Theo nghĩa gốc, “Nghiệp vụ thị trường mở” (Open Market Operations - OMO) là các hoạt động giao dịch chứng khoán của NHTW trên thị trường mở. Qua đó, NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của HTNH và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng thông qua tác động cả về mặt lượng và về mặt giá. Về mặt thực tế, OMO là hành vi giao dịch của NHTW trên thị trường mở. Xét về hình thức, thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng khoán nợ ngắn và dài hạn.
Tuy nhiên, thị trường mở ở các nước có sự khác nhau về phạm vi, loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường. Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm các chứng khoán nợ ngắn hạn và những người tham gia chỉ gồm các tổ chức tín dụng. Còn ở Mỹ hoặc Đức cho phép giao dịch cả các chứng khoán dài hạn trên thị trường mở. Sự khác nhau về đối tượng và chủ thể giao dịch sẽ quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước.
25 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2221 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiệp vụ thị trường mở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
Chương 1: Lý luận chung về nghiệp vụ thị trường mở
Khái quát nghiệp vụ thị trường mở:
Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở:
Theo nghĩa gốc, “Nghiệp vụ thị trường mở” (Open Market Operations - OMO) là các hoạt động giao dịch chứng khoán của NHTW trên thị trường mở. Qua đó, NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của HTNH và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng thông qua tác động cả về mặt lượng và về mặt giá. Về mặt thực tế, OMO là hành vi giao dịch của NHTW trên thị trường mở. Xét về hình thức, thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng khoán nợ ngắn và dài hạn.
Tuy nhiên, thị trường mở ở các nước có sự khác nhau về phạm vi, loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường. Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm các chứng khoán nợ ngắn hạn và những người tham gia chỉ gồm các tổ chức tín dụng. Còn ở Mỹ hoặc Đức cho phép giao dịch cả các chứng khoán dài hạn trên thị trường mở. Sự khác nhau về đối tượng và chủ thể giao dịch sẽ quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước.
Theo Luật NHNN Việt Nam, OMO là việc mua bán giấy tờ có giá (GTCG) ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các GTCG ngắn hạn khác.
Sự ra đời và phát triển nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng đầu tiên bởi Ngân hàng Anh từ những năm 30 của TK19, khi mà lãi suất tái chiết khấu được sử dụng như một công cụ chủ yếu kiểm soát lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, công cụ này tỏ ra kém hiệu lực khi lãi suất thị trường tiền tệ giảm liên tục vượt khỏi sự chi phối của lãi suất tái chiết khấu. Điều này thúc đẩy Ngân hàng Anh tìm kiếm công cụ hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo mong muốn. Cách thức đầu tiên được áp dụng nhằm tăng lãi suất thị trường là:
Bán chứng khoán chính phủ và hứa mua lại vào một ngày xác định trong tương lai.
Vay trên thị trường - thực chất là một khoản vay từ người chiết khấu hoặc từ người môi giới với đảm bảo bằng chứng khoán chính phủ.
Bán hẳn các chứng khoán chính phủ.
Vay từ các Ngân hàng thương mại.
Vay từ người gửi tiền đặc biệt.
Cùng thời gian này, NHTW Thụy Sỹ cũng sử dụng nghiệp vụ bán chứng khoán Chính phủ nhằm thu hút lượng vốn khả dụng dư thừa. Vào năm 1913, Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ cũng sử dụng OMO như một công cụ bổ sung cho chính sách tái chiết khấu. Theo đó, lượng chứng khoán chính phủ nằm trong tay các NHTW tăng lên đặc biệt sau CTTC I khi OMO được sử dụng như công cụ để tài trợ cho các chi phí chiến tranh và các hoạt động điều chỉnh kinh tế sau chiến tranh.
Đến năm 1920, hiệu quả và tầm quan trọng của OMO ngày càng tăng, trở thành xu hướng ở hầu hết NHTW các nước. Điều này xuất phát từ: hạn chế chính sách tái chiết khấu, sự mở rộng và hoàn thiện của hệ thống thị trường tài chính, sự tăng lên của lượng chứng khoán chính phủ và các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
Cho đến nay OMO được sử dụng như một công cụ CSTT hiệu quả nhất ở hầu hết các NHTW của các nước.
Nội dung nghiệp vụ thị trường mở:
Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở:
Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác động đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTM và tiền gửi của khách hàng tại HTNH.
Sơ đồ cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng
NHTW bán GTCG
Dự trữ NH giảm
Dự trữ mở rộng cho vay giảm
Khối lượng TD giảm
MS giảm
Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG sẽ làm giảm số dư tiền gửi của họ tại HTNH. Kết quả là dự trữ của HTNH giảm tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Sự giảm sút dự trữ của HTNH sẽ làm giảm khả năng cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng tăng lên.
Về mặt giá - Tác động qua lãi suất
Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động mua bán hưởng chênh lệch giá về lãi suất, sẽ tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Từ đó, tác động đến tổng cầu AD và sản lượng của nền kinh tế.
Sơ đồ cơ chế tác động của OMO qua lãi suất
Cung TPKB tăng
NHTW bán TPKB
Dự trữ NH giảm
Đầu tư giảm
Cung của quỹ cho vay giảm
Lãi suất ngắn hạn tăng
Lãi suất thị trường tăng
Giá TPKB giảm
LS thị trường tăng
tăng
Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu AD và sản lượng.
Ví dụ, khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của HTNH. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay, khiến lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng, tác động làm tăng các lãi suất thị trường. Bên cạnh đó, việc NHTW bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở sẽ làm tăng cung, từ đó làm giảm giá tín phiếu kho bạc. Điều này làm tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc có xu hướng tăng, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường tăng lên. Khi đó, chi phí cơ hội đối với người có vốn dư thừa và giá vốn đầu tư đối với người thiếu hụt vốn tăng, làm giảm nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng của xã hội, do đó giảm sản lượng, giá cả và công ăn việc làm, ảnh hưởng đến cung tiền.
Các nghiệp vụ trên thị trường mở:
Giao dịch giấy tờ có giá:
Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch mua bán hẳn):
Các giao dịch này bao gồm các nghiệp vụ mua, bán các GTCG của NHTW trên thị trường theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hắn quyền sở hữu đối với các đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ các Ngân hàng là dài hạn các giấy tờ đó phải là các công cụ nợ có mức rủi ro thấp và phải được phát hành bởi các tổ chức đủ điều kiện theo quy định.
Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn):
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi NHTW thực hiện một giao dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là nó mua chứng khoán từ người môi giới trên thị trường - người đồng ý mua lại vào một ngày trong tương lai. Giao dịch này tồn tại dưới dạng:
Thứ nhất, mua bán theo hợp đồng mua lại là việc NHTW ký hợp đồng mua các GTCG từ người giao dịch và người đó đồng ý mua lại vào một ngày xác định.
Thứ hai, mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược, tức là NHTW bán các GTCG cho người giao dịch và người đó đồng ý bán lại cho NHTW vào một ngày xác định.
Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong OMO. Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự tính trước đến dự trữ của Ngân hàng, chi phí giao dịch lại rẻ hơn so với hợp đồng mua đứt bán đoạn.
Giao dịch hoán đổi ngoại tệ:
Khi tham gia giao dịch, NHTW đồng thời ký hai hợp đồng và lấy ngoại tệ làm đối tượng trao đổi. Có thể mua bán ngoại tệ với tỷ giá giao ngay hoặc với tỷ giá có kỳ hạn.
Ngoài ra một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong OMO như: phát hành chứng chỉ nợ của NHTW, giao dịch hoán đổi các chứng khoán đến hạn.
Phương thức hoạt động nghiệp vụ thị trường mở:
Phương thức giao dịch song phương:
Là phương thức mà NHTW với người giao dịch giao dịch thẳng với nhau hoặc thông qua nhà môi giới, đại lý chứng khoán mà không mua bán thông qua hình thức đấu thầu.
Phương thức đấu thầu:
Đấu thầu khối lượng:
Là việc NHTW cho người giao dịch biết khối lượng cần can thiệp, NHTW mua hay bán niêm yết trước mức lãi suất, thời hạn các GTCG còn lại, loại giấy tờ,… Các tổ chức tham gia đấu thầu chỉ cần đăng ký trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất cho trước.
Đấu thầu lãi suất:
Các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng ký số tiền ứng với mức lãi suất mình chọn. Đối với đấu thầu nhằm cung ứng thêm vốn khả dụng, ưu tiên phân phối cho các mức lãi suất từ cao xuống. Có thể áp dụng hình thức một giá (kiểu Hà Lan) hoặc nhiều giá (kiểu Mỹ).
Chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở:
Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham gia thị trường phong phú với nhiều mục đích khác nhau.
Ngân hàng Trung ương:
NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị trường thông qua việc mua, bán các GTCG trị ngắn hạn nhằm cung cấp cho HTNH khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. NHTW sử dụng OMO trên cơ sở hoạch định CSTT. Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng kiểm soát và điều tiết hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở không phải để kinh doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó.
Ngân hàng thương mại:
Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để duy trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời qua thị trường này các NHTM thực hiện nghiệp cụ môi giới và kinh doanh chứng khoán.
NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì: NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận lượng vốn khổng lồ và dùng tiền gửi huy động được cho vay; NHTM là thành viên đặc biệt của thị trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng:
Gồm: công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư… Các tổ chức này coi thị trường mở là nơi kiếm thu nhập qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua, bán chứng khoán ngắn hoặc dài hạn. Các tổ chức này thường có khối lượng chứng khoán lớn, thường xuyên thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao với rủi ro thấp.
Kho bạc Nhà nước:
Kho bạc Nhà nước cung ứng hàng hoá cho thị trường mở như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Đồng thời, kết hợp với NHTW trong hoạt động của thị trường mở.
Các thành viên tham gia thị trường khác:
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn.
Các doanh nghiệp có nhu cầu bán chứng khoán để đổi ra tiền mặt hặc kiếm lời trong thời gian ngắn. Khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua các loại chứng khoán ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi… để kiếm lời.
Các hộ gia đình.
Hộ gia đình tham gia thị trường mở dưới hình thức: chuyển các GTCG ngắn hạn đang nắm giữ thành tiền mặt (tính lỏng mạnh nhất) và mua các chứng khoán phòng ngừa rủi ro, đầu tư vào GTCG nhờ vào sự thay đổi lãi suất dự đoán.
Các nhà giao dịch chuyên nghiệp.
Tham gia với tư cách là trung gian mua bán các chứng từ có giá trị giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất kinh doanh; các nhà đầu tư tư nhân; các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng. Họ kiếm lợi từ kinh doanh chênh lệch giá.
Hàng hóa trên thị trường mở:
Tín phiếu kho bạc (TB):
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của OMO ở hầu hết NHTW các nước vì:
- Có tính thanh khoản cao.
- Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn.
Bộ tài chính có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của chính phủ và sự hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nhà chức trách.
Chứng chỉ tiền gửi:
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài chính phi ngân hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất định - thường là ngắn hạn với mức lãi suất định trước. Chứng chỉ tiền gửi cung cấp một cách thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng. Tình ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là bảo đảm sự lưu thông của nó nên nó được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho OMO.
Thương phiếu:
Thương phiếu là chứng chỉ có giá, được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung vốn ngắn hạn, ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm thương phiếu có tính chuyển nhượng cao, dễ dàng được chấp nhận trong thanh toán. Việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại NHTM.
Trái phiếu chính phủ:
Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính phủ được sử dụng phổ biến trong OMO bởi tính an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.
Trái phiếu chính quyền điạ phương:
Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu.
Các hợp đồng mua lại:
Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được sử dụng làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán.
Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá do: cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt là dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi cơ cấu hàng hoá trên thị trường mở.
Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở:
Đối với ngân hàng trung ương:
Thứ nhất, OMO là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng nhất của NHTW nhiều quốc gia giúp thay đổi cung - cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ. Thông qua việc mua bán GTCG tại thị trường mở, NHTW có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ trong HTNH và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung ứng. Như vậy, OMO đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công cụ mang tính trực tiếp trong điều hành CSTT.
Thứ hai, thông qua mua bán GTCG trên thị trường mở, NHTW cấp tín hiệu về định hướng điều hành CSTT trong tương lai là nới lỏng hay thắt chặt. Đặc biệt, khi thực hiện OMO thường xuyên và hiệu quả, lãi suất thị trường mở có ý nghĩa quan trọng trong định hướng, chỉ đạo lãi suất thị trường, qua đó NHTW có thể hạn chế biến động của lãi suất.
Thứ ba, OMO do NHTW chủ động khởi xướng, khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của NHTW thường do các ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. Như vậy, NHTW có thể chủ động thực hiện OMO theo định kỳ hoặc vào thời điểm cần thiết. OMO có thể được thực hiện linh hoạt xét trên góc độ về khối lượng cũng như thời gian giao dịch. NHTW có thể thực hiện OMO ở quy mô lớn/nhỏ (khối lượng mua bán GTCG lớn/nhỏ) với thời hạn dài/ngắn tuỳ theo quyết định mua/bán GTCG.
Thứ tư, OMO khắc phục được những hạn chế của các công cụ kiểm soát tiền tệ trực tiếp và các công cụ gián tiếp khác. Khác với công cụ tái cấp vốn, OMO cho phép NHTW bơm thêm hoặc rút tiền ra từ lưu thông. Mặt khác, NHTW chủ động hơn trong việc điều tiết lưu thông dựa trên tính toán và dự báo vốn khả dụng cũng như lượng tiền cung ứng.
Đối với các đối tác của ngân hàng trung ương:
Thứ nhất, OMO giúp hoạt động quản lý và sử dụng vốn khả dụng của ngân hàng chủ động và linh hoạt hơn. Các ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để đầu tư vào các GTCG để thu được lợi tức và đáp ứng nhu cầu dự trữ thứ cấp. Khi cần thiết, các ngân hàng có thể bán lại các GTCG này trên thị trường mở để giải quyết khó khăn về nguồn vốn. Bên cạnh đó, những điều kiện về chủng loại và chất lượng các GTCG được giao dịch sẽ gián tiếp làm thay đổi danh mục đầu tư GTCG, cải thiện cơ cấu sử dụng vốn, làm giảm dự trữ không sinh lợi và cải thiện bảng tổng kết tài sản của ngân hàng.
Thứ hai, OMO góp phần đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD. Các TCTD không chỉ thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống như cho vay, bảo lãnh, dịch vụ … mà còn thực hiện nghiệp vụ kinh doanh mới là mua bán các GTCG.
Thứ ba, các ngân hàng tự nguyện tham gia OMO theo nguyên tắc thị trường, không mang tính chất bắt buộc như DTBB. Lãi suất trên thị trường mở cũng mang tính chất thị trường chứ không bị áp đặt như trong công cụ chiết khấu GTCG của NHTW.
Đối với nền kinh tế:
Thứ nhất, góp phần làm tăng tính thanh khoản cho các GTCG, góp phần thúc đẩy thị trường tài chính phát triển, tạo điều kiện cho các trung gian tài chính thu hút vốn, đồng thời thay đổi thói quen tiết kiệm, tiêu dùng của các hộ gia đình trong nền kinh tế.
Thứ hai, sự phát triển của thị trường mở tác động mạnh đến sự hoàn thiện và phát triển của thị trường liên ngân hàng.
Thứ ba, với quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam phải thực hiện cam kết yêu cầu của các tổ chức tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế hay các quốc gia phát triển, trong đó có yêu cầu về cải cách HTNH, nâng cao tính minh bạch trong các hoạt động của NHTW. Vì vậy, việc sử dụng OMO là một điều kiện cần thiết để hội nhập nền kinh tế vào khu vực và thế giới.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thị trường mở giai đoạn 2008 – 2012
Trong những năm qua NHNN điều hành chủ động, linh hoạt các công cụ CSTT để đảm bảo kiềm chế lạm phát, đặc biệt trong đó, OMO được sử dụng khá hiệu quả để đảm bảo mục tiêu thực hiện chính sách. OMO chính thức vận hành vào 12/7/2000, ghi nhận việc chuyển điều hành CSTT từ công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp của NHNN Việt Nam. Quy chế hoạt động OMO được ban hành theo quyết định số 85/QĐ – NHNN ngày 9/3/2000. Từ khi ra đời đến nay hoạt động OMO đã khẳng định đây là một công cụ gián tiếp của CSTT giúp NHNN can thiệp nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn 2008- 2012 vai trò này càng được thể hiện rõ.
Dưới đây là bảng tổng hợp tình hình hoạt động của OMO thể hiện qua việc cung ứng và hấp thụ của thị trường mở cũng như doanh số giao dịch qua thị trường mở từ năm 2008 – T6/2011
Biểu đồ 1: Tình hình hoạt động của NV thị trường mở từ năm 2008 – T6/2011
Đơn vị : tỷ đồng Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 1: Doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở từ năm 2008 đến T6 – 2011
Năm
Doanh số mua
Doanh số bán
Tổng doanh số giao dịch
% so với năm trước
Số phiên
Doanh số bình quân /phiên
2008
947.205,900
88.859
1.036.066
260,1%
402
2.577
2009
966.880,460
100,162
966.980
329
2.939
2010
2.101.420,401
7.294,919
2.108.715
211,5%
491
3.240
Nửa đầu 2011
2.300.062
0
2.300.062
241
9.544
Đơn vị: tỷ đồng Nguồn: Tổng cục thống kê
Để làm rõ hoạt động của OMO qua các năm chúng ta đi xem xét điều kiện kinh tế cũng như hoạt động của thị trường mở theo từng năm cụ thể như sau:
Năm 2008:
Năm 2008, OMO được điều hành linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các công cụ CSTT khác để điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng ở mức hợp lý, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Các giao dịch OMO được thực hiện hàng ngày, chủ yếu được thực hiện theo phương thức đầu thầu khối lượng, công bố lãi suất nhằm ổn định thị trường.
Trong năm 2008 OMO tăng cả về số phiên giao dịch và doanh số giao dịch so với năm 2007. Nghiệp vụ mua GTCG chiếm đến 64,67% tổng phiên giao dịch với doanh số trúng thầu 91,42%, chủ yếu là giao dịch mua có kỳ hạn và giao dịch bán hẳn chỉ còn 76.837 tỷ đồng giảm 4,6 lần so với năm 2007.
Bảng 2: Kết quả giao dịch nghiệp vụ thị trường mở năm 2008
Loại giao dịch
Số phiên
Tổng số dự kiến
Khối l