Nghiên cứu lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán

1. Mở đầu 1.1. Giới thiệu chung Tiếng Hán là một ngôn ngữ được đông đảo mọi người sử dụng. Việc học tiếng Hán đã và đang trở thành một trào lưu trên thế giới. Ở Việt Nam cũng vậy, số người học tiếng Hán ngày càng nhiều. Do sự giao lưu về văn hóa và ngôn ngữ của hai nước Việt Nam và Trung Quốc có lịch sử trên hai nghìn năm, nên sinh viên Việt Nam khi tiếp xúc với tiếng Hán sẽ có những thuận lợi nhất định. Tuy nhiên khi học tiếng Hán sinh viên Việt Nam cũng gặp phải một số khó khăn: từ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp đến tu từ. Bài nghiên cứu này sẽ tập trung nghiên cứu về những lỗi sai thường gặp của sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán, phần được đánh giá là rất phức tạp trong ngữ pháp tiếng Hán. Tác giả sẽ tiến hành khảo sát đối tượng là những sinh viên đang học tiếng Hán trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM), sau đó tiến hành tổng hợp và phân tích để đưa ra cái nhìn toàn cảnh về tình hình học và hiểu câu ghép của sinh viên TP HCM nói riêng và sinh viên Việt Nam nói chung.

pdf12 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 179 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 120 NGHIÊN CỨU LỖI SAI CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM KHI HỌC TẬP CÂU GHÉP TIẾNG HÁN Huỳnh Bích Ngọc (SV năm 4, Khoa Trung văn) GVDH: TS Phạm Thanh Hằng 1. Mở đầu 1.1. Giới thiệu chung Tiếng Hán là một ngôn ngữ được đông đảo mọi người sử dụng. Việc học tiếng Hán đã và đang trở thành một trào lưu trên thế giới. Ở Việt Nam cũng vậy, số người học tiếng Hán ngày càng nhiều. Do sự giao lưu về văn hóa và ngôn ngữ của hai nước Việt Nam và Trung Quốc có lịch sử trên hai nghìn năm, nên sinh viên Việt Nam khi tiếp xúc với tiếng Hán sẽ có những thuận lợi nhất định. Tuy nhiên khi học tiếng Hán sinh viên Việt Nam cũng gặp phải một số khó khăn: từ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp đến tu từ. Bài nghiên cứu này sẽ tập trung nghiên cứu về những lỗi sai thường gặp của sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán, phần được đánh giá là rất phức tạp trong ngữ pháp tiếng Hán. Tác giả sẽ tiến hành khảo sát đối tượng là những sinh viên đang học tiếng Hán trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM), sau đó tiến hành tổng hợp và phân tích để đưa ra cái nhìn toàn cảnh về tình hình học và hiểu câu ghép của sinh viên TP HCM nói riêng và sinh viên Việt Nam nói chung. 1.2. Lí do chọn đề tài Trong suốt quá trình học tập môn Hán ngữ hiện đại, khi học đến phần câu ghép trong tiếng Hán, tôi cũng như các bạn sinh viên khác hầu như đều rất băn khoăn, ai ai cũng ái ngại khi học phần này vì thấy nó khá phức tạp. Có lẽ vì tâm lí đó mà nhiều sinh viên đã không chú tâm khi học phần câu ghép, dù nó là một phần rất quan trọng, quyết định đến khả năng sử dụng tiếng Hán một cách thuần thục trong cả văn nói và văn viết. Để bản thân và những sinh viên khác có một cái nhìn toàn diện về câu ghép trong tiếng Hán, cũng như biết cách khắc phục những lỗi sai thường gặp về điểm ngữ pháp này, tôi đã chọn đề tài “Nghiên cứu lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi học tập câu ghép tiếng Hán”. Với nghiên cứu này, tôi hi vọng có thể góp phần nhỏ cho việc hiểu và sử dụng câu ghép tiếng Hán một cách chuẩn xác, và có thể coi đây là một tài liệu hữu ích cho những người quan tâm nghiên cứu vấn đề này. 1.3. Ý nghĩa nghiên cứu 1.3.1. Ý nghĩa lý luận Quá trình tìm hiểu và tổng hợp các tư liệu liên quan đến câu ghép tiếng Hán đã giúp tác giả có cái nhìn khái quát về câu ghép tiếng Hán, có sự so sánh giữa câu ghép tiếng Hán và câu ghép tiếng Việt. Việc thực hiện bài nghiên cứu này không chỉ giúp tác giả có cơ hội tập dượt làm nghiên cứu, tiếp cận và trình bày một vấn đề có tính chất hàn lâm, mà còn mở rộng tầm nhìn về lĩnh vực nghiên cứu. Khi nghiên cứu vấn đề này, tác giả có cơ hội để áp dụng các kiến thức đã học một cách hiệu quả, tiếp thu kiến thức Năm học 2010 – 2011 121 từ những nguồn khác nhau để đánh giá và hoàn thiện kiến thức của bản thân liên quan đến câu ghép tiếng Hán. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn Nghiên cứu này có thể cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về câu ghép trong tiếng Hán. Ngoài ra, nó còn là tài liệu tham khảo hữu ích trong công việc phiên dịch giữa tiếng Hán và tiếng Việt. Thông qua việc tìm hiểu, phân tích một số lỗi sai thường gặp và gợi ý những cách khắc phục, tác giả có thể giúp người học vận dụng câu ghép tiếng Hán trong khẩu ngữ cũng như trong văn viết một cách hiệu quả. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Tổng hợp tư liệu, - Khảo sát thực tế, - Phân tích dữ liệu khảo sát. 2. Mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của bài nghiên cứu này là tìm ra những lỗi sai mà sinh viên thường mắc phải khi học tập và vận dụng câu ghép trong tiếng Hán. Những lỗi sai này đã trở thành những lỗi sai có hệ thống, sinh viên rất hay phạm phải và thường không nhận ra được. 2.2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Tác giả đã khảo sát hơn 300 sinh viên của các trường đại học có chuyên ngành tiếng Hán trên địa bàn TP HCM. Bài khảo sát được thực hiện vào tháng 11 và 12 năm 2010, số bài khảo sát được phát ra cho 4 trường đại học là 350 bài, số bài thực tế thu về là 327, đạt 93%, số bài khảo sát đạt yêu cầu là 300, đạt 92%. Về đối tượng cụ thể, xin quan sát số liệu dưới đây: Đối tượng khảo sát Niên cấp Số lượng Đại học Sư phạm TP HCM 2, 3, 4 114 Đại học Tôn Đức Thắng 3 30 Đại học KHXH&NV TP HCM 3 41 Đại học Mở TP HCM 4, 5 76 3. Sơ lược về câu ghép tiếng Hán 3.1. Khái niệm Câu ghép là câu do hai phân câu trở lên có quan hệ mật thiết về ý nghĩa và có kết cấu không bao hàm lẫn nhau tổ hợp thành gọi là câu ghép (复句由两个或两个以上意义相关,结构上互不包含的分句组成) [7, tr. 217]. Ví dụ: ™ 他既是好同志,又是好朋友。 (Anh ấy vừa là người đồng chí tốt, vừa là người bạn tốt.) Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 122 ™ 我的决定不是一时的冲动,而是经过仔细的考虑。 (Quyết định của tôi không phải là sự kích động nhất thời, mà là đã thông qua sự suy nghĩ cẩn thận.) 3.2. Phân loại 3.2.1. Câu ghép quan hệ liên hợp (联合关系复句) Câu ghép quan hệ liên hợp là câu ghép mà quan hệ giữa các phân câu trong câu ghép là quan hệ liên hợp, giữa các phân câu không phân biệt chính phụ. Vì giữa các phân câu có nhiều mối quan hệ khác nhau, nên nó có thể chia thành mấy loại cụ thể sau [7, tr. 222]: - Câu ghép song song (并列复句), - Câu ghép liên quán (连贯复句或承接复句), - Câu ghép giải thích (解说复句), - Câu ghép lựa chọn (选择复句), - Câu ghép tăng tiến (递进复句). 3.2.2. Câu ghép quan hệ chính phụ (偏正关系复句) Câu ghép chính phụ là câu ghép mà các phân câu có quan hệ chính và phụ với nhau.Vì giữa các phân câu có nhiều mối quan hệ khác nhau, nên nó có thể chia thành mấy loại cụ thể sau [7, tr. 224]: - Câu ghép chuyển ngoặt (转折复句), - Câu ghép điều kiện (条件复句), - Câu ghép giả thiết (假设复句), - Câu ghép nhân quả (因果复句), - Câu ghép mục đích (目的复句). 4. Những thuận lợi và khó khăn của sinh viên Việt Nam khi học ngữ pháp (câu) tiếng Hán 4.1. Thuận lợi 4.1.1. Về phương thức ngữ pháp Tiếng Việt và tiếng Hán đều là ngôn ngữ phân tích tính, cho nên nếu xét về phương thức ngữ pháp thì cả hai chủ yếu dùng phương thức hư từ và trật tự từ. [2, tr. 71]. Phương thức hư từ Vì tiếng Việt và tiếng Hán đều ít có phụ tố nên phương thức hư từ có vai trò đặc biệt quan trọng. Hai ngôn ngữ này có một hệ thống hư từ phong phú để đảm nhiệm chức năng biểu thị các ý nghĩa ngữ pháp như sở hữu, đối tượng tiếp nhận, điểm đến, điểm xuất phát... Điều này cho thấy khi sinh viên Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi khi tiếp xúc với hư từ tiếng Hán. Năm học 2010 – 2011 123 Ví dụ: Tiếng Việt và tiếng Hán có thể biểu đạt quan hệ sở hữu bằng giới từ “của” và trợ từ“的”. Phương thức trật tự từ Trong tiếng Việt và tiếng Hán, vị trí của từ trong câu do chức năng ngữ pháp, ý nghĩa ngữ pháp của nó quy định [2, tr. 71]. Ví dụ: Các câu ví dụ trên có ý nghĩa khác nhau do trật tự từ của chúng khác nhau. 4.1.2. Về đặc điểm của từ loại Danh từ Danh từ tiếng Việt và tiếng Hán đều không chia theo số nhiều hay số ít như tiếng Anh, danh từ chỉ được xác định dựa vào khả năng kết hợp với từ chỉ định (này, nọ, ấy, kia) hoặc khả năng kết hợp với từ chỉ lượng (mấy, vài, một, dăm, hai...). Ví dụ: Động từ Trong các ngôn ngữ biến hình, động từ có khả năng biến đổi hình thái theo ngôi, thì, thái... còn trong tiếng Việt và tiếng Hán thì động từ không có khả năng biến hình. Ví dụ: Tiếng Hán Tiếng Việt 我的妈妈 mẹ của tôi 他的书 sách của anh ta Tiếng Hán Tiếng Việt 我打他。 Tôi đánh nó. 他打我。 Nó đánh tôi. Tiếng Hán Tiếng Việt 那个帽子 cái nón đó 几个人 vài người Tiếng Hán Tiếng Việt 走了 đi rồi 没唱 chưa hát Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 124 Tiếng Hán và tiếng Việt đều là ngôn ngữ phân tích tính, thiếu các tiêu chí rõ ràng xác định từ loại và không có sự biến hình của từ. Tiếng Hán và tiếngViệt cũng có những cách phân loại từ gần giống nhau: hư từ, thực từ và các loại từ cụ thể. Vị trí của từ trong câu quyết định chức năng ngữ pháp của nó. Ranh giới giữa các từ loại không rõ ràng nên về từ pháp và cú pháp có nhiều điểm tương đồng. Những điểm tương đồng này tạo nên nhiều thuận lợi cho sinh viên Việt Nam khi học tập ngữ pháp tiếng Hán nói chung và học tập câu ghép nói riêng. 4.2. Khó khăn 4.2.1. Chữ viết và từ vựng Về mặt chữ viết Chữ viết của tiếng Hán và chữ viết của tiếng Việt hiện đại được cấu tạo theo hai nguyên tắc cơ bản khác nhau. Chữ viết Trung Quốc là một thứ chữ viết “đồ hoạ”, tượng hình biểu ý, chữ viết Việt Nam là chữ viết theo lối phiên âm latinh. Ở phương diện này mối quan hệ tương đồng gần như không có. Người Việt Nam vốn chỉ quen với hệ thống chữ latinh nên việc làm quen với chữ Hán là một việc hết sức khó khăn. Hơn nữa chữ Hán có kết cấu phức tạp, nhiều nét, dễ gây nhầm lẫn, các chữ chỉ cần nhiều hay ít hơn một nét, các nét chỉ cần không chuẩn xác là có thể trở thành chữ khác. Ví dụ: “未——末”(未wèi – vị: chưa), (末 mò - mạt: cuối) “酒——洒”(酒jiǔ – tửu: rượu), (洒 sǎ – sái: vẩy, rắc) Về mặt từ vựng Từ vựng tiếng Hán phong phú. Giới hạn từ loại không xác định, hiện tượng chuyển hoá từ loại tương đối phổ biến. Mỗi loại có quá nhiều nghĩa, có khi còn có nhiều cách đọc, ngược lại một “con chữ” tiếng Việt chỉ có một âm đọc duy nhất. Do vậy, trong quá trình học tập tiếng Hán, sinh viên Việt Nam khó quen với sự đa nghĩa và đa từ loại của từ, và cũng sẽ gặp khó khăn khi thực hiện các thao tác chuyển dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt và ngược lại. Ví dụ: Từ更có 2 âm đọc là “gēng” và “gèng”, 2 âm này cùng có âm Hán Việt là “canh”. Với mỗi cách đọc thì từ 更lại có nhiều nghĩa khác nhau như sau: Năm học 2010 – 2011 125 Những khó khăn về mặt chữ viết và từ vựng này cũng ảnh hưởng nhiều đến khả năng nắm vững ngữ pháp của sinh viên Việt Nam. 4.2.2. Đoản ngữ và câu Đoản ngữ Trong ngữ chính phụ của tiếng Hán, thành phần phụ luôn đứng trước thành phần chính, còn ngữ chính phụ của tiếng Việt thì thành phần phụ có thể đứng trước hoặc đứng sau thành phần chính. Điều này gây ra nhiều lỗi sai của sinh viên khi dùng cấu trúc trong tiếng Việt áp dụng cho cấu trúc tiếng Hán. Xin tham khảo bảng sau đây về sự khác biệt trong vị trí của trạng ngữ và định ngữ của tiếng Việt và tiếng Hán. Nội dung Tiếng Hán Tiếng Việt Vị trí định ngữ Luôn đứng trước trung tâm ngữ. Ví dụ: 黑猫 Luôn đứng sau trung tâm ngữ. Ví dụ:con mèo đen Vị trí trạng ngữ Luôn đứng trước trung tâm ngữ. Ví dụ: 在家吃饭 Có thể đứng tự do ở nhiều vị trí khác nhau. Ví dụ: ăn cơm ở nhà, ở nhà ăn cơm Câu Một trong những điểm khác biệt dễ thấy của câu trong tiếng Việt và tiếng Hán là về vị trí của từ ngữ nối trong câu ghép. Bởi vì trong tiếng Việt trong cấu tạo các loại câu ghép thì các cặp từ nối bao giờ cũng xuất hiện ở trước chủ ngữ mỗi vế. Trong tiếng Hán thì khác hẳn, các cặp từ nối có thể xuất hiện trước hoặc sau chủ ngữ mỗi vế tùy vào từng trường hợp. Để hình dung sự khác nhau này, ta có thể phân tích như sau: Trường hợp Tiếng Hán Tiếng Việt Nếu hai vế cùng chủ ngữ Vị trí từ ngữ nối linh hoạt. Ví dụ: ○1你如果不想去,你就不要去。 ○2如果你不想去,你就不要去。 Từ ngữ nối đứng trước chủ ngữ. Ví dụ: Nếu anh không muốn đi thì anh không cần phải đi. Nếu hai vế khác chủ ngữ Từ ngữ nối đứng trước chủ ngữ. Ví dụ:如果你不去,我就不去。 Từ ngữ nối đứng trước chủ ngữ. Ví dụ:Nếu anh không đi thì tôi cũng không đi Những khó khăn này đều ảnh hưởng đến khả năng nắm vững ngữ pháp cũng như câu ghép tiếng Hán của sinh viên Việt Nam. 5. Kết quả khảo sát 5.1. Kết quả chung Điểm cao nhất của mỗi bài khảo sát là 40, và kết quả khảo sát thu được như sau: Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 126 Điểm số <20 điểm 20 – 29 điểm 30 – 40 điểm Tổng số bài khảo sát 300 Số lượng (bài) 19 144 137 Tỷ lệ (%) 6 48 46 Theo thống kê ở trên, có thể thấy được mức độ hiểu về câu ghép của sinh viên như sau: 46% có điểm số trên 30, đây là mức độ của những sinh viên có khả năng nắm vững và vận dụng câu ghép. 48% có điểm số từ 20 đến 30, phần này chiếm tỷ lệ cao nhất, đây là mức độ của những sinh viên có thể vận dụng câu ghép nhưng vẫn chưa hiểu rõ về câu ghép. Còn 6% có điểm số dưới 20, đây là mức độ của những sinh viên không hiểu rõ về câu ghép, không thể vận dụng câu ghép chính xác. Từ đó có thể thấy tỉ lệ sinh viên Việt Nam hiểu và vận dụng câu ghép tiếng Hán một cách chính xác không cao. 5.2. Phân loại những lỗi sai liên quan đến câu ghép Phân loại Không phân biệt được câu đơn và câu ghép Hiểu sai định nghĩa câu ghép Phân loại sai câu ghép Dùng từ ngữ nối không chính xác Dịch sai câu ghép tiếng Việt sang tiếng Hán Số bài khảo sát 300 300 300 300 300 Số bài sai 278 269 263 183 104 Tỷ lệ (%) 93 90 88 61 35 Thực trạng khảo sát các loại lỗi sai trong câu ghép tiếng Hán của sinh viên Việt Nam Trong 300 bài khảo sát, chỉ có 7% trả lời đúng cả năm câu liên quan đến việc phán đoán phân biệt đâu là câu đơn và đâu là câu ghép, 10% trả lời được đúng về định nghĩa câu ghép, 12% chọn đúng cả năm câu liên quan đến việc phân loại câu ghép, Năm học 2010 – 2011 127 39% điền đúng từ ngữ nối ở năm câu ghép, và 65% dịch đúng 5 câu ghép tiếng Việt thành tiếng Hán. 5.2.1. Không phân biệt được câu đơn và câu ghép Từ kết quả nghiên cứu ta có thể thấy 2 điểm: Thứ nhất: Khả năng phân biệt câu đơn và câu ghép của những sinh viên được khảo sát không cao, với tỷ lệ sai 40%. Đây cũng là tình hình chung của người học tiếng Hán khi ít chú trọng đến việc nắm vững sự khác nhau giữa câu đơn và câu ghép. Thứ hai: Đối với những câu tương đối dài, sinh viên thường nhận định đó là câu ghép, bởi vì sinh viên thường có một lối tư duy đó là: câu ghép là câu dài và phức tạp, câu đơn là câu ngắn gọn và đơn giản. Điều này cũng là nguyên nhân dẫn đến lỗi sai này. 5.2.2. Hiểu sai định nghĩa câu ghép Bài khảo sát cho phép người được khảo sát trả lời câu hỏi này bằng cả tiếng Việt và tiếng Hán. Một điểm chung nhất trong 180 bài khảo sát trả lời bằng tiếng Việt là có 164 bài (chiếm 91%) dịch “复句” là “câu phức”, chỉ có 16 bài (chiếm 9%) dịch là “câu ghép”. Việc dịch “复句” thành “câu phức” rất dễ gây nhầm lẫn, bởi vì trong tiếng Việt và tiếng Hán đều có câu ghép và câu phức, và “复句” của tiếng Hán tương đương với “câu ghép” của tiếng Việt. Một khi người học không nắm vững sự khác nhau giữa câu ghép và câu phức thì việc vận dụng sai là điều tất yếu. 5.2.3. Phân loại sai câu ghép Những câu ghép bị nhầm lẫn với nhau với tỷ lệ trên 20% bao gồm: - Câu ghép giả thuyết(假设复句) - câu ghép song song (假设复句), - Câu ghép song song (并列复句) - câu ghép tăng tiến (递进复句), - Câu ghép giải thích (解说复句) - câu ghép chuyển ngoặt (转折复句), - Câu ghép giải thích (解说复句) - câu ghép nhân quả (因果复句), - Câu ghép nhân quả (因果复句) - câu ghép điều kiện (条件复句). 5.2.4. Dùng từ ngữ nối không chính xác Những lỗi liên quan đến từ ngữ nối bao gồm: Lỗi sai Số lượt khảo sát Lượt sai Tỷ lệ(%) Từ ngữ nối phối hợp không thích đáng 210 98 47 Không hợp logic 210 28 13 Vị trí từ ngữ nối không thích đáng 210 54 26 Lỗi chính tả từ ngữ nối 210 30 14 Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 128 5.2.5. Dịch sai câu ghép tiếng Việt và tiếng Hán Việc dịch từ câu ghép tiếng Hán thành câu ghép tiếng Việt hầu như không gây nhiều khó khăn đối với sinh viên Việt Nam, bởi vì người học đã quen với cấu trúc của câu ghép tiếng Việt và sử dụng hàng ngày, nên lỗi sai ở đây chủ yếu tập trung ở việc dịch từ tiếng Việt thành tiếng Hán. 6. Đề xuất, kết luận Việc học tập ngữ pháp của một ngôn ngữ luôn nhận được những ý kiến khác nhau từ người học. Một số người học hứng thú với việc tìm ra những qui luật ngữ pháp và làm nhiều bài tập ngữ pháp, bởi vì họ cho rằng ngữ pháp rất quan trọng, nó giúp cho việc diễn đạt trở nên chính xác và hoàn thiện hơn. Song song đó cũng có người không thích học ngữ pháp vì cho rằng nó tẻ nhạt và không cần thiết, chỉ cần có thể ghép các từ thành câu là được. Dù là thích hay không thích thì ngữ pháp vẫn là một phần không thể thiếu trong ngôn ngữ. Trong bài khảo sát có một câu hỏi là: “Theo bạn làm thế nào có thể học tốt câu ghép tiếng Hán?”, trong 300 bài khảo sát thì có đến 182 ý kiến (chiếm 61%) cho rằng cần phải luyện tập nhiều, nhưng việc luyện tập này phải có phương pháp thì mới có hiệu quả được. 6.1. Đề xuất Xuất phát từ vấn đề làm thế nào để học tốt ngữ pháp cũng như câu ghép tiếng Hán, tác giả có những đề xuất cho vấn đề này như sau: 6.1.1. Về việc học ngữ pháp - Bước một: Lên kế hoạch. Có cái nhìn tổng quát về từng điểm ngữ pháp, chú ý đến ngữ pháp ngay từ khi bắt đầu tiếp xúc với tiếng Hán, ghi chú những đặc điểm ngữ pháp quan trong và lên kế hoạch học từng phần trong vài ngày. - Bước hai: Nhận dạng những lỗi thường gặp của từng điểm ngữ pháp. Những người nói cùng một ngôn ngữ thường mắc những lỗi giống nhau. Tìm ra những lỗi ngữ pháp mà mọi người thường mắc phải để chú ý hơn tới những lỗi ngữ pháp này, tiến tới việc sử dụng một cách chính xác ngữ pháp. - Bước ba: Tìm bài tập ngữ pháp. Để học tốt ngữ pháp, cần luyện tập cho tới khi có thể sử dụng dễ dàng. Tìm kiếm một cuốn sách bài tập ngữ pháp có cả phần đáp án. Các hoạt động trực tuyến và đố vui cũng có thể trợ giúp được. Mỗi lần chỉ tập trung vào 1 phần ngữ pháp nhất định - Bước bốn: Chú ý tới ngữ pháp khi đọc tiếng Hán. Khi học ngữ pháp, sẽ là chưa đủ nếu chỉ hiểu được ý chính về những gì đọc được. Cần phải hiểu chính xác tại sao câu lại được viết như vậy. Khi đọc một câu văn, hãy tự hỏi liệu bạn có thể viết câu tương tự như vậy không. Nếu không thể hoặc không chắc chắn, hãy tìm những cuốn sách về những phần ngữ pháp và luyện tập. - Bước năm: Dịch từ ngôn ngữ của tiếng Việt sang tiếng Hán. Như vậy, sẽ tránh những phần ngữ pháp phức tạp khi viết hoặc nói lên suy nghĩ của mình. Khi dịch thì sẽ Năm học 2010 – 2011 129 phải làm việc với tất cả những gì xuất hiện trên trang giấy, kể cả những phần ngữ pháp khó. Bắt đầu dịch những thứ đơn giản như các câu đơn giản thường gặp hàng ngày,sau đó chuyển sang dịch những câu phức tạp hơn trong văn viết. - Bước sáu: Tìm sự giúp đỡ của người bản ngữ. Nếu quen biết người bản ngữ nào, hãy nhờ họ kiểm tra bài viết của mình. Nếu không, cũng có thể tìm kiếm các diễn đàn học tiếng Hán trên mạng hoặc những trang web trao đổi ngôn ngữ. 6.1.2. Về việc rèn luyện câu ghép tiếng Hán Cách rèn luyện câu ghép cũng giống như cách rèn luyện ngữ pháp, nhưng sẽ có một số phần cần chú ý riêng cho phần này, đó là: Phân biệt rõ câu đơn, câu phức và câu ghép Loại câu Câu đơn Câu phức Câu ghép Định nghĩa Câu đơn là câu chỉ có một cụm chủ vị nòng cốt [1, tr. 289]. Dạng câu là một bộ phận nằm bên trong một câu, hay bị bao bên trong một câu [1, tr. 289]. Mỗi dạng câu có tính độc lập tương đối, và chúng ghép lại với nhau, không câu nào bao câu nào [1, tr. 289]. Ví dụ 我们很开心。 (Chúng tôi rất vui.) 他是教我的老师。 (Ông ấy là giáo viên dạy chúng tôi.) 他是老师,我是学生。 (Ông ấy là giáo viên, tôi là học sinh.) Sử dụng từ ngữ nối chính xác Người học nên tìm hiểu những từ ngữ nối hay dùng, xem chúng thuộc loại câu ghép nào, khi sử dụng phải đặt ở vị trí nào. Chú ý những từ ngữ nối có cách đọc hoặc cách viết gần giống nhau để không bị nhầm lẫn khi sử dụng. Phân biệt rõ từng loại câu ghép Mỗi loại câu ghép có những mối quan hệ khác nhau và việc phân chia các loại câu ghép cũng không thống nhất, cho nên người học phải chú ý đến điểm này. Chú ý đến quan hệ logic giữa các phân câu Cần phải chú ý đến quan hệ logic giữa các phân câu để sắp xếp hợp lí các phân câu và cũng là để dùng từ ngữ nối một cách phù hợp. Chú ý sự khác nhau giữa khẩu ngữ và văn viết Văn nói là lời ăn tiếng nói hàng ngày, là khẩu ngữ. Người ta nghĩ sao, nói vậy, tuỳ văn cảnh, tuỳ đối tượng và tuỳ theo trạng thái tâm lý, cảm xúc của họ. Văn nói dễ hiểu, gần gũi với đời thường, phù hợp với tính cách người nói và trình độ người nghe. Khác với văn nói, văn viết mang tinh chất hành chính hoặc báo chí nên cách viết phải bảo đảm tính khúc chiết, trong sáng, mạch lạc, tiết kiệm