cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII. Thời gian
đó, người Tu Dí tham gia vào một cuộc khởi
nghĩa chống nhà Thanh nên bị đàn áp, truy
đuổi gắt gao. Họ buộc phải chạy trốn từ Quý
Châu xuống Vân Nam, trà trộn vào cộng đồng
người Hán ở đó một thời gian. Nhà Thanh tiếp
tục truy đuổi tới Vân Nam nên một số dòng họ
chạy tiếp tới Lào Cai, Việt Nam, hình thành nên
tộc người Tu Dí ở Việt Nam.
Do hoàn cảnh lịch sử như vậy, người Tu Dí
đã dùng tiếng Hán thay tiếng mẹ đẻ và một
số tục lệ đã bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn
hoá Hán. Tuy nhiên, họ vẫn giữ được những
nét sinh hoạt cổ truyền, trong đó có nghi tục
nhảy lửa. Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí là
một phần của lễ cúng ma và là một sinh hoạt
văn hóa lễ tục mang màu sắc tín ngưỡng dân
gian đặc sắc của tộc người này.
2. Lễ cúng ma của người Tu Dí
Người Tu Dí quan niệm có hai trường hợp
chết: chết trong nhà và chết ngoài nhà.
- Chết trong nhà là những trường hợp chết
ở trong ngôi nhà của gia đình mình đang ở.
Chết như vậy được coi là chết bình thường,
linh hồn sạch sẽ, có thể cúng ma cho linh hồn
vào nhập với tổ tiên mà không cần phải làm
nghi tục nhảy lửa.
- Chết ngoài nhà không chỉ có nghĩa là chết
ở ngoài trời mà là tất cả các trường hợp chết
ở ngoài ngôi nhà của gia đình mình đang ở
bao gồm cả chết trong bệnh viện, nhà trọ, nhà
người khác Chết ngoài nhà được coi là chết
không sạch, linh hồn lang thang ở bên ngoài và
lễ cúng ma bắt buộc phải có nghi tục nhảy lửa.
Ngoài ra, người Tu Dí còn chia lễ cúng ma ra
làm hai loại: lễ cúng ma ướt và lễ cúng ma khô.
- Lễ cúng ma ướt là lễ cúng ma cho người
mới chết. Thi thể có trong lễ cúng ma, sau lễ
cúng thì mới đem đi chôn.
- Lễ cúng ma khô là lễ cúng ma cho người
chết đã được đem đi chôn trước đó. Do vậy, thi
thể không có trong lễ cúng ma.
Một gia đình có người chết làm lễ cúng ma
ướt hay ma khô là tuỳ thuộc vào điều kiện kinh
tế của họ. Chi phí để tổ chức một lễ cúng ma
khá nhiều nên chỉ những gia đình khá giả mới
làm ma ướt. Các gia đình nghèo thường làm
ma khô. Thời điểm làm ma khô thường diễn ra
khi gia đình đó đã chuẩn bị đủ về điều kiện vật
chất, tiền của và có sự thúc ép bởi những bất
an trong cuộc sống như ốm đau, làm ăn không
thuận Bởi họ tin rằng: nếu hồn chưa được
cúng ma, còn lang thang, không nhập được
với tổ tiên thì hồn có thể quay trở về quấy
nhiễu cuộc sống con cháu.
Người Tu Dí luôn làm lễ cúng ma khô vào
mùa đông, tầm cuối tháng 10, đầu tháng 11
âm lịch, vì lúc này ruộng nương đã thu hoạch
xong, sẽ có mặt bằng để làm các nghi tục tang
ma và mọi người cũng rảnh rỗi để có thể đến
dự lễ cúng ma đông đủ.
Như vậy, phần lễ cúng ma của các trường
hợp chết trong hoặc ngoài nhà, ma ướt hay
ma khô đều như nhau; phần nghi tục nhảy lửa
chỉ có trong lễ cúng ma cho người chết ngoài
nhà mà thôi; dù cúng ma ướt hay ma khô cho
người chết ngoài nhà thì nghi tục nhảy lửa
cũng vẫn làm như nhau.
Nghi lễ chính của lễ cúng ma gồm các bước
tiến hành như sau:
Lễ cúng ma cổ truyền của người Tu Dí diễn
ra trong ba ngày ba đêm.
- Ngày thứ nhất, là ngày cúng gọi hồn. Địa
điểm người qua đời ở chỗ nào thì phải tới chỗ
đó làm lễ để cúng gọi hồn về. Trong trường
Số 25 - Tháng 9 - 201854
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
hợp không xác định được chính xác chỗ người
đó chết hoặc tang gia ở quá xa không có điều
kiện đến tận nơi để gọi hồn, thầy cúng phải đi
theo hướng khi người đó ra khỏi nhà trước khi
chết cho đến khi gặp ngã ba/ngã tư đầu tiên
thì sẽ dừng lại và cúng gọi hồn tại đó. Bởi từ
chỗ này, người ta không biết người chết rẽ đi
theo hướng nào nữa.
- Ngày thứ hai là ngày các thầy cúng viết
rất nhiều các loại sớ bằng chữ Hán, nội dung
cầu xin các vị bồ tát ở các phương hướng mở
đường cho hồn đi về nhà. Gia chủ dựng bốn
bàn thờ để đón hồn về:
* Bàn thờ thứ nhất đặt liền trước bàn thờ
tổ tiên của tang gia để các vị bồ tát khắp nơi
tọa lạc.
* Bàn thờ thứ hai đặt ở giữa nhà. Bàn thờ
này có hai mặt: một mặt đối diện với bàn thờ
thứ nhất (mặt trong), mặt còn lại quay ra cửa ra
vào (mặt ngoài) là nơi ngự của Phật tổ.
* Bàn thờ thứ ba đặt ở sát tường, phía bên
trái bàn thờ thứ nhất, là chỗ cắm cây tre gai
làm đường lên trời cho hồn.
* Bàn thờ thứ tư đặt ở ngoài nhà, phía trước
cửa ra vào. Đây là chỗ cho hồn dừng chân nghỉ
trước khi vào trong nhà.
- Ngày thứ ba, các thầy cúng chủ yếu cầu
các vị bồ tát xá tội cho hồn. Ngoài ra các thầy
cúng còn đọc những bài kinh kể về con đường
đi lấy kinh của Đường Tăng, những lời của tổ
tiên răn dạy về lễ nghĩa sống ở đời cho con
cháu. Khi trời xẩm tối, tang gia sẽ chuyển bàn
thờ ở ngoài sân ra nơi bãi đất trống đã được
chuẩn bị để thực hiện phần nghi tục nhảy lửa
rồi đưa hồn lên nhập vào bàn thờ với tổ tiên.
3. Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí
Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí là phần lễ
diễn ra vào đêm cuối của ngày thứ ba trong lễ
cúng ma. Chuẩn bị cho lễ nhảy lửa, tang gia đã
chọn một bãi đất trống (là mặt bằng của một
ruộng lúa đã thu hoạch xong). Họ đào một hố
đất rộng khoảng 0,6m, dài 5m và sâu 0,4m. Hố
được đổ đầy than củi - loại than cục. Một số
thanh niên nhóm lửa cho than cháy và dùng
những chiếc mẹt lớn quạt cho than nóng đỏ
rực lên. Phía đầu trên của hố than, có một
bàn thờ để thầy cúng thỉnh thần linh và làm
phép cho lễ nhảy lửa. Cách phần cuối hố than
khoảng 1m, người ta đào một hố nhỏ, dưới
hố đặt chiếc chảo đổ đầy dầu mỡ ăn và đốt
dầu cháy bùng lên. Một người cầm chai rượu
mạnh đứng gần chảo và mỗi khi có người sắp
Ảnh 1, 2. Rãnh than hồng và chảo lửa trong nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí (Ảnh: Tác giả)
55Số 25 - Tháng 9 - 2018
VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nhảy qua chảo thì phun rượu vào làm ngọn lửa
trong chảo bùng lên cao.
Những người sẽ đi trên than hồng và nhảy
qua chảo lửa (không phân biệt già - trẻ, nam
- nữ) bao gồm gia chủ và những người đến
tham dự lễ cúng ma đã đăng ký nhờ thầy cúng
xin phép thần linh cho nhảy lửa. Những người
này phải kiêng kỵ một số điều sau:
- Nếu là nam đã có vợ hoặc bạn gái thì
người vợ hoặc bạn gái đó phải đang không có
mang. Nếu vi phạm mà vẫn cố tình nhảy lửa
thì hoặc sẽ bị bỏng hoặc người vợ hay bạn gái
sẽ bị sảy thai.
- Nếu là nữ đang có mang thì không được
nhảy lửa vì sẽ bị bỏng hoặc sảy thai.
Lễ nhảy lửa bắt đầu từ khoảng 19h kéo dài
đến 24h. Thầy cúng dùng một nhạc khí thiêng
đặc biệt - chiếc tù và làm bằng một cái rễ cây bị
sét đánh chết, hướng lên trời và thổi một hồi.
Tiếp đó, ông một tay cầm quyền trượng, tay
kia cầm một nhạc khí thiêng khác - tiếng Tu
Dí gọi là Shư tao, vừa cúng vừa lắc Shư tao và
nhảy múa. Các động tác múa có những điểm
đặc biệt như động tác dùng tay viết các chữ
Nho vào không trung hoặc dùng chân viết chữ
vô hình trên mặt đất. Trong khi thầy cúng múa
làm phép, các học trò gõ chiêng liên tục. Thầy
cúng trình lên với thần linh danh sách những
người sẽ nhảy lửa. Sau khi thần linh đã chứng,
thầy cúng vừa cúng vừa lấy thẻ xem quẻ ở
hai đầu và hai bên khoảng giữa hố than. Ông
ngậm nước trong một cái bát phun vào hố
than ở mỗi chỗ xem quẻ một lần. Vậy là xong
phần cúng.
Tiếp đến phần chuẩn bị nhảy lửa, một thầy
phụ cúng tay xách một cặp gà, vịt đi dọc mép
hai bên hố than, đưa gà vịt lướt đi trên mặt than
hồng và qua chảo lửa cầu cho gia súc, gia cầm
không bệnh tật, sinh sôi nảy nở thật nhiều.
Đến phần đi trên than hồng và nhảy qua
chảo lửa, người ta mang đến một chậu nước
lã. Những người nhảy lửa phải rửa chân sạch
trước khi đi trên than hồng và nhảy qua chảo
lửa. Mỗi người nhảy lửa ba lần nhưng chỉ rửa
chân một lần đầu trước khi nhảy. Thầy cúng
rửa chân và làm đầu tiên. Những người phụ
việc đứng dọc hai bên hố than dùng những
chiếc quạt lớn luôn tay quạt cho than đỏ hồng
lên. Khi thầy cúng đi chân trần trên than hồng
và nhảy qua ngọn lửa bùng cao ở chảo cuối
hố than, các học trò cùng nhau khua chiêng,
Ảnh 3. Thầy cúng người Tu Dí
làm lễ trong nghi tục nhảy lửa (Ảnh: Tác giả)
Ảnh 4. Người Tu Dí nhảy lửa (Ảnh: Tác giả)
Số 25 - Tháng 9 - 201856
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
chũm chọe dồn dập trong tiếng reo hò của
những người đứng xem hai bên. Sau khi nhảy
lửa ba lần, thầy cúng đứng ở phía cuối hố than
hồng chống chiếc phương trượng xuống chặn
ngang hố than, trong khi phía đầu kia của hố,
một học trò của ông xướng to tên các thành
viên của gia chủ sẽ nhảy lửa để báo cho thần
linh biết. Tiếp đó, thầy cúng nhấc chiếc phương
trượng chặn cuối đường hố than ra, lập tức
người chủ tang gia hai tay rước bài vị của
người chết phải bước chân trần vào hố than,
đi trên than hồng và nhảy xuyên qua ngọn lửa
lớn bùng lên từ chảo lửa. Tiếp sau chủ tang gia,
các thành viên khác trong gia đình chủ tang
nối tiếp nhau làm theo. Mỗi người làm như
vậy ba lần trong tiếng reo hò, tiếng chiêng và
chũm chọe tạo nên một không khí vừa kỳ bí
vừa sôi nổi.
Sau khi gia chủ đã nhảy lửa xong, những
người đã đăng ký và được thần linh cho phép
sẽ rửa chân và lần lượt đi qua than hồng, nhảy
qua chảo lửa ba lần. Hai bên người xem vừa hò
reo, vừa quạt cho than hồng, thổi cho chảo lửa
bùng lên thật to. Không khí lúc này vừa linh
thiêng vừa có phần hào hứng, sôi nổi như của
một ngày hội.
Khi tất cả mọi người đều đã nhảy lửa xong,
các thầy cúng tập trung vào một bên ở khoảng
giữa hố than cúng bài cúng tạ ơn thần linh và
đốt tất cả bài vị, sớ, vàng mã, cành tre gai ngay
trên hố than. Lễ nhảy lửa sẽ phải kết thúc trước
24h một lúc để mọi người còn kịp trở về nhà
gia chủ làm nốt lễ cuối cùng đưa hồn lên bàn
thờ nhập với tổ tiên vào đúng 24h.
Khi làm lễ đưa hồn nhập với tổ tiên, thầy
cúng chỉ làm lễ cúng ở bàn thờ của gia chủ.
Các bàn thờ khác đều được dọn đi. Bát hương
thờ người chết ở ngoài cửa được mang vào đặt
lên bàn thờ tổ tiên. Các thầy cúng đọc các bài
cúng cầu chúc cho hồn siêu thoát, cầu hồn phù
hộ con cháu những điều tốt đẹp. Sau khi cúng
xong, mọi người vui vẻ ăn cơm, uống rượu với
nhau rồi chia tay gia chủ, kết thúc lễ cúng.
4. Những nét đặc sắc trong nghi tục nhảy
lửa của người Tu Dí
Để thấy được những nét đặc sắc trong nghi
tục nhảy lửa của người Tu Dí ở Lào Cai, chúng
tôi đã so sánh nghi tục này với một số nghi tục
nhảy lửa của các tộc người khác ở Việt Nam và
rút ra những nhận xét sau:
- Nếu như các tộc người khác như Dao,
Chăm, Tày, Pà Thẻn dùng lễ nhảy lửa để vui
chơi, tiễn mùa, giải xui hoặc chế ngự thiên
nhiên thì người Tu Dí không chỉ dùng để giải
xui mà ý nghĩa chính là tẩy rửa tội lỗi, làm
trong sạch linh hồn.
- Trong khi nghi tục của người Tày chỉ đi
trên than hồng, người Dao bốc than hồng
tung vào người, người Chăm múa, đạp dập
tắt đống lửa, người Pà Thẻn nhảy vào lăn lộn
dập tắt lửa, thì nghi tục nhảy lửa của người Tu
Dí mang tính tổng hợp: vừa đi trên than hồng
vừa nhảy xuyên qua ngọn lửa mà không dập
tắt lửa.
- Trong khi các tộc người khác rất hạn chế
thành phần trực tiếp tham gia nhảy lửa như:
chỉ thầy cúng (người Chăm), chỉ nam thanh
niên (người Pà Thẻn) hoặc chỉ thanh niên
trong họ (người Dao)... mới được phép tham
gia nhảy lửa, thì thành phần trực tiếp nhảy lửa
của người Tu Dí phong phú hơn rất nhiều: bao
gồm cả tang gia và khách tham dự, cả nam và
nữ các lứa tuổi khác nhau.
- Sự kỳ bí, đặc sắc khiến người dân trong
khu vực thán phục ở nghi tục này chính là việc
những người Tu Dí hành lễ là những người dân
bình thường, không phải chỉ là những người
đặc biệt như thầy cúng trong nghi tục nhảy
lửa của người Chăm; khi đi chân trần trên than
hồng và nhảy qua chảo lửa, họ cũng hoàn toàn
tỉnh táo, không bị nhập hoặc thôi miên, như
các thanh niên trong nghi tục nhảy lửa của
người Dao và Pà Thẻn.
57Số 25 - Tháng 9 - 2018
VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
- Các tộc người ở miền núi coi những thầy
cúng có khả năng tổ chức lễ nhảy lửa là cao
tay. Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí cho thấy
quyền năng đáng chú ý của một số thầy cúng
Tu Dí sánh ngang với các thầy cúng cao tay ở
tộc người khác. Điều đó góp phần khẳng định
vị thế tương xứng của văn hóa Tu Dí với văn
hóa các tộc người lân cận, gìn giữ lòng tự hào
về truyền thống văn hóa cổ truyền của người
dân Tu Dí.
- Những nét đặc sắc trong nghi tục nhảy
lửa của người Tu Dí góp phần khẳng định họ
vẫn giữ được ít nhiều bản sắc văn hóa riêng
của mình. Điều này trái với nhận xét của một
số nhà nghiên cứu văn hóa trước đây cho rằng
người Tu Dí đã hoàn toàn bị Hán hóa.
Kết luận
Tuy không phải là một hiện tượng văn hóa
cá biệt, nhưng nghi tục nhảy lửa chỉ có ở một
số ít tộc người. Mỗi tộc người lại có những
nét văn hoá riêng hết sức độc đáo. Nghi tục
nhảy lửa của người Tu Dí về cách thức hành lễ
có tính tổng hợp, phong phú hơn so với nghi
tục nhảy lửa của một số tộc người khác. Tuy
mục đích chính là dùng lửa để tẩy rửa linh hồn,
nhưng nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí cũng
ít nhiều bao gồm cả ý nghĩa giải hạn, vượt qua
thử thách chế ngự thiên nhiên và còn là lễ hội
vui chơi giải trí Những nét đặc sắc trong
nghi tục này của họ cho thấy bản sắc văn hóa
của tộc người vẫn còn được gìn giữ cho tới
ngày nay.
Do vậy, chúng tôi nhận thấy nghi tục nhảy
lửa của người Tu Dí hàm chứa một giá trị văn
hoá độc đáo, cần được nghiên cứu sâu và
quảng bá rộng rãi trong nước và quốc tế. Sự
độc đáo của nghi tục nhảy lửa Tu Dí có thể thu
hút du khách tham quan tương tự như nghi
tục nhảy lửa của người Pà Thẻn. Vì vậy, nếu
nghi tục này được khai thác tốt trong các loại
hình du lịch khám phá văn hóa ở Lào Cai, nó có
thể không chỉ góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân nơi đây một cách tích
cực, mà còn góp phần giới thiệu, quảng bá di
sản văn hóa đặc sắc của một trong những tộc
người thiểu số vùng núi cao phía Bắc Việt Nam.
T.Q.V
(TS., Trường Đại học Thủ đô Hà Nội)
Tài liệu tham khảo
1. Trần Trung Hiếu (2007), Tín ngưỡng và lễ hội
nhảy lửa của người Pà Thẻn (xã Tân Bắc - huyện
Bắc Quang - tỉnh Hà Giang), Luận văn thạc sĩ Văn
hoá học, Viện Nghiên cứu Văn hóa.
2. Nguyễn Thị Thanh Nga (2005), Những tương
đồng và khác biệt giữa người Bố Y và người Tu Dí
(thuộc tộc người Bố Y) ở Lào Cai, Tài liệu đánh máy.
3. Trần Hữu Sơn (2013), Văn hóa dân gian người
Bố Y ở Lào Cai, Tập I, Nxb. ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
4. Trần Hữu Sơn (2015), Văn hóa dân gian
người Bố Y ở Lào Cai, Tập II, Nxb. ĐHQG Hà Nội,
Hà Nội.
5. Viện Dân tộc học (1987), Các dân tộc ít
người ở Việt Nam (các tỉnh phía bắc), Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
6. Trần Quốc Việt (2015), Âm nhạc dân gian
của người Bố Y ở Việt Nam và những vấn đề văn
hóa liên quan, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 9 - 7 - 2018
Ngày phản biện, đánh giá: 12 - 9 - 2018
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2018