Tóm tắt. Bài báo đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ứng dụng
phương pháp đánh giá đất của FAO trong nghiên cứu địa lí học phục vụ
chuyển đổi cơ cấu cây trồng (CCCT) ở Việt Nam trong giai đọan hiện nay.
Tác giả bài báo đã trình bày tóm tắt kết quả công trình “Nghiên cứu sự biến
động và chuyển đổi diện tích các cây công nghiệp lâu năm chủ yếu trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng”, trong đó thể hiện rõ việc vận dụng kết hợp phương
pháp đánh giá đất của FAO với các phương pháp nghiên cứu truyền thống
của địa lí học để có cơ sở đề xuất chuyển đổi diện tích các loại cây này một
cách hợp lý trên địa bàn tỉnh. Đây là một minh chứng cụ thể cho khả năng
đóng góp to lớn của địa lí học vào thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi CCCT ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng dưới góc độ địa lí học: Trường hơp tỉnh Lâm Đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Science Sci., 2011, Vol. 56, No. 8, pp. 130-140
NGHIÊN CỨU CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU CÂY TRỒNG
DƯỚI GÓC ĐỘ ĐỊA LÍ HỌC: TRƯỜNG HƠP TỈNH LÂM ĐỒNG
Mai Hà Phương
Trường Đại học Văn hoá TP. Hồ Chí Minh
E-mail: phuongncs06@yahoo.com
Tóm tắt. Bài báo đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ứng dụng
phương pháp đánh giá đất của FAO trong nghiên cứu địa lí học phục vụ
chuyển đổi cơ cấu cây trồng (CCCT) ở Việt Nam trong giai đọan hiện nay.
Tác giả bài báo đã trình bày tóm tắt kết quả công trình “Nghiên cứu sự biến
động và chuyển đổi diện tích các cây công nghiệp lâu năm chủ yếu trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng”, trong đó thể hiện rõ việc vận dụng kết hợp phương
pháp đánh giá đất của FAO với các phương pháp nghiên cứu truyền thống
của địa lí học để có cơ sở đề xuất chuyển đổi diện tích các loại cây này một
cách hợp lý trên địa bàn tỉnh. Đây là một minh chứng cụ thể cho khả năng
đóng góp to lớn của địa lí học vào thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi CCCT ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1. Mở đầu
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng là một tất yếu khách quan, diễn ra trong suốt
lịch sử phát triển của nền nông nghiệp thế giới. Xác định CCCT hợp lý trên mỗi
vùng lãnh thổ trong các giai đoạn phát triển khác nhau luôn là vấn đề được các
nhà khoa học quan tâm. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, việc
làm này càng trở nên quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển nông nghiệp của
nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ở Việt Nam, từ năm 2000 đến nay, vấn đề chuyển đổi CCCT đã trở thành vấn
đề chung của toàn xã hội và thu hút sự được chú ý của nhiều nhà khoa học thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau, nhất là các nhà nông học và kinh tế học.
Trong lĩnh vực địa lí học, các kết quả nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ sản xuất
nông nghiệp, dù dưới góc độ chung (cơ cấu nông - công nghiệp trên một địa bàn)
hoặc chỉ riêng đối với trồng và chế biến một loại cây công nghiệp nào đấy (cao su,
chè, cà phê, sắn, cói, mía,...), ở mức độ nhất định, đã có giá trị tham khảo để điều
chỉnh quy mô và cơ cấu cây trồng hợp lý hơn ở các địa bàn nghiên cứu. Có thể kể
đến các luận án Tiến sĩ về trồng và chế biến cao su ở Đông Nam Bộ (Ông Thị Đan
Thanh, 1986), trồng và chế biến mía ở Đồng bằng sông Cửu Long (Phạm Xuân Hậu,
130
Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng dưới góc độ địa lí học:...
1993), trồng và chế biến sắn ở Đông Nam Bộ (Trịnh Thanh Sơn, 2004) và một số
luận văn Thạc sĩ khác.
Theo hướng tiếp cận kinh tế sinh thái, đã có một số công trình nghiên cứu
đánh giá cảnh quan phục vụ sản xuất cây công nghiệp lâu năm, chẳng hạn như:
Bước đầu nghiên cứu địa sinh thái và định hướng tổ chức sản xuất một số cây công
nghiệp dài ngày ở Việt Nam (Phạm Quang Anh và nnk, 1996) [1]; Tiếp cận kinh tế
sinh thái trong đánh giá và quy hoạch cảnh quan cây công nghiệp dài ngày (Nguyễn
Cao Huần và nnk, 2000) [3]; Một số luận án Tiến sĩ địa lí có liên quan đến hướng
tiếp cận kinh tế sinh thái phục vụ chuyển đổi cơ cấu cây lâu năm như: “Đánh giá,
phân hạng điều kiện sinh thái tự nhiên lãnh thổ trung du Quảng Trị và Thừa Thiên
- Huế cho nhóm cây công nghiệp nhiệt đới dài ngày” (Lê Văn Thăng, 1995) [8];
Nghiên cứu, đánh giá các điều kiện địa lí phục vụ phát triển cây công nghiệp dài
ngày tỉnh Đak Lak (Nguyễn Xuân Độ, 2003) [2]; Nghiên cứu, đánh giá điều kiện
sinh thái cảnh quan phục vụ định hướng phát triển cây công nghiệp dài ngày và cây
ăn quả khu vực Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn (Phạm Quang Tuấn, 2003) [9]. . .
Trong cuốn Đánh giá cảnh quan (theo tiếp cận sinh thái), Nguyễn Cao Huần
đã trình bày một số ứng dụng phương pháp đánh giá kinh tế sinh thái cảnh quan
cho cho mục đích phát triển cây trồng nông nghiệp vùng Sa Pa - tỉnh Lào Cai, cho
quy hoạch phát triển cây công nghiệp lâu năm trên vùng cồn cát ven biển Mỹ Thắng
(Phù Cát, Bình Định), cho đánh giá thích nghi các sinh thái cảnh khu vực Cư Jút
(Đắc Lắc),... [4].
Bài báo này đề cập đến khả năng ứng dụng của địa lí học vào nghiên cứu và
đề xuất chuyển đổi CCCT hợp lý theo lãnh thổ, góp phần giải quyết bài tóan về
sản xuất nông sản theo hướng hàng hóa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay ở Việt Nam.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Địa lý học nghiên cứu và đề xuất chuyển đổi hợp lý cơ cấu
cây trồng theo lãnh thổ
Chuyển đổi CCCT là một vấn đề có nội dung rất rộng. Một trong những khía
cạnh quan trọng nhất của chuyển đổi CCCT là điều chỉnh quy mô diện tích các loại
cây trồng phù hợp với tổng thể các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của mỗi
vùng sản xuất. Dưới góc độ tổ chức lãnh thổ - sản xuất nông nghiệp, các nhà địa lí
xem xét quy mô và vùng phân bố cụ thể của các loại cây trồng dựa trên sự đánh
giá toàn diện cả điều kiện tự nhiên và các điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng
đến trồng và chế biến nông sản. Tuy nhiên, theo các phương pháp truyền thống,
kết quả đánh giá các điều kiện tự nhiên phải được thể hiện bằng sự phân chia vùng
sản xuất thành các vùng sinh thái nông nghiệp. Đối với đánh giá cho cấp tỉnh, các
vùng sinh thái nông nghiệp thường có diện tích lớn hơn rất nhiều so với một đơn vị
đất đai nếu sử dụng phương pháp đánh giá đất của FAO. Việc phân chia lãnh thổ
131
Mai Hà Phương
nghiên cứu thành các vùng sinh thái nông nghiệp cũng như đánh giá đất đai theo
phương pháp của FAO chỉ là bước đầu tiên, là cơ sở tự nhiên quan trọng để đề xuất
quy mô và vùng phân bố cụ thể của từng loại cây trồng. Kết quả đề xuất có tính
khả thi hay không còn phụ thuộc vào việc đánh giá tổng hợp và xem xét toàn diện
các yếu tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sản xuất và chế biến nông sản, bao gồm:
đường lối, chính sách phát triển nông nghiệp; vốn đầu tư, khoa học công nghệ, công
nghiệp chế biến, nguồn lao động,. . . và thị trường tiêu thụ nông sản. Ngoài ra, việc
chuyển đổi CCCT còn phải đảm bảo bền vững đồng thời về cả kinh tế, xã hội và
môi trường.
2.1.1. Ứng dụng phương pháp đánh giá đất của FAO trong nghiên cứu
địa lí
a/ Cơ sở khoa học của việc ứng dụng phương pháp đánh giá đất
của FAO trong nghiên cứu địa lí
Đối với các nhà nông học, phương pháp đánh giá đất của FAO [10] được coi là
một trong số các phương pháp chủ yếu và quan trọng nhất được sử dụng để nghiên
cứu, đánh giá đất phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nước ta từ năm 1985 trở lại đây.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu địa lí, việc sử dụng phương pháp này còn khá mới mẻ
và chưa được phổ biến.
Theo các nhà khoa học, các đơn vị đất đai cũng được coi như những địa tổng
thể (không đầy đủ) [4] và các vùng sinh thái nông nghiệp chính là những đơn vị đất
đai trong đánh giá đất trên các vùng rộng lớn [5]. Nói cách khác, trong các nghiên
cứu địa lí, có thể thực hiện đánh giá các đơn vị đất đai cho các loại hình sử dụng
đất phục vụ quy họach trồng trọt cho các đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện
ở Việt Nam. Việc sử dụng phương pháp này cho phép đạt được độ tin cậy và giá trị
thực tiễn cao, bởi nó cho phép đánh giá đất theo các khoanh vi có diện tích nhỏ hơn
cấp cảnh quan hoặc vùng sinh thái nông nghiệp. Đối với một đơn vị hành chính, số
lượng các đơn vị đất đai lại có thể rất cao nếu số chỉ tiêu được lựa chọn để xây dựng
bản đồ đất đai nhiều và mức độ phân cấp của từng chỉ tiêu khá chi tiết. Chẳng hạn,
đối với tỉnh Lâm Đồng, xây dựng bản đồ đơn vị đất đai làm cơ sở cho đánh giá đất
đối với 3 loại hình sử dụng đất cây lâu năm chủ yếu (cà phê, chè, điều) đã phân
chia lãnh thổ toàn tỉnh thành 191 đơn vị đất đai [7].
Đơn vị đất đai được sử dụng làm cơ sở cho đánh giá đất đai. Đó là những vùng
đất ứng với một tập hợp nhiều yếu tố của môi trường tự nhiên (gồm thổ nhưỡng,
địa chất, địa hình, địa mạo, thủy văn, lớp phủ thực vật,. . . ) tương đối đồng nhất và
có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sử dụng đất đai. Mỗi đơn vị đất đai có chất
lượng riêng và nó thích hợp với một số loại hình sử dụng đất nhất định.
Đánh giá thích nghi đất đai có hai loại là: đánh giá thích nghi tự nhiên và
đánh giá thích nghi kinh tế, trong đó đánh giá thích nghi tự nhiên nhằm chỉ ra mức
độ thích hợp của loại hình sử dụng đất đối với các điều kiện tự nhiên mà không xét
đến các điều kiện kinh tế. Đây là yếu tố quan trọng, là cơ sở để tiến hành đánh giá
132
Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng dưới góc độ địa lí học:...
thích nghi kinh tế. Việc đề xuất điều chỉnh quy mô phát triển và phân bố các loại
cây trồng phải dựa trên cơ sở khoa học của bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý mà quan
trọng trước hết là khả năng thích nghi của cây trồng đối với các điều kiện sinh thái
của lãnh thổ.
Đánh giá thích nghi đất đai là một trong những phương pháp đánh giá thích
nghi sinh thái cho phép xác định mức độ thích hợp của đất đai đối với các loại hình
sử dụng đất trong các điều kiện cụ thể nhằm sử dụng hợp lý tiềm năng tự nhiên
của lãnh thổ. Vì thế, kết quả đánh giá đất là cơ sở quan trọng, là điều kiện tiền đề
cho việc đề xuất sử dụng đất theo hướng bền vững trong các vùng lãnh thổ.
b/ Các bước thực hiện đánh giá thích nghi đất đai
* Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai (Land Mapping Unit - LMU)
Muốn xây dựng được bản đồ đơn vị đất đai, trước hết phải lựa chọn các chỉ
tiêu về các đặc trưng đất đai phù hợp. Việc lựa chọn và phân cấp các chỉ tiêu này
dựa vào bốn căn cứ: (1) Đặc điểm tự nhiên của địa bàn nghiên cứu; (2) Yêu cầu sử
dụng của các loại hình sử dụng đất; (3) Tỉ lệ bản đồ cần thể hiện; (4) Nguồn tài
liệu có được về lãnh thổ nghiên cứu .
Căn cứ vào các chỉ tiêu đã được phân cấp, với mỗi chỉ tiêu sẽ xây dựng được
một bản đồ đơn tính. Thực hiện chồng xếp các bản đồ đơn tính này sẽ được bản đồ
các đơn vị đất đai của lãnh thổ nghiên cứu. Các khoanh đất có các đặc trưng giống
nhau sẽ thuộc về một đơn vị đất đai nhất định.
* Xác định yêu cầu sử dụng đất (Land Use Requirment - LUR)
Mỗi loại hình sử dụng đất cần được đáp ứng nhiều yêu cầu về chất lượng đất
đai, song để đánh giá đất đai trong nông nghiệp, chỉ lựa chọn những yêu cầu nào
phản ánh các đặc trưng đất đai ảnh hưởng quan trọng đến khả năng thích nghi của
loại hình sử dụng đất dự kiến bố trí trong vùng sản xuất như: nhóm đất, độ dày
tầng đất, độ dốc, lượng mưa, thời gian mưa, điều kiện tưới, thời gian ngập nước,...
Có thể đánh giá đất đai của một lãnh thổ cho nhiều loại hình sử dụng đất
(cho cả cây dài ngày và cây ngắn ngày). Tuy nhiên, đánh giá đất đai cho riêng từng
nhóm loại hình sử dụng đất (cho cây dài ngày hoặc cây ngắn ngày) sẽ có giá trị
thực tiễn cao hơn, bởi việc lựa chọn các yêu cầu sử dụng dụng đất sẽ chi tiết hơn
và phân cấp phù hợp hơn.
* Đánh giá đất đai (Land Evaluation)
Thực hiện so sánh, đối chiếu giữa chất lượng đất đai với từng yêu cầu sử
dụng đất của các loại hình sử dụng đất. Dựa trên nguyên tắc xét điều kiện hạn chế
(yếu tố có giới hạn cao nhất) để xác định mức độ thích nghi cho từng loại hình sử
dụng đất (4 cấp): S1 - thích nghi cao (Highly Suitable), S2 - thích nghi trung bình
(Moderately Suitable), S3 - ít thích nghi (Marginally Suitable) và N - không thích
nghi (Not Suitable). Kết quả đánh giá đất về tự nhiên sẽ cho biết giới hạn về tiềm
năng sinh thái của lãnh thổ nghiên cứu đối với từng loại hình sử dụng đất cụ thể.
Đó là cơ sở để đề xuất quy mô phát triển và vùng phân bố của các loại cây trồng
133
Mai Hà Phương
trên địa bàn.
2.1.2. Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây công nghiệp lâu năm (CCNLN)
ở tỉnh Lâm Đồng dưới góc độ địa lí
* Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai
Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên của tỉnh Lâm Đồng, yêu cầu sử dụng của các
loại hình sử dụng đất cây công nghiệp lâu năm chủ yếu (cà phê, chè, điều) và yêu
cầu xây dựng bản đồ ở tỷ lệ 1/100.000 (đối với cấp tỉnh), lựa chọn được 9 chỉ tiêu
(Nhóm đất, độ dày tầng đất hữu hiệu, độ sâu xuất hiện kết von, độ cao, độ dốc,
ngập lũ, điều kiện tưới, lượng mưa, thời gian mưa) và phân cấp các chỉ tiêu này để
xây dựng bản đồ đơn vị đất đai tỉnh Lâm Đồng [6].
Các bản đồ đơn tính được xây dựng trên phần mềm Mapinfo. Mỗi bản đồ đơn
tính thể hiện cho một chỉ tiêu phân cấp đã được lựa chọn. Kết quả chồng xếp các
bản đồ đơn tính đã xây dựng được bản đồ đơn vị đất đai tỉnh Lâm Đồng gồm 191
đơn vị đất đai.
* Xác định yêu cầu sử dụng đất
Đối với các loại hình sử dụng đất cà phê, chè và điều ở Lâm Đồng, đã lựa chọn
9 chỉ tiêu như trên và phân cấp thích nghi cho từng chỉ tiêu theo các mức từ N đến
S3, S2, S1 đối với từng loại hình sử dụng đất này.
* Đánh giá thích nghi đất đai
Kết quả đánh giá đất đai tỉnh Lâm Đồng cho các loại hình sử dụng đất cà
phê, chè, điều cho thấy tiềm năng đất đai thích nghi với các cây cà phê, chè là rất
lớn. Chỉ tính những diện tích có mức thích nghi từ S2 trở lên, thì có 153.870 ha cho
cà phê và 162.389 ha cho chè. Đối với cây điều chỉ có 2.588 ha ở mức thích nghi S2,
còn lại diện tích thích nghi mức S3 là rất lớn. Yếu tố hạn chế lớn nhất của đất đai
Lâm Đồng đối với tất cả các loại hình sử dụng đất cây lâu năm là độ dốc lớn. Ngoài
ra, đối với đất cà phê còn là nhóm đất và tầng dày, đối với đất chè là độ sâu xuất
hiện kết von và đá lẫn, còn đối với đất trồng điều lại là độ cao, lượng mưa và thời
gian mưa.
* Đề xuất quy mô phát triển và chuyển đổi diện tích các cây cà
phê, chè, điều
Căn cứ vào Đường lối và các chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn
của Đảng và Nhà nước; Chủ trương và định hướng phát triển CCNLN của vùng Tây
Nguyên; Chủ trương và định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn và CCNLN
của tỉnh Lâm Đồng; Hiện trạng sử dụng đất năm 2005 và kết quả đánh giá đất đai
cho phát triển các CCNLN chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng; Hiệu quả kinh tế của sản
xuất cà phê, chè và điều; Hiệu quả xã hội và môi trường của chuyển đổi diện tích
các CCNLN chủ yếu; Các nhân tố kinh tế - xã hội khác ảnh hưởng đến sự chuyển
đổi diện tích CCNLN;. . . đã đề xuất 3 mức khả thi điều chỉnh quy mô diện tích và
chuyển đổi diện tích các CCNLN chủ yếu trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (Bảng 1).
134
Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng dưới góc độ địa lí học:...
Trên cơ sở phân tích toàn diện các yếu tố tác động đến sản xuất các CCNLN
chủ yếu, căn cứ vào phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của
vùng Tây Nguyên cũng như của cả nước, đề xuất điều chỉnh quy mô diện tích cà
phê, chè và điều theo mức 3 là hợp lý và có tính khả thi cao nhất.
Bảng 1. Đề xuất qui mô diện tích cà phê, chè
và điều ở tỉnh Lâm Đồng theo các mức khả thi
đến năm 2020 (đơn vị: ngàn ha) [7]
Loại hình Vùng Hiện trạng
Các mức khả thi
sử dụng đất năm 2005 1 2 3
Cà Phê Tổng diện tích 117,5 78,2 86,8 86,8
S1 + S2 54,6 61,0 61,0 61,0
S3 20,4 17,2 25,8 25,8
N 42,6 0,0 0,0 0,0
Chè Tổng diện tích 25,5 21,7 21,9 25,1
S1 + S2 15,5 19,5 19,5 19,5
S3 2,5 2,2 2,4 2,4
N 7,5 0,0 0,0 3,2
Điều Tổng diện tích 11,8 3,6 13,9 14,0
S1 + S2 0,0 0,0 0,0 0,0
S3 4,8 3,6 9,8 9,8
N 7,0 0,0 4,1 4,2
Để đảm bảo bố trí các vùng trồng cà phê, chè và điều trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng đến năm 2020 theo đề xuất trên, phải chuyển 37,6 ngàn ha từ đất khác sang
trồng các loại cây này, đồng thời chuyển 66,6 ngàn ha đất đang trồng các loại cây
này tại thời điểm năm 2005 sang đất khác. Như vậy, nếu theo kế hoạch chuyển đổi
này thì đến năm 2020 sẽ giảm 30,7 ngàn ha cà phê, giảm 0,5 ngàn ha chè và tăng
2,2 ngàn ha điều so với năm 2005 [7]. Sở dĩ phải thực hiện chu chuyển sử dụng đất
như vậy là do sự mở rộng quy mô diện tích và vùng phân bố các loại các loại cây
này trong giai đọan 1995-2005 không phù hợp với khả năng thích nghi đất đai và
điều kiện kinh tế, xã hội của các vùng trong tỉnh.
Việc chuyển đổi diện tích từng loại cây trồng được tính toán và đề xuất cụ thể
cho từng xã và huyện của tỉnh. Kết quả đề xuất điều chỉnh quy mô và vùng phân
bố các cây CNLN chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng được thể hiện trực quan trên bản đồ tỉ
lệ 1/100.000 (các bản đồ trong bài báo này chỉ là trích mảnh để minh họa cho vùng
tập trung chủ yếu cà phê, chè và điều).
- Đề xuất quy mô diện tích và chuyển đổi cây cà phê:
Căn cứ vào tiềm năng đất đai và các điều kiện cho sản xuất cà phê, đề xuất
quy mô diện tích cà phê tối ưu ở tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020 nên ở mức 86-87
ngàn ha, tập trung chủ yếu ở các huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lâm, Đức Trọng và
Thị xã Bảo Lộc (Bảng 2).
Để có thể bố trí sản xuất theo quy mô như trên, ngoài việc chuyển hơn 9 ngàn
135
Mai Hà Phương
ha cà phê trên các vùng thích nghi S1 và S2 cho các mục đích khác theo quy hoạch
đã phê duyệt, đề nghị chuyển đổi diện tích cà phê đến năm 2020 như sau:
+ Chuyển toàn bộ 42,5 ngàn ha cà phê đang trồng trên vùng không thích nghi
của năm 2005 sang đất khác, gồm: 12 ngàn ha ở Lâm Hà, hơn 10 ngàn ha ở Di Linh,
10 ngàn ha ở Bảo Lâm, 3 ngàn ha ở Đức Trọng, 2 ngàn ha ở Bảo Lộc và hơn 5 ngàn
ha ở một số xã thuộc Đà Lạt, Lạc Dương, Đam Rông và Đơn Dương.
Bảng 2. Đề xuất qui mô diện tích cà phê ở tỉnh Lâm Đồng
đến năm 2020 theo đơn vị hành chính (đơn vị: ngàn ha) [7]
Mức thích Diện
Đơn vị hành chính
nghi tích
đất đai Đà
Lạt
Bảo
Lộc
Bảo
Lâm
Đạ
Huoai
Đam
Rông
Đạ
Tẻh
Di
Linh
Đơn
Dương
Đức
Trọng
Lâm
Hà
S1 + S2 61,0 0,1 3,1 9,0 1,5 0,9 17,0 0,8 5,9 22,7
S3 25,8 0,6 1,0 8,7 0,1 0,7 9,6 1,8 3,3
Tổng DT 86,8 0,7 4,1 17,7 0,1 2,2 0,9 26,6 0,8 7,7 26,0
+ Trồng mới 15,6 ngàn ha cà phê trên các vùng thích nghi mức S1 và S2 từ
đất khác chuyển sang thuộc các huyện Lâm Hà (hơn 8 ngàn ha), Đức Trọng (2,6
ngàn ha), Di Linh (2 ngàn ha), Đam Rông (1 ngàn ha) và khoảng 2 ngàn ha ở một
số xã của Đạ Tẻh, Bảo Lâm và Đơn Dương.
+ Trồng mới thêm 8,6 ngàn ha trên các vùng ít thích nghi ở các huyện Bảo
Lâm (4 ngàn ha), Di Linh (2,6 ngàn ha), và khoảng 2 ngàn ha ở các huyện Đức
Trọng, Lâm Hà và Đam Rông.
- Đề xuất quy mô diện tích chè: Kết quả nghiên cứu cho thấy, đến năm 2020
chỉ nên ổn định diện tích chè khoảng 25 ngàn ha, tương đương với diện tích chè năm
2005. Vùng chè chuyên canh vẫn tập trung chủ yếu ở Bảo Lâm, Bảo Lộc, Di Linh
và Lâm Hà (Bảng 3).
Bảng 3. Đề xuất qui mô diện tích chè
ở tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020
theo đơn vị hành chính (đơn vị: ngàn ha) [7]
Mức thích Diện
Đơn vị hành chính
nghi tích
đất đai Đà
Lạt
Bảo
Lộc
Bảo
Lâm
Đạ
Tẻh
Di
Linh
Đức
Trọng
Lâm
Hà
S1 + S2 19,5 4,5 11,3 0,1 1,6 0,7 1,3
S3 2,4 0,5 0,7 1,1 0,1
N 3,2 3,2
Tổng DT 25,1 0,5 8,4 12,4 0,1 1,7 0,7 1,3
Để có thể bố trí địa bàn trồng chè hợp lý theo quy mô diện tích đã đề xuất,
136
Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng dưới góc độ địa lí học:...
Hình 1. Trích mảnh bản đồ định hướng phân bố cây cà phê
và cây chè ở tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020 [7]
ngoài việc chuyển gần 3 ngàn ha chè trên vùng S1 và S2 cho các mục đích khác,
phải chuyển đổi diện tích chè đến năm 2020 như sau:
+ Chuyển sang đất khác hơn 4 ngàn ha chè trên vùng không thích nghi. Diện
tích này chủ yếu thuộc huyện Bảo Lâm (3,4 ngàn ha).
+ Chuyển 350 ha chè trên vùng ít thích nghi thuộc Bảo Lâm, Bảo Lộc, Lâm
Hà, Đà Lạt và Đức Trọng sang đất khác.
+ Trồng mới 6,8 ngàn ha chè trên các vùng thích nghi mức S1 và S2 từ đất
khác chuyển sang thuộc các huyện Bảo Lâm (5,3 ngàn ha), Lâm Hà (0,9 ngàn ha),
Đức Trọng (0,6 ngàn ha).
Ngoài ra, mở rộng thêm khoảng 200 ha chè trên vùng ít thích nghi từ đất khác
chuyển sang, thuộc Đà Lạt và Bảo Lâm.
- Đề xuất quy mô diện tích điều:
Qua nghiên cứu cho thấy, đến năm 2020, có thể mở rộng tối đa vùng điều lên
khoảng 14 ngàn ha, nhưng trong đó có hơn 4 ngàn ha trên vùng không thích nghi
của năm 2005 vẫn được giữ lại, không chuyển sang đất khác (Bảng 4).
137
Mai Hà Phương
Bảng 4. Đề xuất qui mô diện tích điều
ở tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020
theo đơn vị hành chính (đơn vị: ngàn ha) [7]
Mức thích nghi Diện tích
Đơn vị hành chính
đất đai Cát
Tiên
Bảo
Lâm
Đạ
Huoai
Đam
Rông
Đạ
Tẻh
S3 9,8 2,5 0,9 4,1 1,3 1,0
N 4,2 0,7 0,1 2,1 0,6 0,7
Tổng DT 14,0 3,2 1,0 6,2 1,9 1,7
Hình 2. Trích mảnh bản đồ định hướng phân bố cây điều
ở tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020 [7]
Để bố trí trồng điều theo quy mô diện tích đã đề xuất, cần phải chuyển đổi
138
Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng dưới góc độ địa lí học:...
diện tích điều trên các địa bàn như sau:
- Chuyển 2,8 ngàn ha điều trên vùng không thích nghi cho các mục đích khác,
bao gồm: 1,4 ngàn ha ở Đạ Huoai, 0,8 ngàn ha ở Đạ Tẻh, còn lại ở Cát