Tóm t t. Tục ngữ là một dạng ngôn ngữ súc tích,
mang nhiều đặc trưng riêng và được ví như “di sản văn
hóa tinh thần” của mỗi dân tộc về mặt trí tuệ, tình cảm
và nghệ thuật biểu hiện trong các hoạt động từ vật chất
đến tinh thần. Với ngôn từ giản đơn, diễn đạt ngắn gọn,
có vần điệu và giàu sắc thái biểu cảm nên tục ngữ luôn
được sử dụng và lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Mục đích của bài viết là cung cấp một nghiên cứu
có hệ thống về các phương tiện ngôn ngữ biểu thị mối
quan hệ so sánh của tục ngữ tiếng Việt và tiếng Anh.
Từ đó làm sáng tỏ thêm nét đặc sắc của ngôn ngữ hai
dân tộc trong sử dụng phương tiện diễn đạt liên quan
đến quan hệ so sánh. Trên thực tế, kết quả nghiên cứu
sẽ giúp cho sinh viên tiếng Anh có cái nhìn sâu sắc về
các phương tiện ngôn ngữ thể hiện quan hệ so sánh
của tục ngữ tiếng Anh cũng như của tiếng mẹ đẻ nhằm
làm phong phú thêm vốn từ vựng và có sự hiểu biết tốt
hơn về ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa của ngôn ngữ đó.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
5 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 661 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu phương tiện ngôn ngữ thể hiện quan hệ so sánh trong tục ngữ tiếng Việt và tiếng Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 
535 
NGHIÊN CỨU PHƯƠNG TIỆN NGÔN NGỮ 
THỂ HIỆN QUAN HỆ SO SÁNH 
TRONG TỤC NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH 
Võ Th Dung 
Trường Đại học Quảng Bình
Tóm t
t. Tục ngữ là một dạng ngôn ngữ súc tích, 
mang nhiều đặc trưng riêng và được ví như “di sản văn 
hóa tinh thần” của mỗi dân tộc về mặt trí tuệ, tình cảm 
và nghệ thuật biểu hiện trong các hoạt động từ vật chất 
đến tinh thần. Với ngôn từ giản đơn, diễn đạt ngắn gọn, 
có vần điệu và giàu sắc thái biểu cảm nên tục ngữ luôn 
được sử dụng và lưu truyền qua nhiều thế hệ. 
Mục đích của bài viết là cung cấp một nghiên cứu 
có hệ thống về các phương tiện ngôn ngữ biểu thị mối 
quan hệ so sánh của tục ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. 
Từ đó làm sáng tỏ thêm nét đặc sắc của ngôn ngữ hai 
dân tộc trong sử dụng phương tiện diễn đạt liên quan 
đến quan hệ so sánh. Trên thực tế, kết quả nghiên cứu 
sẽ giúp cho sinh viên tiếng Anh có cái nhìn sâu sắc về 
các phương tiện ngôn ngữ thể hiện quan hệ so sánh 
của tục ngữ tiếng Anh cũng như của tiếng mẹ đẻ nhằm 
làm phong phú thêm vốn từ vựng và có sự hiểu biết tốt 
hơn về ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa của ngôn ngữ đó. 
T khóa: tục ngữ; phương tiện ngôn ngữ; quan hệ 
so sánh 
Abstract: Proverbs are brief popular sayings which 
are handed down orally from generation to generation. 
They summed up a lot of distinguishing features and 
seemed to be “spiritually cultural heritage” of each 
nation about intelligence, feelings and expressive art in 
a wide range of material and spiritual activities. 
The article is intended to provide a thorough and 
systematic study on the expressive means of proverbs 
denoting comparative relationships in both Vietnamese 
and English. Meanwhile, it is aimed at finding the 
feature that Vietnamese and English share with and 
different from each other in the use of expressive 
means of proverbs relating to comparative 
relationships. In fact, the result is also intended to 
enable students of English to have an insight into 
expressive means of proverbs denoting comparative 
relationships in English as well as in their mother 
tongue so that they could enrich their vocabulary and 
have a better understanding of language and its culture 
they are learning. 
Key words: proverb; expressive mean; 
comparative relationship 
I. MỞ ĐẦU 
Ngôn ngữ là công cụ để con người giao tiếp và 
tư duy. Ngược lại, ngôn ngữ lại phản chiếu trong 
hình hài của mình những tâm lý, tình cảm, đặc 
trưng văn hóa xã hội của cộng đồng một cách có ý 
thức hay vô thức. 
Tục ngữ là “kho trí tuệ dân gian”, chuyển tải và 
lưu giữ những di sản văn hóa dân tộc. Với ngôn từ 
ngắn gọn, hàm súc, chắt lọc, “lời ít, ý nhiều”, tục 
ngữ biểu hiện một cách tinh tế, sinh động và đầy 
hình tượng về cuộc sống, đúc kết những kinh 
nghiệm, lời khuyên thâm thuý trong giáo dục ứng 
xử, giao tiếp của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã 
hội. Do vậy, tục ngữ là đối tượng nghiên cứu của 
nhiều ngành như văn hóa dân gian, sử học, dân tộc 
học, tâm lý học, phong tục học, văn hóa học, ngôn 
ngữ học... Vì lẽ đó, nghiên cứu đối chiếu tục ngữ 
tiếng Việt và tiếng Anh để lần tìm những nét 
tương đồng và khác biệt trong các phương tiện 
ngôn ngữ biểu hiện mối quan hệ so sánh là việc 
làm có ý nghĩa thiết thực trong xu hướng hội nhập 
hiện nay, nhằm làm nổi rõ những giá trị, triết lý 
ngôn giao về ứng xử trong cuộc sống hàng ngày 
ẩn chứa tục ngữ. Đây cũng là cách tiếp cận có 
hiệu quả giúp người học hiểu rõ hơn những phong 
tục tập quán, đặc trưng bản sắc văn hóa của mỗi 
dân tộc, nâng cao hiệu quả giao tiếp, ứng xử trong 
từng tình huống cụ thể. 
Để làm rõ vấn đề đang xét, chúng tôi đi sâu 
Tiu ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp 
536 
phân tích, khảo sát đối chiếu các phương tiện 
ngôn ngữ biểu hiện quan hệ so sánh ở tục ngữ 
tiếng Việt và tiếng Anh về ứng xử trong gia đình 
và xã hội nhằm lần tìm các mối quan hệ giữa hình 
ảnh biểu đạt và tư duy liên tưởng, giữa ngôn ngữ và 
văn hóa, giữa cách nói và nếp nghĩ của hai dân tộc. 
II. NỘI DUNG 
Có nhiều khái niệm về so sánh của một số tác 
giả tiêu biểu như Đinh Trọng Lạc (1997), Hoàng 
Phê (2000) và Cù Đình Tú (2001). Nhưng chung 
quy lại có thể hiểu, so sánh là phương thức diễn 
đạt khi lấy sự vật, hiện tượng này đối chiếu với sự 
vật, hiện tượng khác có thuộc tính chung (hoặc 
một nét tương đồng) nào đó nhằm gợi ra hình ảnh 
hay cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người 
nghe hay người đọc. Trong ngôn ngữ, vế được so 
sánh có một tiền giả định làm chuẩn mực nhưng 
không đồng nhất hoàn toàn với cái so sánh mà chỉ 
dựa trên hình ảnh mà ngôn ngữ gợi ra [theo 7; tr. 
425-426]. 
Để xác định kiểu so sánh các câu tục ngữ trong 
tiếng Việt và tiếng Anh, chúng tôi đã tiến hành 
khảo cứu, phân tích tục ngữ được tạo nên bởi 
những yếu tố nào, mối quan hệ giữa các yếu tố đó 
ra sao trong câu tục ngữ, từ đó mô hình hóa chúng 
bằng các ký hiệu. Nếu quy ước A là yếu tố cần so 
sánh hay được so sánh, t là yếu tố thể hiện tính 
chất của sự vật hay trạng thái của hành động, có 
vai trò nêu rõ phương diện so sánh, B là yếu tố 
được đưa ra để so sánh, chúng tôi có mô hình tổng 
quát: A – t (từ so sánh) – B. 
Trên cứ liệu được sưu tầm, chúng tôi tiến hành 
khảo sát các kiểu so sánh có trong tục ngữ tiếng 
Việt và tiếng Anh về ứng xử trong gia đình và xã 
hội đã cho kết quả: kiểu so sánh có đầy đủ bốn 
yếu tố hay lược bỏ một hay hai yếu tố đều xuất 
hiện ở cả hai ngôn ngữ. Ở tục ngữ tiếng Việt gồm 
như, bằng, hơn, còn hơn, quá, không bằng, không 
như... và tiếng Anh: as... as, as... so, like, er... than, 
more ... than 
Bảng thống kê các dạng so sánh trong tục ngữ 
tiếng Việt và tiếng Anh: 
TT 
Ngôn ngữ 
Tổng số 
Dạng so sánh 
Tương đương Không tương đương 
Cụ thể % Cụ thể % 
1 Tiếng Việt 1.501 799 53,2 82 5.5 
2 Tiếng Anh 969 290 29,9 126 13 
TT Dạng so sánh Tiếng Việt Tiếng Anh 
Cụ thể % Cụ thể % 
1 So sánh tương 
đương 
A như B 71 4,7 24 2,5 
2 A, B 691 46 104 10,7 
3 A = B 37 2,5 162 16,7 
4 So sánh không 
tương đương 
A hơn/quá B 39 2,6 99 10,2 
5 A không bằng/ 
thua kém B 
43 2,9 27 2,8 
Tổng cộng 881 58,7 416 42,9 
1. So sánh tương đương 
1.1 Dạng A như B chiếm số lượng không nhiều 
ở tục ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. Kết cấu A như 
B trong tục ngữ ngoài việc làm sáng tỏ nghĩa của 
A trong mối liên hệ với B, điều được nói đến ở A 
trở nên phổ biến, ví dụ: 
Nói đúng như gãi vào chỗ ngứa. 
Nói với người say như vay không trả. 
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 
537 
Nói như phát, nhát như cheo. 
Gái lớn trong nhà như ma chửa cất. 
Chị em dâu như bầu nước lã, chị em gái như 
cái nhân sâm. 
None so deaf as those who won’t hear. 
(Không ai điếc bằng những kẻ không muốn 
nghe.) 
A thief knows a thief as a wolf knows a wolf. 
(Suy bụng ta ra bụng người.) 
The receiver is as bad as the thief. 
(Của biếu là của lo, của cho là của nợ.) 
As the tree so the fruit. 
(Cây nào quả ấy.) 
1.2 Dạng A, B lại khá phổ biến trong tục ngữ 
cả hai ngôn ngữ, đặc biệt ở tục ngữ tiếng Việt. 
Tuy vắng yếu tố so sánh, song nhờ cấu trúc sóng 
đôi chặt chẽ, có sự đối lập về nghĩa giữa hai vế 
nên câu tục ngữ vẫn mang sắc thái so sánh. 
Lời nói, gói bạc. 
Thở ra khói, nói ra lời. 
Một lời nói, một đọi máu. 
Ăn lúc đói, nói lúc say. 
Ăn lắm thì hết miếng ngon, nói lắm thì hết lời 
khôn hoá rồ. 
A honey tongue, a heart of gall. 
(Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm./Khẩu phật, tâm xà.) 
All covet, all lose. 
(Tham thì thâm.) 
Fair without, foul (false) within. 
(Khẩu phật, tâm xà.) 
Ở dạng này có khi A là yếu tố được nhấn mạnh, 
cần được so sánh và B là yếu tố dùng để so sánh 
nhưng có khi B là yếu tố được nhấn mạnh và A là 
yếu tố đưa đẩy, dùng để so sánh. Mối quan hệ A 
và B chỉ là tương đối và tuỳ vào hoàn cảnh giao 
tiếp ứng xử cụ thể mà yếu tố A hay B được chú ý 
nhấn mạnh. Mặt khác, sự tương đồng giữa A và B 
chỉ là ở hình thức nhưng về bản chất chúng là 
những hiện tượng khác loại: miệng bà đồng/lồng 
chim khướu; có mới/nới cũ; một miệng/hai lòng; 
khó/khôn; honey tongue/heart of gall; few 
words/many deeds... 
1.3 Dạng A = B là kiểu loại nhấn mạnh ở yếu 
tố A và yếu tố thể hiện quan hệ so sánh bằng chỉ 
mang tính ước định về nghệ thuật chứ không ở 
mặt số lượng. Dạng này chiếm số lượng không 
nhiều trong tục ngữ tiếng Việt nhưng lại khá đa 
dạng, phong phú ở tục ngữ tiếng Anh. 
Một điều nhịn bằng chín điều lành. 
Một câu nói ngay bằng làm chay cả tháng. 
Có mẹ già bằng ba rào dậu. 
Promise is debt. 
(Hứa là nợ.) 
Choose promise choose due. 
(Nói lời thì giữ lấy lời, đừng như con bướm 
đậu rồi lại bay.) 
A bargan is a bargan. 
(Đánh nhau đong gạo, chào nhau ăn cơm.) 
A good wife is a good price 
(Gái ngoan làm quan cho chồng.) 
Adversity brings wisdom. 
(Cái khó ló cái khôn.) 
2. So sánh không tương đương 
2.1 Dạng A hơn B có yếu tố thể hiện so sánh 
gồm: hơn, còn hơn, quá (tiếng Việt) và er... than, 
more... than, better... than, rather... than, the 
+ ...er... the more, the more ... the more (tiếng Anh). 
Lời nói đau hơn roi vọt. 
Lưỡi sắc hơn gươm. 
Người sống hơn đống vàng. 
Chết trẻ còn hơn lấy lẽ chồng người. 
More praise than pudding. 
(Có tiếng còn hơn có miếng.) 
Tiu ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp 
538 
Better the foot slips than the tongue. 
(Sẩy chân còn hơn sẩy miệng.) 
A good name is better than riches. 
(Tốt danh hơn lành áo.) 
Put your hand no further than your sleeve will reach. 
(Liệu cơm, gắp mắm.) 
Khác với các kiểu so sánh ở trên, kiểu so sánh 
dạng A hơn B chỉ rõ sự kém của vế so sánh và 
thường gặp ở câu tục ngữ có kết cấu sóng đôi, có 
sự đối nghĩa giữa các yếu tố được so sánh như: nói 
hay/làm giỏi; hay làm/hay nói; nói ngay/nói dối; 
tiền tài/nhân nghĩa; doing/saying; do well/say 
well; earned/spent; name/rich; health/wealth... Về 
mặt nghĩa thì dạng so sánh này có trung tâm ngữ 
nghĩa ở vế A dùng để nhấn mạnh hay khẳng định 
ý chủ quan. 
2.2 Dạng A không bằng B thường sử dụng các 
từ: không bằng, không như, cũng thua, chẳng tày 
(tiếng Việt) và not... as, no... like; great... no 
(tiếng Anh). Đây là kiểu dùng cách phóng đại để 
so sánh và không thể đảo ngược các vế với nhau 
do hiểu sai ngữ nghĩa, ví dụ: 
Đi buôn nói ngay không bằng đi cày nói dối. 
Vạ tay không hay bằng vạ mồm. 
Mẹ đánh một trăm không bằng cha ngăm một tiếng 
Khéo bán khéo mua cũng thua người khéo nói. 
Đẹp người không bằng đẹp nết. 
Cha chết không lo bằng con gái to trong nhà. 
Great barkers are no biters. 
(Không sợ chó sủa, chỉ sợ chó cắn.) 
There's no place like home. 
(Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn 
hơn.) 
Nothing stings like the truth. 
(Thuốc đắng giả tật, nói thật mất lòng.) 
No fool like an old fool. 
(Bạc đầu còn dại.) 
Như vậy, so sánh là một phương pháp nghệ 
thuật độc đáo mang sắc thái riêng ở tục ngữ về 
ứng xử trong gia đình và xã hội của người Việt và 
người Anh. Đây là phương pháp chủ yếu nhằm 
diễn đạt tư tưởng, tình cảm và là một cách cụ thể 
hoá những cái trừu tượng trong giao tiếp ứng xử 
hàng ngày. Các sự vật so sánh trong vế A và vế B 
của câu tục ngữ bao giờ cũng có mối liên hệ nội 
tại, một liên tưởng về ý niệm bên trong. 
Kết quả khảo sát các cứ liệu (hơn 2.400 câu tục 
ngữ) thể hiện ở tục ngữ hai ngôn ngữ có cấu trúc 
so sánh giống nhau: dạng A như B; A,B; A= B; A 
hơn B và A không bằng (thua, kém) B. Tuy nhiên 
sự lựa chọn đối tượng biểu thị yếu tố được đưa 
làm chuẩn để so sánh mang đậm bản sắc dân tộc, 
thể hiện sự tri nhận về thế giới của người Việt và 
người Anh. Các từ biểu thị cái so sánh ở vế B 
trong tục ngữ thường là những hình ảnh điển hình 
đậm màu sắc dân tộc, qua đó chúng ta thấy rõ dấu 
ấn về đời sống văn hóa tinh thần, vật chất, lối nói, 
cách nghĩ của người Việt và người Anh. Trong khi 
người Việt so sánh: Lưỡi mềm độc quá con ong; 
Lời nói đau hơn roi vọt; Miệng bà đồng, lồng 
chim khướu; Lời nói quan tiền thúng thóc, lời nói 
dùi đục cầm tay; Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn 
chay nói dối; Cho vàng không bằng trỏ đàng đi 
buôn; Hay chữ không bằng dữ đòn; Ruộng bề bề 
không bằng nghề trong tay... thì người Anh lại sử 
dụng: More praise than pudding (Có tiếng còn 
hơn có miếng.); None so deaf as those who won’t 
hear (Không ai điếc bằng những kẻ không muốn 
nghe.); Better to do well than to say well (Nói hay 
chẳng tày làm giỏi.)... 
3. KẾT LUẬN 
Tục ngữ ẩn chứa những giá trị văn hóa lâu đời 
của mỗi dân tộc. Do có những đặc thù mang ý 
nghĩa biểu trưng, tục ngữ “lời ít mà ý nhiều, giản dị 
mà sâu sắc, cá biệt mà điển hình” [5; tr. 37]. Mỗi 
câu tục ngữ như là một tác phẩm hoàn chỉnh, tương 
đối độc lập phản ánh lối nói, lối ứng xử và được cả 
cộng đồng trong xã hội chấp nhận, qua đó chúng ta 
khám phá những đặc trưng văn hoá thú vị trong lối 
nói, cách sống, nếp nghĩ của mỗi dân tộc. 
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 
539 
Phân tích đối chiếu các phương tiện ngôn ngữ 
biểu hiện quan hệ so sánh trong tục ngữ tiếng Việt 
và tiếng Anh về ứng xử trong gia đình và xã hội 
cho thấy, khi diễn đạt cả hai dân tộc sử dụng hình 
ảnh so sánh, liên tưởng có tính biểu trưng cao 
nhưng vẫn mang dáng vẻ riêng của văn hóa mỗi 
cộng đồng dân tộc. Chẳng hạn, người Việt hay so 
sánh đối nghĩa giữa lời nói với việc làm, lời nói 
dối với lời nói thật, lời nói thật với lời nói huyênh 
hoang xảo trá, so sánh lời nói với các sự vật, con 
vật gần gũi thân quen với cuộc sống hay tâm linh 
như rồng, chim, mèo, bướm Còn người Anh so 
sánh với việc làm, vườn cây, hoa quả như Deeds 
are fruits, words are leaves; A man of words and 
not of deed is like a garden full of weeds... 
Như vậy, cùng phản ánh các mặt hoạt động 
trong cuộc sống cộng đồng xã hội, tục ngữ của 
người Việt có xu hướng thiên về khuyên răn con 
người hoàn thiện về tinh thần. Nhưng ở tục ngữ 
của người Anh tính hiện thực cuộc sống vật chất 
mà con người hướng tới được thể hiện rất rõ nét. 
Và những kinh nghiệm, những triết lý thể hiện 
trong tục ngữ của cả hai dân tộc đến nay vẫn còn 
nguyên giá trị, vẫn được nhiều người tâm đắc, 
chiêm nghiệm và thấy chính mình qua từng câu 
tục ngữ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Phạm Văn Bình (1993), Tục ngữ nước Anh và 
thành ngữ tiếng Anh giàu hình ảnh (quyển I), Nxb Hải 
Phòng. 
2. Chu Xuân Diên – Lương Văn Đang – Phương Tri 
(1998), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
3. Phan Thị Đào (1998), “Đặc điểm những câu có 
dạng “A nào B nấy” trong tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí 
Văn hóa dân gian, H, (số 40), tr. 80-83. 
4. Phan Thị Đào (2001), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ 
Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế. 
5. Hoàng Văn Hành (2004), Thành ngữ học tiếng Việt, 
Nxb Khoa học xã hội. 
6. Nguyễn Thái Hòa (1997), Tục ngữ Việt Nam, cấu 
trúc và thi pháp, Nxb Khoa học xã hội, H. 
7. Hoàng Kim Ngọc (2001), So sánh và các phương 
tiện ngôn ngữ biểu hiện quan hệ so sánh trong ca dao – 
tục ngữ Việt Nam, Kỷ yếu Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ 
Việt Nam. 
8. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 
9. Phạm Văn Vĩnh chủ biên (2003), Tục ngữ so sánh, 
Nxb Hà Nội. 
Tiếng Anh 
10. Anne Bertram, NTC’s Dictionary of Proverbs and 
Clichés, NTC Publishing Group. 
11. Mieder, W. (1993), Proverbs are never out of 
Season, Oxford University Press, London. 
12. Norrick, N.R. (1989), Proverbial Linguistics: 
Linguistic Perspective on Proverbs, University of Trier.