Nghiệp vụ tài chính phái sinh và thực trạng sử dụng tại Việt Nam

Các nghiệp vụ tài chính phái sinhlà sản phẩmtất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và đa dạngcủa thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hoá, lãi suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi rocho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xẩy ra, các nghiệp vụ tài chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng tài chính mà giá trị cuả nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở (hay còn gọi là chính phẩm).

pdf14 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2093 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiệp vụ tài chính phái sinh và thực trạng sử dụng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiệp vụ tài chính phái sinh và thực trạng sử dụng tại Việt Nam Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hoá, lãi suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xẩy ra, các nghiệp vụ tài chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng tài chính mà giá trị cuả nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở (hay còn gọi là chính phẩm). Đến nay, trên thị trường tài chính quốc tế nghiệp vụ tài chính phái sinh đã phát triển rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu. Sở dĩ nó phát triển thành công như vậy, là do sử dụng nghiệp vụ này đem lại lợi ích cho các thành viên thị trường. Trên thị trường có thể phân ra thành 3 loại thành viên: Người đầu tư, người đầu cơ, người cơ lợi. Sự dụng nghiệp vụ tài chính phái sinh đều mang lại lợi ích cho 3 loại thành viên này: Người đầu tư phải đối diện với những rủi ro do biến động giá cả của các sản phẩm chính, họ phải sử dụng nghiệp vụ phái sinh để giảm thiểu hoặc loại bỏ rủi ro; đối với người đầu cơ lại muốn đánh cuộc trên những biến động giá cả của sản phẩm chính, họ dùng nghiệp vụ này như một đòn bẩy đặc biệt; đối với người cơ lợi ( thực hiện lợi nhuận mà không có rủi ro) bằng cách sư dụng chênh lêch giá giữa các thị trường tài chính khác nhau, họ đã sử dụng rất hiệu quả các nghiệp vụ phái sinh để hưởng chênh lệch giá. Dưới đây xin đề cập đến một số nghiệp vụ phái sinh chuẩn và không chuẩn hay còn gọi là công cụ phái sinh độc lập và công cụ phái sinh “được gắn thêm” hiện đang được giao dịch phổ biến trên thị trường tài chính quốc tế. 1. Một số công cụ phái sinh độc lập: Hợp đồng mua bán trước(còn gọi là công cụ kỳ hạn): Là một công cụ tài chính phái sinh đơn giản. Đó là một thoả thuận mua hoặc bán một tài sản ( hàng hoá hoặc các tài sản tài chính) tại một thời điểm trong tương lai với một giá đã xácđịnh trước. Đặc điểm của hợp đồng này là:  Thông thường hợp đồng này được thực hiện giữa các tổ chức tài chính (TCTC)với nhau, hoặc giữa TCTC với các khách hàng là doanh nghiệp phi tài chính (các hợp đồng này thường được ký kết song phương).  Trong hợp đồng này người mua được gọi là người giữ thế trường vị (long position), người bán được gọi là người giữ thế đoản vị (short position).  Hợp đồng này chỉ được thực hiện khi đáo hạn: Đến thời điểm đáo hạn người giữ vị thế đoản vị phải thực hiện bán tài sản cho người giữ vị thề trường vị và nhận một khoản tiền từ người mua với mức giá cả đã định trước trong hợp đồng, cho dù vào thời điểm đó giá thị trường của tài sản đó có cao hơn hoặc thấp hơn giá xác định trong hợp đồng. Nếu giá thị trường cao hơn giá hợp đồng thì người giữ vị thế trường vị sẽ có lãi (có giá trị dương), còn người giữ vị thế đoạn vị bị giá trị âm; và ngược lại. Hợp đồng mua bán trong tương lai: là một công cụ tài chính phái sinh, tương tự như hợp đồng mua bán trước, chỉ khác có một số điểm sau: Hợp đồng mua bán trong tương lai thường được ký kết và thực hiện hợp đồng thông qua một môi giới trên thị trường chứng khoán; và người mua và người bán thường không quen biết nhau, do vậy đơn vị môi giới thường đưa ra một số các tiêu chuẩn cho những hợp đồng này. Hiện nay, những thị trường chứng khoán mua bán hợp đồng trong tương lai là Hội đồng mậu dịch Chicago - Chicago Board of Trade( CBOT), Sở thương mai Chicago- Chicago Mercantile Exchange (CME) và Sở giao dịch các hợp đồng tương lai London. Các loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường chứng khoán mua bàn hợp đồng trong tương lai gồm, heo, bò ,đường, len ...., sản phẩm tài chính gồm, chỉ số chứng khoán, ngoại tệ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ. Ngày giao hàng không được xác định một cách chính xác như hợp đồng mua- bán trước, mà được qui định theo tháng và khoảng thời gian của tháng phải giao. Văn phòng thị trường chứng khoán (người môi giới) xác định khối lượng, chất lượng của hàng hoá giao dịch, cách giao hàng, giá hợp đồng, và cũng có thể xác định luôn giá trị hợp đồng mua bàn tương lai có thể thay đổi trong một ngày. Người mua, bán phải trả phí hoa hồng cho người môi giới, và giá rao bàn được xác định trên sàn giao dịch chứng khoán. Có hai loại thương nhân trên sàn giao dịch: Thứ nhất là những người môi giới ăn hoa hồng, họ sẽ thực hiện mua bán theo lệnh của nhà đầu tư và tính hoa hồng; thứ 2 là người tự đầu tư. Để tránh những rủi ro khi thực hiện hợp đồng mua bàn trong tương lai, do người mua, hoặc người bán tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi cho mình, hoặc do đến thời điểm thanh toán, người mua không có khả năng tài chính. Văn phòng chứng khoán phải đưa ra những qui định về yều cầu dự trữ tối thiểu đối với người ký hợp đồng tương lai với nhà môi giới. Khoản tiền dự trữ này được giữ tại một tài khoản của người đầu tư mở tại văn phòng chứng khoán. Ví dụ: Giả sử vào tháng 3 bạn gọi cho nhà môi giới của bạn tại CBOT, và yêu cầu ông ta mua cho bạn 100 lượng vàng vào thời điểm tháng 7. Những sự việc gì sẽ xẩy ra sau lệnh của bạn: - Bước 1, người môi giới sẽ chuyển lệnh của bạn cho một đại diện tại CBOT. ở đây lênh này sẽ do một người đưa tin chuyển đến cho một thương nhân của bàn giao dịch. Người này sẽ cố tìm giá tốt nhất trên thị trường và ra dầu hiệu bằng tay cho các thương nhân biết rằng có người muốn mua một hợp đồng vàng tương lai với giá như vậy. - Bước 2, Nếu có một thương nhân (bên bán) chấp nhận với mức giá và thời gian bán như vậy, thì là đã kết thúc thương thuyết.Sau đó người ta sẽ thông báo cho bạn biết thông qua người môi giới của bạn là hợp đồng đã đựoc ký kết. Kết thúc một hợp đồng tương lai, hiếm khi được diễn ra như ký kết ban đầu, mà thường xảy ra sự hoàn đổi trong suốt thời gian đáo hạn: Nếu như một người đầu tư ở thế trường vị đối với một hợp đồng tương lai mua vàng vào tháng 7, nhưng vào ngày 6/3, anh ta có thể kết thúc vị trí này vào ngày 20/4 bằng cách chọn vị trí đoản vị đối với hợp đồng bán vàng vào tháng 7. Vào ngày 6/3 nếu một người ở vị trí đoản vị đối với hợp đồng tương lai vào tháng 7 anh ta có thể kết thúc hợp đồng này vào ngày 20/4 bằng cách chọn vị trí trường vị vào tháng 7. Trong cả 2 trường hợp tiền lời hay lỗ của người đầu tư phản ánh những thay đổi của giá cả giữa ngày 6/3 với ngày 20/4. Trong hoạt động ngân hàng, các ngân hàng đã sử dụng nhiều nghiệp vụ này trong kinh doanh chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư để phòng chống rủi ro do biến động lãi suất trong tương lai. Để hạn chế rủi ro biến động lãi suất trong tương lai, nhìn chung đòi hỏi các ngân hàng phải giữ vị thế trên thị trường trong tương lai đối nghịch với vị thế hiện thời trên thị trường giao ngay. Bởi vậy, một ngân hàng có kế hoạch mua trái phiếu “ tạo thế trường” trên thị trường giao ngay có thể bảo vệ được giá trị của những trái phiếu này bằng việc ký hợp đồng bán trái phiếu trên thị trường tương lai tạo vị thế đoản.nếu ngay sau đó, giá trái phiếu giảm trên thị trường giao ngay, thì sẽ có một khoản lợi nhuận được bù đắp xuất hiện từ thị trường tương lai và điều này giúp cho ngân hàng tối thiểu hoá tổn thất gây ra do biến động lãi suất. Hợp đồng quyền chọn (quyền chọn mua hoặc bán): Là một sản phẩm tài chính phái sinh rất được ưa chuộng. Hợp đồng quyền chọn cổ phiếu được thực hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1973, từ đó thị trường này phát triển tăng vọt và ngày nay được thực hiện trên khắp thị trường tài chính thề giới. Hợp đồng quyền chọn được thực hiện với các hoạt động mua, bán: Cổ phiếu, chỉ số thị trường chứng khoán, ngoại tệ, công cụ nợ, các hợp đồng mua bán tương lai và hàng hoá. Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng quyền chọn mua (call option)và hợp đồng quyền chọn bán (put option). Hợp đồng quyền chọn mua là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền mua sản phẩm từ một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng. Còn hợp đồng quyền bán là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền bán sản phẩm cho một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng. Đặc điểm của hợp đồng lựa chọn: Khác với hợp đồng mua bàn trước và hợp đồng mua bán tương lai hợp đồng quyền chọn không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm. Hợp đồng chỉ quy định quyền giao hay nhận, mà không bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của mình. Người mua quyền có thể: Thực hiện quyền, hay bán quyền cho một người mua khác; hay không thực hiện quyền . Để có quyền này, khi ký hợp đồng, người cầm hợp đồng phải trả quyền phí ; giá trong hợp đồng được gọi là giá thực hiện hay là giá nổ (Strike price); ngày định trong hợp đồng gọi là ngày đáo hạn hay hày thực hiện. Có hai kiểu thực hiện hợp đồng quyền chọn, đó là thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ và theo kiểu châu Âu. Theo kiểu Mỹ là thực hiện quyền chọn vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày đáo hạn. Theo kiểu châu Âu là thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn. Hiện nay trên các thị trường chứng khoán hầu hết thực hiện theo kiểu Mỹ. Ví dụ: Một người đầu tư mua 100 cổ phiếu IBM dưới hình thức hợp đồng lựa chọn kiểu châu âu với giá định trước là 100 USD/1 cổ phiếu, ngày đáo hạn là 2 tháng và quyền phí là 5 USD. Giả sử đến ngày đáo hạn giá cổ phiếu cổ phiếu thấp hơn 100 USD, thì nhà đầu tư có thể sẽ từ chối không mua và chịu mất 500 USD quyền phí (5x100). Trong trường hợp giá cao hơn nhà đầu tư sẽ thực hiện hợp đồng. Một điểm đáng chú ý là: trong khi người mua hợp đồng lựa chọn call mong muốn giá của sản phẩm hợp sẽ tăng lên trong ngày đáo hạn thì người mua hợp đồng lựa chọn Put lại hy vọng giá xuống. Nếu cao hơn giá định trước họ sẽ từ chối quyền bán và chịu mất quyền phí. Tất nhiên sự từ chối hay không từ chối quyền khi giá ngày đáo hạn cao (hay thấp) hơn giá nổ sẽ được các nhà đầu tư tính toán trên cơ sở mức độ chênh lệch giữa giá định trước với giá ngày đáo hạn và quyền phí. Các hợp đồng quyền chọn thường được giao dịch trên thị trường chứng khoán hoặc thị trường phi chính thức. Hiện nay, chủ yếu các hợp đồng quyền chọn được mua bán rộng rãi tại văn phòng thị trường chứng khoán( Chicago board Option Exchange–CBOE, Philadelphia Exchange–PHLX, The American Stock Exchange–AMEX, The Pacific Stock Exchange–PSE, The New York Stock Exchange–NYSE...). Việc mua bán dưới hình thức hợp đồng chọn tại các văn phòng thị trường chứng khoán có nhiều khía cạnh giống như mua bán hợp đồng tương lai. Văn phòng thị trường chứng khoán phải xác định rõ các điều kiện, mức độ, thời gian đáo hạn và ấn định giá của hợp đồng quyền chọn được mua bán trên thị trường của họ.Và để giảm rủi ro của việc thực hiện hợp đồng, lúc mua sản phẩm (cổ phiếu chẳng hạn), người đầu tư mở tài khoản dự trữ bắt buộc với người môi giới của họ, mức độ dự trữ tuỳ thuộc vào loại hàng hoá được giao dịch và tuỳ vào từng tình huống cụ thể.Đồng thời, cũng có những quy định để kiểm soát thị trường hợp đồng quyền chọn, như những qui định kiểm soát ứng xử của thương nhân, của những người tạo lập thị trường. Nghiệp vụ hoán đổi: là một hợp đồng trong đó hai bên thoả thuận trao đổi nghĩa vụ thanh toán. Thông thường giao dịch này bao gồm các thanh toán lãi, và trong một số trường hợp là thanh toán nợ gốc. Giao dịch hoán đổi lãi suất và hoán đổi ngoại tệ là sản phẩm của thị trường phi tập trung (OTC) được kết hợp trực tiếp giữa hai ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với khách hàng. Theo đó không có mẫu chuẩn của hợp đồng giao dịch hoán đổi và các hợp đồng kiểu này sẽ khác nhau về một số nội dung. Trước khi các giao dịch hoán đổi xuất hiện, bên vay và bên cho vay thường bị giới hạn ở lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi, cấp vốn hoặc cho vay trên cơ sở tiền mặt. Nhà đầu tư hoặc ngân hàng sẽ gặp phải sự không tương xứng về lãi suất giữa tài sản có và tài sản nợ. Ví dụ công ty vay lãi suát cố định , nhưng lại đầu tư vào thị trường lãi suất thả nổi, chắc chắn sẽ bị lỗ khi lãi suất giảm do không có khoản tăng thu nhập từ tài sản có lãi suất thả nổi. Giao dịch hoán đổi được tạo ra để xử lý những sự không tương xứng này, tạo cho ngân hàng, doanh nghiệp kiểm soát tốt hơn các dòng lưu chuyển tiền tệ của mình. Khi mới xuất hiện công cụ này vào đầu thập kỷ 1980, các ngân hàng dàn xếp các giao dịch hoán đổi cho các bên cụ thể có nhu cầu cần bổ sung cho nhau. Các ngân hàng thu được phí do làm đại diện trong các giao dịch này. Thị trường càng phát triển, ngân hàng tham gia với vai trò chủ chốt, thực hiện những bù trừ tất cả các trạng thái với các bên ngang nhau và đối nghịch. Thu nhập được tạo ra từ sự chênh lệch giữa lãi suất hoán đổi thanh toán và nhận được, hoặc phí trả trước để giàn xếp. 2. Các công cụ phái sinh không chuẩn (được gắn thêm): Những năm gần đây, trên thị trường tài chính đã suất hiện nhiều công cụ tài chính phái sinh khác được thiết kế dựa trên những nguyên lý cơ bản của các công cụ tài chính quyền chọn (call, put) và hợp đồng mua bán tương lai, gọi là hợp đồng lựa chọn Exotics, hay còn gọi là những công cụ phái sinh không chuẩn. Các ví dụ sau cso thể minh hoạ phần nào về công cụ phái sinh không chuẩn: Ví dụ 1: Về trái phiếu của Standard Oils Năm 1986 công ty Standard Oils phát hành loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi suất, nhưng đến ngày đáo hạn người mua 1000 USD trái phiếu sẽ nhận được một số tiền phụ trội dựa trên giá của xăng dầu lúc đó. Số tiền phụ trội này bằng tích số của 170 với mức giá dầu tăng vượt mức 25 USD/thùng, tuy nhiên mức giá vượt lên không quá 40 USD/thùng. Tức lợi tức nhận được tối đa là 2.250 USD với 1000 USD trái phiếu. Trường hợp giá dầu không tăng thì người mua chỉ nhận được gốc trái phiếu khi đến ngày đáo hạn. Ví dụ 2:Trái phiếu ICON Năm 1985, tổ chức ngân hàng Banker Trust đã phát hành một loại trái phiếu mang tên ICONs (Index currency notes). Lợi tức thu được từ trái phiếu này phụ thuộc vào tỷ giá với ngoại tệ. Ngân hàng thỏa thuận trước với người mua trái phiếu 2 mức tỷ giá X1 và X2 (X1>X2). Nếu đến ngày đáo hạn, tỷ giá lớn hơn X1 thì người mua trái phiếu sẽ nhận được toàn bộ số tiền như đã thoả thuận trước, nếu tỷ giá nhỏ hơn X2 người chủ trái phiếu không nhận được một đồng nào ngoài tiền gốc. Nếu tỷ giá trong khoảng X1 và X2 sẽ nhận được một phần nhỏ lợi tức nào đó. Ví dụ 3: Hợp đồng lựa chọn trước trong một khoảng định Hợp đồng loại này thường được sử dụng trong mua bán ngoại tệ. Một hợp đồng mua bán trước khoảng định là quyền chọn mua ( hoặc bán) trong giới hạn dao động tỷ giá định trước. Giả sử ngày 8/5/2005 một công ty Hoa kỳ sẽ cần đồng bảng anh trong vòng 90 ngày nữa. Công ty này có thể ký một hợp đồng mua trước khoảng định bảng anh quanh mức tỷ giá 1,6056 trong 90 ngày nữa. Theo hợp đồng này, tỷ giá được đặt dao động quanh mức 1,6056 (từ mức 1,5700 đến 1,6400). Nếu đến ngày đáo hạn tỷ giá nhỏ hơn 1,570 công ty sẽ trả theo mức tỷ giá 1,5700; nếu giá nằm trong khoảng 1,570-1,6400, công ty sẽ trả theo thời giá; nếu thời giá lớn hơn 1,6400 công ty sẽ trả bằng mức 1,6400. Hiện nay trên thị trường tài chính xuất hiện rất nhiều các loại công cụ phái sinh không chuẩn, như hợp đồng lựa chọn bắt đầu trong tương lai, là loại hợp đồng ta phải trả ngay, nhưng chỉ bắt đầu tại thời điểm nào đó trong tương lai; hợp đồng lựa chọn hỗn hợp là hợp đồng lựa chọn dựa trên các hợp đồng lựa chọn. Có 4 loại hợp đồng hỗn hợp chính: Call dựa trên Call, Put đựa trên Call, Put dựa trên Put, Call dựa trên Put; hợp đồng lựa chọn có dào; giao dịch hoán đổi lãi suất chéo Cross Currency Swap - CCS là loại nghiệp vụ phái sinh cơ bản giúp cho khách hàng có khả năng phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất. Có thể mô tả qui trình đó như sau: Bên A và bên B ký hợp đồng CCS với nội dung như sau: + Số tiền 10 triệu USD, + Tỷ giá 1 USD = 15.800 VND. + Ngày hiệu lực 1/6/2005; + Ngày đáo hạn 1/6/2010 + Lịch trình dòng tiền: 3 tháng một lần, chia đều suốt thời hạn 5 năm + Lãi suất: Bên A trả 8% trên 158 tỷ VND, Bên B trả Libor 3 tháng trên 10 triệu USD. Định kỳ trả lãi 3 tháng một lần. Hợp đồng CCS có thể có hoặc không có trao đổi ban đầu, nhưng nhất thiết phải có trao đổi cuối cùng, hai bên có thể thoả thuận trả lãi suất cố định hay thả nổi tuy theo yêu cầu. Sơ đồ dòng tiền. (1) Trao đổi ban đầu ( tỷ giá 1 USD = 15.800 VND) vào ngày 1/6/2005. Bên A chuyển cho NH ( bên B) 10 triệu USD, Bên B chuyển cho Bên A 158 tỷ VND. (2) Sự trao đổi cuối cùng (tỷ giá 1 USD = 15.800 VND) bắt đầu ngày 1/9/2005 cứ 3 tháng 1 lần cho đến 1/6/2010. Tổng cộng có 20 lần trao đổi. - Bên A chuyển cho bên B 7,9 tỷ VND, Bên B chuyển cho bên A 0,5 triệu USD; - Lãi suất Bên A trả cho Bên B là 8%/năm, Bên B trả cho bên A lai suất Libor 3 tháng. Trên thực tế ở các nước trong khu vực, hợp đồng CCS như dạng trên rất phổ biến và giúp cho khách hàng phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất. - Hợp đồng quyền chọn lãi suất chặn trên và chặn hai đầu + Quyền chọn lãi suất chặn trên tối đa : được áp dụng khi khách hàng vay vốn theo lãi suất thả nổi nhưng không phải trả vượt quá một mức lãi suất được xác định trước. Đến thời điểm đáo hạn nếu lãi suất thực tế vượt mức lãi suất xác định trước, khách hàng chỉ phải trả lãi suất theo mức đã xác định trước trong hợp đồng. Trường hợp lãi suất hiện thời thấp hơn lãi suất xác định trước khách hàng trả theo lãi suất hiện thời. Để có quyền này, khách hàng phải trả một mức phí nhất định theo thoả thuận. + Quyền chọn chặn hai đầu, được áp dụng khi khách hàng vay lãi suất thả nổi với mong muốn phải trả lãi suất trong một khung xác định trước. - Nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ- Dual currency Deposit. Nghiệp vụ này có thể được mô tả như sau: + Khách hàng và TCTD thoả thuận với nhau về một giao dịch tiền gửi thông thường kèm theo một hợp đồng quyền chọn, theo đó đến ngày đáo hạn, nếu tỷ giá đồng tiền thấp hơn (hoặc cao hơn) tỷ giá thoả thuận ban đầu thì người gửi tiền sẽ nhận được tiền gốc và tiền lãi bằng đồng tiền đã gửi ban đầu; nếu tỷ giá lớn hơn (hoặc thấp hơn) mức tỷ giá thoả thuận ban đầu thì người gửi tiền sẽ nhận tiền gốc và tiền lãi bằng đồng tiền khác theo tỷ giá và loại đồng tiền do khách hàng và TCTD thoả thuận ban đầu. + Có kỳ hạn cố định và thường là ngắn hạn; + Lãi suất của loại tiền gửi này có thể cao hơn lãi suất tiền gửi thông thường cùng kỳ hạn và gắn với quyền chọn tiền tệ có thể phát sinh rủi ro Trên thị trường tài chính ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh bắt đầu xuất hiện khoảng 5 năm trước đây và đến nay xuất hiện nhiều loại công cụ phái sinh chuẩn và không chuẩn đang được thực hiện.Tuy nhiên, cơ sở pháp lý các các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn lẻ, ngoại trừ giao dịch hoán đổi lãi suất đã có qui chế của NHNN ( Quyết định sso 1133/2003/QĐ - NHNN, ngày 30/9/2003 ban hành kèm theo qui chế). Đồng thời số lượng các giao dịch còn ít khoảng gần 15 hợp đồng hoán đổi lãi suất và một số ít hợp đồng phái sinh không chuẩn khác đã được cho phép thực hiện( trong số đó có một số giao dịch đã chưa phát sinh giao dịch). Có thể liệt kê một số TCTD đã được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện: - Ngân hàng Citibank thực hiện thí điểm hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền từ ngày 1/3/2005 đến 2/2006. - Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa 2 đồng tiền chéo (Cross Currency Swap- CCS) đối với khoản vay ngoại tệ của khách hàng sau khi khách hàng vay ngoại tệ;thực hiện cung cấp sản phẩm gắn với rủi ro tín dụng- lãi suất cơ cấu cho tiền gửi và giấy tờ có giá, theo đó lãi suất của khách hàng được hưởng sẽ không cố định mà nằm trong một khoảng giao động nhất định và phụ thuộc vào sự biến động của một số yếu tố thị
Tài liệu liên quan