Tóm tắt
Mô hình chất lượng nước mặt có thể xem là công cụ hữu ích để mô phỏng và dự
báo mức độ, sự phân bố và sự nguy hại của các chất ô nhiễm trong môi trường nước.
Kết quả từ mô hình theo các kịch bản ô nhiễm khác nhau là những cơ sở khoa học
trong việc đánh giá tác động môi trường, từ đó có thể đưa ra những giải pháp cũng
như hỗ trợ các cơ quan quản lý môi trường để đưa ra các quyết định đúng đắn, hợp
lý. Kết quả mô hình ảnh hưởng đến tính hợp lý, tính khoa học của các dự án xây dựng
và của các biện pháp kiểm soát ô nhiễm của chính quyền. Bài báo này xem xét sự
phát triển, phân loại và sự chuẩn hóa của mô hình chất lượng nước mặt. Kết quả của
nghiên cứu có thể giúp các cơ quan quản lý môi trường đảm bảo tính nhất quán trong
việc lựa chọn áp dụng mô hình chất lượng nước phù hợp cho các mục đích cụ thể.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 591 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tổng quan về các mô hình chất lượng nước mặt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trao đổi, Tin tức & Sự kiện
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
105
NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN VỀ CÁC MÔ HÌNH 
CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẶT
Nguyễn Thị Thủy1; Nguyễn Thành Luân2
1Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
2Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Quốc gia về Động lực học Sông biển
Tóm tắt
Mô hình chất lượng nước mặt có thể xem là công cụ hữu ích để mô phỏng và dự 
báo mức độ, sự phân bố và sự nguy hại của các chất ô nhiễm trong môi trường nước. 
Kết quả từ mô hình theo các kịch bản ô nhiễm khác nhau là những cơ sở khoa học 
trong việc đánh giá tác động môi trường, từ đó có thể đưa ra những giải pháp cũng 
như hỗ trợ các cơ quan quản lý môi trường để đưa ra các quyết định đúng đắn, hợp 
lý. Kết quả mô hình ảnh hưởng đến tính hợp lý, tính khoa học của các dự án xây dựng 
và của các biện pháp kiểm soát ô nhiễm của chính quyền. Bài báo này xem xét sự 
phát triển, phân loại và sự chuẩn hóa của mô hình chất lượng nước mặt. Kết quả của 
nghiên cứu có thể giúp các cơ quan quản lý môi trường đảm bảo tính nhất quán trong 
việc lựa chọn áp dụng mô hình chất lượng nước phù hợp cho các mục đích cụ thể. 
Từ khóa: Mô hình toán, chất lượng nước, phân loại mô hình, chuẩn hóa mô hình. 
Abstract
Surface water quality models can be seen as a useful tool to simulate and 
forecast the levels, distributions, and risks of chemical pollutants in water 
environment. The modelling results under different pollution scenarios are scientific 
bases in environmental impact assessment and may provide solutions as well as 
supports for environmental management agencies to make right decisions. The 
modelling results will impact the reasonability and scientificity of the construction 
projects and pollution control measures of the government. This study reviewed the 
development, classification and standardization of surface water quality models. 
The research results can help the environmental management agencies ensure the 
consistency in application of water quality models for the specified purposes.
Keywords: Numerical modeling, water quality, models classification, model 
standardization
1. Đặt vấn đề
Chất lượng nước là một chủ đề 
nghiên cứu rộng và rất phức tạp. Thông 
thường để định nghĩa khái niệm chất 
lượng nước thường đề cập tới một vài 
thông số như vật lý, hóa học và sinh 
học. Sự suy giảm chất lượng nước mặt, 
nước dưới đất và nước vùng cửa sông, 
ven biển chủ yếu bị ảnh hưởng bởi cấu 
tạo địa chất, thạch học và các phản ứng 
hóa học diễn ra trong phạm vi lưu vực 
hoặc tầng chứa nước. Thêm vào đó, chất 
lượng nước cũng bị ảnh hưởng bởi các 
hoạt động nhân sinh do việc đưa vào 
môi trường nước các nguồn thải công 
nghiệp, sinh hoạt, chăn nuôi.
Trong quá khứ, các nhà lý chất 
lượng nước chủ yếu dựa vào các định 
hướng chính sách và ít dựa trên các căn 
cứ khoa học, dẫn đến yêu cầu khách 
quan cần phải xây dựng các mô hình chất 
lượng nước để đưa ra được các phân tích, 
đánh giá khoa học, chính xác. Hầu hết 
các mô hình đều nhằm giải quyết các vấn 
đề chất lượng nước trong điều kiện kinh 
tế xã hội và môi trường cụ thể. Các mô 
hình chất lượng nước có thể được phân 
loại theo: 1) Dạng tiếp cận (dựa trên nền 
tảng vật lý, khái niệm hoặc thực nghiệm), 
2) Loại chất ô nhiễm (chất dinh dưỡng, 
Trao đổi, Tin tức & Sự kiện
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
106
trầm tích, muối), 3) Khu vực áp dụng (lưu 
vực, nước dưới đất, hệ thống sông, nước 
ven biển, khu vực hòa trộn), 4) Bản chất 
(xác định hoặc ngẫu nhiên), 5) Trạng thái 
phân tích (trạng thái bền hoặc mô phỏng 
động lực), 6) Phân tích không gian (tập 
trung, phân bố), 7) Chiều tính toán (mô 
hình 1 chiều - 1D, 2D, 3D), 8) Yêu cầu 
dữ liệu (mô hình với cơ sở dữ liệu lớn, 
các mô hình với yêu cầu cơ sở dữ liệu tối 
thiểu (minimum requirements models - 
MIR) [5]. Khó có thể tổng quan hết được 
toàn bộ các mô hình chất lượng nước 
dựa theo các tiêu chí trên. Do đó, mục 
đích của bài báo này nhằm tổng quan các 
mô hình chất lượng nước điển hình đang 
được sử dụng rộng rãi và xem xét sự phát 
triển của chúng theo ba mức độ: phạm vi 
áp dụng, mức độ chính xác và sự chuẩn 
hóa cũng như phương pháp được sử dụng 
trong các mô hình khác nhau. Bài báo 
cho phép các nhà nghiên cứu, cơ quan 
quản lý môi trường định hướng, lựa chọn 
mô hình chất lượng nước phù hợp, đảm 
bảo tính nhất quán trong từng trường hợp 
cụ thể.
2. Sự phát triển của các mô hình 
chất lượng nước mặt
Các mô hình chất lượng nước đã trải 
qua một quá trình phát triển lâu dài kể 
từ khi Streeter và Phelps xây dựng mô 
hình chất lượng nước đầu tiên (mô hình 
S - P) để kiểm soát ô nhiễm nước sông ở 
bang Ohio của Mỹ [3]. Các mô hình chất 
lượng nước có bước tiến lớn từ việc chỉ 
mô phỏng 1 yếu tố chất lượng nước đến 
nhiều yếu tố, từ mô hình trạng thái bền 
tới mô hình động lực, từ mô hình nguồn 
điểm đến mô hình kết hợp giữa nguồn 
điểm và nguồn diện và từ mô hình không 
chiều tới mô hình một chiều, hai chiều, 
và ba chiều. Hơn 100 mô hình chất lượng 
nước đã được phát triển cho tới ngày nay. 
Tuy nhiên, mỗi mô hình chất lượng nước 
lại có các điều kiện áp dụng riêng. Nhìn 
chung, các mô hình chất lượng nước đã 
trải qua ba giai đoạn phát triển quan trọng 
từ năm 1925 đến nay. 
2.1. Giai đoạn đầu tiên (1925 - 1965)
Chất lượng nước nhận được nhiều sự 
quan tâm của cộng đồng ở giai đoạn này. 
Các mô hình chất lượng nước tập trung 
vào sự tương tác giữa các thành phần 
chất lượng khác nhau trong các hệ thống 
sông khi bị tác động bởi sự ô nhiễm từ các 
nguồn thải điểm từ công nghiệp và dân 
sinh [1]. Trong quá trình dịch chuyển thủy 
động lực học, nhu cầu oxy của trầm tích, 
sự quang hợp và hô hấp của tảo được xem 
như các số liệu đầu vào của mô hình, trong 
khi các nguồn ô nhiễm diện chỉ đóng vai 
trò như tải lượng nền.
Vào thời kỳ đầu của giai đoạn này, 
mô hình quan hệ BOD - DO dạng tuyến 
tính đơn giản được phát triển để dự báo 
chất lượng nước đồng thời các mô hình 
một chiều bắt đầu được sử dụng để giải 
quyết các vấn đề ô nhiễm trên các sông 
và cửa sông. Sau đó, hầu hết các hướng 
nghiên cứu đã thay đổi và đi xa hơn so 
với mô hình ban đầu của Streeter - Phelps 
(các mô hình S - P). Ví dụ, Thomas Jr cho 
rằng BOD có thể bị giảm đi mà không có 
sự tiêu thụ oxy do sự lắng đọng và keo 
tụ của trầm tích, tốc độ giảm BOD tỉ lệ 
với hàm lượng BOD còn lại; do đó, hệ 
số keo tụ được đưa thêm vào mô hình 
trạng thái bền S - P để phân biệt hai cách 
thức suy giảm hàm lượng BOD kể trên 
[6]. O’Connor phân chia thông số BOD 
thành BOD carbon hóa và BOD nitrit 
hóa, đồng thời bổ sung các ảnh hưởng 
của hiện tượng phân tán vào phương 
trình của Thomas [4]. Dobbins - Camp 
cũng bổ sung hai hệ số vào phương trình 
Thomas, bao gồm tốc độ thay đổi BOD 
do sự giải phóng của trầm tích và dòng 
chảy bề mặt và tốc độ thay đổi DO do sự 
quang hợp và hô hấp của tảo. 
2.2. Giai đoạn phát triển (1965 - 1995)
Từ năm 1965 đến 1970, các mô hình 
chất lượng nước được phân chia thành 6 
dạng và phát triển nhanh chóng dựa trên 
các nghiên cứu sâu hơn về các hệ số đa 
chiều trong các mô hình BOD - DO. Mô 
hình một chiều được cải tiến thành mô 
Trao đổi, Tin tức & Sự kiện
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
107
hình hai chiều để mô phỏng chất lượng 
nước hồ và vịnh. Các mô hình phi tuyến 
được phát triển trong suốt thời kỳ từ năm 
1970 tới 1975. Những mô hình này gồm 
chu trình N và P, hệ thực vật phù du và 
động vật nổi, tập trung vào mối liên hệ 
giữa tốc độ phát triển của sinh vật và các 
chất dinh dưỡng, ánh sáng mặt trời và 
nhiệt độ, thực vật phù du và tốc độ phát 
triển của động vật nổi [7]. Phương pháp 
sai phân hữu hạn và phương pháp phần 
tử hữu hạn được áp dụng cho các mô 
hình các mô hình một hoặc hai chiều do 
các mối liên hệ phi tuyến trong mô hình. 
Sau năm 1975, số lượng các biến số 
ổn định trong các mô hình tăng lên đáng 
kể, các mô hình ba chiều cũng được phát 
triển trong giai đoạn này, mô hình thủy 
động lực học và ảnh hưởng của trầm tích 
được đưa vào mô hình chất lượng nước. 
Trong khi đó, các mô hình chất lượng 
nước được kết hợp với các mô hình lưu 
vực sông coi đầu vào nguồn ô nhiễm diện 
như là một biến của mô hình. Do đó các 
chính sách về quản lý chất lượng nước 
đã thay đổi đáng kể khi các mô hình tập 
trung vào mô phỏng các điều kiện ràng 
buộc và xem xét các nguồn ô nhiễm diện 
theo lưu vực sông. Các mô hình chất 
lượng nước điển hình gồm có các mô 
hình QUAL, mô hình MIKE11 và các 
mô hình WASP đã được phát triển và 
ứng dụng ở giai đoạn này. Bên cạnh đó, 
mô hình OTIS một chiều cũng được phát 
triển bởi Cục khảo sát địa chất Hoa Kỳ 
(USGS) để mô phỏng chất lượng nước.
2.3. Giai đoạn nghiên cứu chuyên 
sâu (sau năm 1995)
Các nguồn ô nhiễm diện giảm đi do 
sự kiểm soát chặt chẽ ở các quốc gia phát 
triển. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng tới chất 
lượng nguồn nước của các hợp chất độc 
hại bị tích tụ trong khí quyển như các hợp 
chất hữu cơ, kim loại nặng, và các hợp 
chất của Nito lại ngày một tăng. Mặc dù 
các chất dinh dưỡng và các chất hóa học 
độc hại lắng đọng lại trên bề mặt nước đã 
được tính đến trong phạm vi mô hình, tuy 
nhiên các chất này không chỉ lắng đọng 
trực tiếp trên mặt nước mà còn có thể bị 
lắng đọng lại trên bề mặt lưu vực và được 
vận chuyển vào sông tạo ra một nguồn 
chất gây ô nhiễm nghiêm trọng. Từ khía 
cạnh quản lý, mô hình ô nhiễm không 
khí đã được phát triển để đưa các diễn 
biến này vào trong mô hình, cho thấy sự 
lắng đọng các chất thải độc hại trong khí 
quyển tĩnh hoặc động có thể ảnh hưởng 
tới chất lượng nước tại lưu vực [8]. Do 
đó, ở thời kỳ này, một số các mô hình ô 
nhiễm không khí được tích hợp vào các 
mô hình chất lượng nước để đánh giá 
trực tiếp sự đóng góp của hiện tượng lắng 
đọng chất ô nhiễm trong khí quyển [10].
Ngoại trừ các mô hình kinh điển như 
QUAL 2K, WASP 6, QUASAR, SWAT 
và MIKE 21 và MIKE 3, các mô hình chất 
lượng nước khác cũng được phát triển để 
mô phỏng các điều kiện môi trường nước 
trong các trường hợp phức tạp. Ví dụ, 
Whitehead và cộng sự đã phát triển mô 
hình Nito tích hợp đa phân bố (INCA) 
dựa trên các ảnh hưởng của khí quyển với 
số liệu đầu vào là Nito đất, sử dụng đất, 
và thủy văn. Gần đây, Fan và cộng sự đã 
tích hợp mô hình chất lượng nước QUAL 
2K và mô hình HEC-RAS để mô phỏng 
tác động của thủy triều ảnh hưởng lên sự 
phân bố chất lượng nguồn nước [2]. Đối 
với sự tích hợp các nguồn ô nhiễm phân 
tán và tập trung, Cơ quan Bảo vệ Môi 
trường Hoa Kỳ (USEPA) đã phát triển hệ 
thống phân tích môi trường đa mục tiêu 
(BASINS), đem lại khả năng đánh giá số 
lượng lớn các nguồn ô nhiễm diện và điểm 
một cách nhanh chóng. Trong đó, USEPA 
cũng đề xuất mô hình EFDC nên được sử 
dụng như một công cụ hữu hiệu nhất cho 
quản lý chất lượng nước. 
Trong số các mô hình chất lượng nước 
mặt, các mô hình mô hình Streeter - Phelps, 
QUASAR, QUAL, WASP, CE-QUAL-W 
2, BASINS, MIKE, EFDC đã được áp dụng 
rộng rãi trên phạm vi toàn cầu. Gần đây, 
Kannel và cộng sự đã khẳng định, các mô 
hình phổ biến như QUAL2EU, WASP7, và 
Trao đổi, Tin tức & Sự kiện
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
108
QUASAR là phù hợp nhất để mô phỏng 
oxy hòa tan dọc các sông, suối [10] Nhìn 
chung, tại các quốc gia phát triển, đặc biệt 
Hoa Kỳ và các nước châu Âu đã phát triển 
và cải tiến mô hình chất lượng nước mặt tốt 
hơn so với các nước khác. Một vài mô hình 
chất lượng nước mặt cũng được thiết lập tại 
một số trường đại học và các viện nghiên 
cứu ở Trung Quốc trong các năm qua, tuy 
nhiên các mô hình này hiện vẫn chưa được 
sử dụng rộng rãi so với các mô hình MIKE, 
EFDC và WASP [1]. 
3. Phân loại mô hình chất lượng nước
Các mô hình chất lượng nước được 
phân loại dựa trên các loại chất ô nhiễm 
khác nhau, bản chất của nguồn ô nhiễm 
(tập trung hoặc phân tán), và đặc điểm của 
sông như hình thái, thủy lực và sinh thái 
học. Các mô hình này dự đoán các thay đổi 
trong nồng độ chất ô nhiễm của một đoạn 
sông đã biết, kết hợp với khả năng hòa trộn 
của sông do các phản ứng vật lý, hóa học 
và sinh học xảy ra trong cùng hệ thống. 
Tùy thuộc vào mục đích, các mô hình chất 
lượng nước nhìn chung có thể được phân 
loại thành các mô hình mô phỏng (để dự 
đoán các thay đổi trong chất lượng nước do 
ô nhiễm) và các mô hình tối ưu (để phân bổ 
tối ưu các nguồn tài nguyên) Hình 1. 
Hình 1. Các dạng mô hình chất lượng nước
Các mô hình tối ưu có thể được 
phân loại chi tiết hơn thành mô hình quy 
hoạch tuyến tính, mô hình quy hoạch phi 
tuyến và mô hình quy hoạch động. Mô 
hình vật lý được thiết lập để thu được 
các kết quả liên quan đến hệ thực theo 
một tỷ lệ nhất định, trong khi mô hình 
toán dựa trên các phương trình toán học 
để mô phỏng chất lượng nước. 
Các mô hình toán cũng có thể được 
phân loại chi tiết hơn dựa trên cơ sở mô 
tả các quá trình mô phỏng theo phương 
pháp thống kê hoặc kinh nghiệm hoặc cơ 
học; theo loại dữ liệu gồm hồi quy và ngẫu 
nhiên; phân loại theo giải pháp mô hình 
gồm mô hình số học và mô hình phân tích; 
phân loai theo mức độ biểu diễn chia làm 
mô hình phân bố và mô hình tập trung.
4. Chuẩn hóa các mô hình chất 
lượng nước mặt 
Để sử dụng các mô hình mô phỏng 
và dự báo chất lượng nước trong các 
Trao đổi, Tin tức & Sự kiện
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
109
báo cáo quan trọng (ví dụ, báo cáo đánh 
giá tác động môi trường nước) cần đảm 
bảo chúng đã được chuẩn hóa, sẵn có và 
đáng tin cậy. Do vậy, các cơ quan quản 
lý môi trường cần lập danh sách các mô 
hình chất lượng nước để đảm bảo tính 
nhất quán. Các mô hình này có thể được 
phổ biến, điều chỉnh và chuẩn hóa thông 
qua các chỉ số đánh giá và hệ thống tiêu 
chuẩn quốc gia, hoặc bằng cách xuất bản 
các bài báo, tổ chức các hội thảo, hoặc 
trao đổi làm việc cộng đồng địa phương. 
Ví dụ, USEPA giữ vai trò tổ chức các hội 
thảo khoa học thường niên để xác nhận 
và cập nhật các mô hình quản lý [9]. 
Hội đồng châu Âu tổ chức các hội thảo 
thường niên để đánh giá tính nhất quán 
của các mô hình chất lượng nước. Ngoài 
ra, các mô hình được chuẩn hóa có thể 
được tải miễn phí và có mã nguồn mở. 
Các viện nghiên cứu chuyên sâu về 
các mô hình chất lượng nước đã và đang 
được xây dựng để tiến hành nhiều nghiên 
cứu để điều chỉnh và chuẩn hóa các mô 
hình chất lượng nước ở một số khu vực 
hoặc quốc gia trên thế giới. Các nhà khoa 
học đã đề xuất một số mô hình dự báo 
dựa trên các yêu cầu quản lý môi trường. 
So với các quốc gia khác, hầu hết các mô 
hình môi trường nước đều được chuẩn 
hóa ở Mỹ. Các trung tâm nghiên cứu về 
nước trực thuộc USEPA tập trung vào các 
nghiên cứu liên quan tới công tác quản lý 
và bảo vệ tài nguyên nước, các nguyên lý 
và các phương pháp được áp dụng trong 
thực tiễn, các mô hình toán, các công cụ 
tính toán, và cơ sở dữ liệu. Trong khi đó, 
USEPA cũng cung cấp cơ sở lý thuyết, 
quy trình áp dụng mô hình cho một số 
dự án cụ thể và kèm theo những lưu ý 
trong quá trình áp dụng cho các đơn vị có 
nhu cầu. Bên cạnh đó, quá trình này cũng 
luôn được cải tiến kèm theo việc liên tục 
đánh giá mức độ tin cậy của các mô hình. 
Bên cạnh đó, USEPA cũng cho phép tập 
đoàn Tetra Tech Inc thực hiện dự án đánh 
giá khả năng mô phỏng, tính hiệu dụng 
và phạm vi sử dụng của hơn 60 mô hình. 
Đến năm 2009, USEPA đã xuất bản được 
các hướng dẫn cải tiến, đánh giá và ứng 
dụng các mô hình môi trường. Bên cạnh 
bộ tài liệu hướng dẫn, hội đồng kiểm 
soát mô hình hóa môi trường của USEPA 
cũng cung cấp các nền tảng mô hình trên 
website. Cục khảo sát địa chất Hoa Kỳ, 
cơ quan quản lý tình trạng khẩn cấp liên 
bang và công binh lục quân Hoa Kỳ cũng 
phát triển các mô hình chất lượng nước 
cùng các hướng dẫn chi tiết. 
Tương tự, Viện nghiên cứu chuyên 
sâu về sự phát triển và đánh giá mô hình 
được thành lập bởi Cơ quan môi trường 
Liên hiệp Anh (UKEA) đã giúp UKEA 
hoàn thiện khung cơ chế đánh giá tác 
động của sự ô nhiễm đất tới nước dưới 
đất và nước mặt, từ đó đề xuất các giải 
pháp phù hợp, cũng như kiến nghị các 
phương pháp và các mô hình dự báo chất 
lượng nước mặt. Nhóm thanh tra ô nhiễm 
của Her Majesty ở Anh (HerMajesty’s 
Inspectorate of Pollution - HMIP) đã đề 
xuất 54 mô hình chất lượng nước mặt 
và các điều kiện áp dụng cho sự đánh 
giá ô nhiễm sông, hồ, cửa sông và biển. 
Aspinwall và Company đã đề xuất 11 mô 
hình áp dụng cho các điều kiện khác nhau 
bao gồm 1 mô hình một chiều, 4 mô hình 
hai chiều, và 6 mô hình ba chiều. Ở Hàn 
Quốc, Bộ Môi trường đã đưa ra một kế 
hoạch tổng thể cho công tác quản lý môi 
trường nước vào năm 2006, Bộ này đưa ra 
6 mô hình dự báo chất lượng nước, trong 
đó mô hình QUAL2E và EFDC được 
sử dụng rộng rãi. Các mô hình MIKE 
và TUFLOW cũng được ứng dụng rộng 
rãi để dự báo chất lượng nước bề mặt ở 
Australia. Bộ mô hình MIKE được ứng 
dụng ở Đan Mạch để giải quyết các vấn 
đề về sinh thái, và hóa học môi trường. 
Ở Trung Quốc, mô hình chất lượng nước 
DELFT 3D được sử dụng để mô phỏng 
chất lượng môi trường nước ở Hongkong 
từ những năm 1970 và hiện đã trở thành 
mô hình chuẩn của Cơ quan môi trường 
Hồng Kông. Cục bảo vệ môi trường Đài 
Loan đã ban hành văn bản hướng dẫn 
các phương pháp đánh giá tác động môi 
trường và đưa ra danh sách các mô hình 
Trao đổi, Tin tức & Sự kiện
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 16 - năm 2017
110
chất lượng nước với những điều kiện áp 
dụng khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các 
mô hình như các mô hình MIKE, mô hình 
EFDC, và mô hình Deft 3D được áp dụng 
để mô phỏng chất lượng môi trường nước 
ở các viện nghiên cứu môi trường. Hiện 
nay, có các báo cáo đã chỉ ra sự khác biệt 
giữa các kết quả giữa các mô hình khác 
nhau, cũng như tính phù hợp và độ nhạy 
thông số của những mô hình này. 
Vai trò của việc chuẩn hóa các mô 
hình chất lượng nước mặt là: 
(1) Nghiên cứu các mô hình chất 
lượng nước đang được sử dụng để đánh 
giá hiện trạng môi trường. Hiểu rõ các 
cơ chế của mô hình, các điều kiện và 
phạm vi áp dụng phù hợp, các thông số 
mô hình, tính ổn định, và các khác biệt 
trong kết quả mô hình. 
(2) Xây dựng cơ sở dữ liệu và các 
kịch bản cho các mô hình thông qua thực 
nghiệm, đo đạc và hoạt động quan trắc. 
(3) So sánh kết quả trong các mô 
hình khác nhau nhằm giải quyết, phân 
tích các dữ liệu đầu vào và đầu ra, các 
phương trình, các nguyên lý và các 
phương pháp tính toán của các mô hình 
dựa trên việc nghiên cứu một số kịch 
bản sẵn có. 
(4) Cung cấp các chỉ số sàng lọc và 
các phương pháp thẩm định cho các mô 
hình. Thiết lập hệ thống thẩm định cho 
mô hình và chuẩn hóa các hình thức dữ 
liệu đầu vào và đầu ra. Chuẩn hóa một 
số các mô hình và lập danh sách các 
mô hình đã chuẩn hóa từ đó giải quyết 
các bài toán quản lý môi trường tại mỗi 
quốc gia. 
(5) Đưa ra các phương pháp hiệu 
chỉnh và kiểm định, quản lý truy cập các 
mã nguồn, đề xuất ý nghĩa của các thông 
số trong mô hình và đề nghị các khoảng 
giá trị cho các thông số theo từng vùng.
(6) Cung cấp giao diện sử dụng mô 
hình bằng ngôn ngữ quen thuộc và xuất 
bản sổ tay sử dụng mô hình gồm dữ liệu 
đầu vào mô hình (truy cập dữ liệu, xử lý 
số liệu), cấu trúc mô hình, hiệu chỉnh mô 
hình, kiểm định mô hình, đánh giá các 
thông số và kết quả đầu ra của mô hình.
5. Xu hướng phát triển mô hình 
chất lượng nước
 Cùng với sự phát triển của các mô 
hình chất lượng nước, công tác quản lý 
chất lượng nước cũng sẽ ngày một được 
cải thiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách 
thức. Các mô hình luôn cần bộ số liệu 
đầu vào lớn và ổn định, các số liệu cần 
đảm bảo độ chính xác, tính đại diện, và 
có tính hệ thống. Các mô hình không mô 
phỏng cơ chế ô nhiễm và cũng không 
chỉ ra sự xâm nhập của các chất ô nhiễm 
trong quá trình vận động, do đó có thể 
có khoảng cách lớn giữa thực tế và kết 
q