Tóm tắt
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, mục đích của ngoại giao văn hóa Nhật Bản là nhằm tăng
cường sự hiểu biết với các quốc gia láng giềng, giới thiệu, quảng bá các giá trị văn hóa truyền thống
của mình tới toàn thế giới, tạo sức mạnh mềm để đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị. Xuất bản
phẩm được Nhật Bản coi là một công cụ của ngoại giao văn hóa, bên cạnh các công cụ khác như
truyền thông đại chúng, nghệ thuật, giáo dục. Cùng với việc chuyển giao các xuất bản phẩm (như:
sách giới thiệu về đất nước, con người, văn hóa; tác phẩm văn học; đặc biệt là truyện tranh), Nhật Bản
còn tổ chức các hoạt động bổ trợ: triển lãm sách, các lễ hội văn hóa. Mặt khác, ngoại giao văn hóa còn
là hoạt động của các tổ chức phi chính phủ: các nhà xuất bản Nhật Bản hợp tác với các nhà xuất bản
Việt Nam và Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngoại giao văn hóa nhật bản với Việt Nam thông qua xuất bản phẩm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51Số 23 - Tháng 3 - 2018
VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
NGOẠI GIAO VĂN HÓA NHẬT BẢN VỚI VIỆT NAM
THÔNG QUA XUẤT BẢN PHẨM
PHẠM MINH QUÂN
Tóm tắt
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, mục đích của ngoại giao văn hóa Nhật Bản là nhằm tăng
cường sự hiểu biết với các quốc gia láng giềng, giới thiệu, quảng bá các giá trị văn hóa truyền thống
của mình tới toàn thế giới, tạo sức mạnh mềm để đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị. Xuất bản
phẩm được Nhật Bản coi là một công cụ của ngoại giao văn hóa, bên cạnh các công cụ khác như
truyền thông đại chúng, nghệ thuật, giáo dục. Cùng với việc chuyển giao các xuất bản phẩm (như:
sách giới thiệu về đất nước, con người, văn hóa; tác phẩm văn học; đặc biệt là truyện tranh), Nhật Bản
còn tổ chức các hoạt động bổ trợ: triển lãm sách, các lễ hội văn hóa. Mặt khác, ngoại giao văn hóa còn
là hoạt động của các tổ chức phi chính phủ: các nhà xuất bản Nhật Bản hợp tác với các nhà xuất bản
Việt Nam và Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam.
Từ khóa: Ngoại giao văn hóa, xuất bản phẩm, Nhật Bản
Abstract
In the current trend of globalization, the purpose of Japanese cultural diplomacy is to enhance
understanding with neighboring countries, introduce and promote their traditional cultural values to
the world, create soft power to achieve economic and political goals. The publication is considered as
a tool of cultural diplomacy, along with others such as media, arts, and education. In addition to the
distribution of publications (such as introductory books on the country, people, culture, literary works,
especially comics), Japan also organizes the following activities: books exhibition, cultural festivals. On
the other hand, cultural diplomacy is also the activity of non-governmental organizations: Japanese
publishers cooperate with Vietnamese publishers and the Japan Foundation Center for Cultural
Exchange in Vietnam.
Keywords: Cultural diplomacy, publication, Japan
1. Đặt vấn đề
Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã lựa chọn ngoại giao văn hóa để thay đổi và cải thiện hình
ảnh quốc gia của mình – từ một nước theo
chủ nghĩa quân phiệt tham gia chiến tranh
trở thành một quốc gia dân chủ yêu hòa bình,
phát triển mạnh về kinh tế, khoa học kỹ thuật.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, mục đích
của ngoại giao văn hóa Nhật Bản là nhằm tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau với các quốc gia
láng giềng; giới thiệu, quảng bá các giá trị
văn hóa truyền thống của mình tới toàn thế
giới; phát huy vai trò sức mạnh mềm, nhằm
đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị.
Mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã trải qua
một chặng đường lịch sử khá dài. Nhật Bản đã
coi sự hợp tác với Việt Nam như là một nhiệm
vụ chiến lược. Năm 2006 được đánh dấu bởi
sự kiện nguyên thủ hai quốc gia ra tuyên bố
chung hướng tới đối tác chiến lược vì hòa bình
Số 23 - Tháng 3 - 201852
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
và phồn vinh của châu Á .1
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, mục đích
chính của bài viết này là khẳng định xuất bản
phẩm như một công cụ của ngoại giao văn
hóa Nhật Bản, bên cạnh các công cụ khác như
truyền thông đại chúng, các loại hình nghệ
thuật, trao đổi về văn hóa và giáo dục. Ngoại
giao văn hóa Nhật Bản được thể hiện qua nội
dung các xuất bản phẩm nhằm giới thiệu giá
trị văn hóa Nhật Bản; qua tác phẩm văn học
và truyện tranh; đồng thời qua các hoạt động
bổ trợ như tổ chức triển lãm sách và các lễ hội.
Mặt khác, Nhật Bản còn coi trọng ngoại giao
văn hóa gắn liền với ngoại giao nhân dân với
sự tham gia của các chủ thể ngoài nhà nước.
2. Ngoại giao văn hóa Nhật Bản xét trên
quan điểm ngoại giao nhân dân
Ngoại giao văn hóa (cultural diplomacy) là
một thuật ngữ chỉ một loại sức mạnh mềm,
bao gồm “trao đổi những tư tưởng, thông tin,
nghệ thuật và các khía cạnh khác của văn hóa
giữa các quốc gia và người dân của họ để tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau.” (4, tr.1)
Ngoại giao văn hóa trên thế giới hiện nay
được các học giả khái quát thành ba trường
phái chính.
Trường phái thứ nhất đặt ngoại giao văn
hóa trong mối quan hệ với tuyên truyền
(propaganda). Minh chứng điển hình nhất
cho trường phái này là xu hướng ngoại giao
văn hóa của Liên Xô từ thập niên 20 của thế kỷ
XX. Ở đây, ngoại giao văn hóa được đặt trong
hoạt động tuyên truyền văn hóa: tổ chức các
chuyến lưu diễn của các nghệ sĩ, học giả Liên
Xô, các buổi trưng bày nghệ thuật ở nước
ngoài, đón chào các nhà báo nước ngoài và
đại diện của các tổ chức nhân quyền quốc tế
đến Liên Xô. Đối với các nhà lãnh đạo Liên Xô,
văn hóa nghệ thuật đóng vai trò quyết định
trong chính sách đối ngoại và là một công cụ
quan trọng để truyền bá tư tưởng cũng như
những giá trị văn hóa của đất nước. Trong thời
gian xảy ra chiến tranh lạnh, các vở diễn ballet
kinh điển của nhà hát Bolshoi như Romeo và
Juliet, Hồ thiên nga, Giselle đã được tổ chức
tại Mỹ, bắt đầu từ năm 1959, như một cách để
cải thiện quan điểm của người dân Mỹ về Liên
Xô. Ba nhà nghiên cứu Jean-François Fayet,
Rósa Magnúsdóttir và James R. Vaughan đánh
giá: trường phái này sử dụng văn hóa như một
“công cụ của chính sách nhà nước” với sự tham
gia hạn chế của các chủ thể tư nhân ngoài nhà
nước.
Một phái sinh khác của trường phái này
diễn ra ở Trung Quốc: ngoại giao văn hóa được
thể hiện theo quan điểm hạn chế, chỉ trong
khuôn khổ “ngoại giao nhà nước”. Quan điểm
này cho rằng chủ thể của ngoại giao văn hóa
phải là nhà nước, các chính sách và hoạt động
đối ngoại đều do nhà nước thực hiện. Điều
đó đồng nghĩa với việc không có sự tham gia
của các chủ thể ngoài nhà nước trong ngoại
giao văn hóa. Một học giả Trung Quốc đã viết:
“Ngoại giao văn hóa là tổng hòa của quan hệ
văn hóa đối ngoại mà chính phủ một nước
theo đuổi, nói cách khác, là quan hệ văn hóa
chính thức của quốc gia có chủ quyền; quốc
gia có chủ quyền là chủ thể, thực thi chủ quyền
đối ngoại.” (2, tr.76)
Trường phái thứ hai nhấn mạnh ngoại giao
văn hóa là một công cụ độc lập tương đối với
chính trị. Ở trường phái này, ngoại giao văn
hóa là một phương tiện xác lập mối quan
hệ giữa các quốc gia mà ngoại giao chính trị
không thể xâm nhập được vì những lý do tôn
giáo hay sắc tộc. Trong trường hợp này, ngoại
giao văn hóa đóng vai trò là một “chất xúc tác”,
làm mềm mối quan hệ, đặt nền móng cho việc
thực hiện ngoại giao chính trị và ngoại giao
kinh tế. Các tác giả Jennifer Dueck, James R.
Vaughan đã lựa chọn nghiên cứu trường hợp
Pháp và Mỹ sử dụng ngoại giao văn hóa để
thâm nhập các quốc gia ở khu vực Trung Đông
trong thế kỷ XX. Tại các quốc gia vốn là điểm
nóng giao tranh và xung đột này, giáo dục,
xuất bản phẩm và điện ảnh là những phương
tiện đã được dùng để tạo ảnh hưởng và nâng
cao vị thế ngoại giao của các thế lực ngoại lai.
Trường phái thứ ba: ngoại giao văn hóa
53Số 23 - Tháng 3 - 2018
VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
vượt ra ngoài ranh giới của ngoại giao nhà
nước. Nhóm các tác giả Maki Aoki-Okabe,
Toichi Makita và Yoko Kawamura đã phân chia
hoạt động ngoại giao văn hóa thành hai loại:
hoạt động thúc đẩy, xúc tiến quảng bá “văn
hóa quốc gia” (hay bản sắc văn hóa) ra nước
ngoài và hoạt động trao đổi văn hóa quốc tế.
Nói cách khác, ngoại giao văn hóa theo quan
điểm này chính là “ngoại giao nhân dân” – với
sự tham gia của các chủ thể dân sự ngoài nhà
nước, không chịu sự chi phối của nhà nước.
Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ
(NGO – non-governmental organization) là
một ví dụ tiêu biểu. Đại diện điển hình nhất
cho trường phái ngoại giao văn hóa này chính
là Nhật Bản. Tuy vậy, các tổ chức phi chính
phủ, khi tham gia hoạt động ngoại giao văn
hóa, đều được thúc đẩy và tài trợ chủ yếu từ
chính phủ Nhật Bản.
Khi chiến tranh lạnh kết thúc vào năm
1989 – 1990, Liên Xô tan rã, chấm dứt trật tự
lưỡng cực Yalta, quan hệ quốc tế có nhiều
biến đổi nhanh chóng và sâu sắc, đồng thời là
sự xuất hiện và bùng nổ của xu thế toàn cầu
hóa. Chính xu thế toàn cầu hóa đã có một ảnh
hưởng đáng kể đến định hướng ngoại giao
văn hóa (ngoại giao công chúng) của Nhật
Bản. Ở khu vực Đông Nam Á, xuất hiện một
cuộc cạnh tranh ảnh hưởng giữa Trung Quốc
và Nhật Bản. Trung Quốc với tham vọng thúc
đẩy hình thành trật tự thế giới đa cực, muốn
biến Đông Nam Á trở thành “sân sau,” làm bàn
đạp để vươn ra toàn cầu. Còn Nhật Bản đã
nhận thức được vị trí địa chính trị quan trọng
của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á,
muốn xây dựng một Đông Nam Á hòa bình
ổn định, dưới sự ảnh hưởng của Nhật để kiềm
chế Trung Quốc. Vận dụng học thuyết Fukuda,
Nhật Bản củng cố, mở rộng quan hệ của mình
sang các nước Đông Nam Á thông qua hỗ trợ,
giúp đỡ tái thiết kinh tế, vận hành các chính
sách ngoại giao trên các phương diện chính trị,
kinh tế và văn hóa. Việt Nam và Nhật Bản cùng
là thành viên của nhóm ASEAN + 3. Nhật Bản
chia sẻ với Việt Nam nhận thức “Cần tăng cường
tăng trưởng kinh tế để xóa đói giảm nghèo” (1,
tr.5) và hỗ trợ Việt Nam theo ba trụ cột kinh tế:
Thương mại - Đầu tư - ODA. Từ 1995 đến nay,
Nhật Bản là nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt
Nam. Tuy vậy, bên cạnh kinh tế, Nhật Bản cũng
chú trọng thúc đẩy ngoại giao văn hóa: thực
hiện giao lưu văn hóa giữa các nước ASEAN và
Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Takeo Fukuda đã nói
đến “sự cần thiết của việc hiểu biết lẫn nhau
bằng trái tim”. Về bản chất, đây chính là vấn đề
của văn hóa. Ngoại giao văn hóa, đối với Nhật
Bản, dù nói theo một cách nào đó, vẫn là chủ
nghĩa toàn cầu mới, thể hiện sự thay đổi của
Nhật Bản, cải thiện hình ảnh của Nhật Bản sau
chiến tranh thế giới thứ hai, hòa nhập với thế
giới, “tạo ra một Nhật Bản cống hiến cho thế
giới”. Mặt khác, ngoại giao văn hóa Nhật Bản
còn nhằm thúc đẩy quảng bá các thiết chế, hệ
giá trị, bản sắc của “văn hóa Nhật Bản” tới các
quốc gia khác, điển hình là cộng đồng châu Á -
Thái Bình Dương hay ASEAN nói chung và Việt
Nam nói riêng.
3. Các hoạt động ngoại giao văn hóa Nhật
Bản ở Việt Nam
Cho tới nay, mối quan hệ ngoại giao Việt
Nam - Nhật Bản đã trải qua chặng đường hơn
40 năm, kể từ khi hai nhà nước chính thức thiết
lập quan hệ ngoại giao vào ngày 21 tháng 9
năm 1973. Nhưng nếu nhìn từ góc độ lịch sử,
mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản ước tính đã
có thời gian kéo dài tới hơn 1200 năm, bắt
đầu từ khi Abe no Nakamaro (A Bội Trọng Ma
Lữ, 698 – 770, tên tiếng Trung là “Triều Hành”)
- người Nhật đầu tiên đến Giao Châu - được
bổ nhiệm chức Tiết độ sứ An Nam vào khoảng
niên hiệu Thượng Nguyên (760 - 761) đời
Đường Túc Tông, đánh dấu khởi đầu sự tiếp
xúc giao lưu giữa hai nền văn hóa. Sự phát
triển của quan hệ mậu dịch bang giao trong
quá khứ và quan hệ ngoại giao ngày nay giữa
Việt Nam và Nhật Bản được xây dựng dựa trên
nền tảng là những nét tương đồng về địa lý tự
nhiên, các điều kiện lịch sử, con người và văn
hóa. Về vị trí địa lý, Nhật Bản và Việt Nam nằm
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đối
với quan điểm thông thường của người Việt,
thì Nhật Bản “gần mà ngỡ xa,” khi Nhật Bản là
Số 23 - Tháng 3 - 201854
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
một quốc đảo nằm trong tiểu khu vực Đông
Bắc Á, cách Việt Nam (nằm trong tiểu khu vực
Đông Nam Á) 3,685 km về phía Bắc. Tuy vậy, cả
hai quốc gia đều có vị trí chiến lược của mình,
là nơi giao kết giữa các vùng biển và đóng vai
trò địa chiến lược (geostrategy) quan trọng
trong việc khai thác tiềm năng biển cũng như
giao thương đường biển. Chính điều kiện địa
lý này góp phần tạo nên tính chủ động của
Nhật Bản trong việc tìm kiếm các mối giao lưu
quốc tế, dẫn tới việc từ thời trung đại, người
Nhật đã bắt đầu giao thương buôn bán với Việt
Nam. Bắt đầu từ thế kỷ XV cho tới thời Châu
ấn thuyền (thời kỳ thuyền buôn được chính
quyền Mạc Phủ Tokugawa cấp giấy phép cho
ra nước ngoài thực hiện buôn bán, đầu thế
kỷ XVII), rất nhiều thuyền buôn Nhật Bản đã
cập bến tại Hội An để trao đổi hàng hóa (mặt
hàng chủ yếu là tơ lụa), lấy nước ngọt và tránh
bão. Thông qua con đường buôn bán trao đổi,
người Việt cũng được tiếp xúc với những sản
vật cũng như những giá trị văn hóa Nhật Bản
và ngược lại, tạo sự hiểu biết giữa hai dân tộc.
Bên cạnh đó, dưới góc độ văn hóa, Nhật Bản và
Việt Nam cùng nằm trên ngoại vi (periphery)
của văn minh Trung Quốc, cùng tiếp thu lĩnh
hội nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa như “chữ
Hán, Nho giáo và Phật giáo” (3, tr.9). Điều này
dẫn đến ý thức “đồng văn đồng chủng” (cùng
chung một nền văn hóa chữ Hán và cùng
chung một chủng tộc da vàng) chi phối quan
niệm của người Việt khi tiếp xúc với Nhật Bản,
góp phần làm cho những yếu tố văn hóa Nhật
Bản dễ dàng thâm nhập vào đời sống văn hóa
người Việt.
Xuất bản phẩm, đặc biệt là sách, là một
trong những công cụ quan trọng thúc đẩy
quan hệ ngoại giao văn hóa giữa quốc gia này
với quốc gia khác. Điều này bắt nguồn từ việc
nhận thức lại vai trò và tầm quan trọng của
xuất bản phẩm. Với bối cảnh thế giới toàn cầu
hóa hiện nay, ngoại giao văn hóa chính là sức
mạnh mềm (soft power), được giáo sư Joseph
S. Nye Jr. của đại học Harvard (Mỹ) đưa ra và
định nghĩa từ những năm cuối thập niên 80,
trong đó nhấn mạnh việc sử dụng sức hấp dẫn
của văn hóa để chi phối quan hệ quốc tế. Ngày
nay, để phát huy sức mạnh mềm, các quốc
gia Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc tập trung xây dựng hình ảnh đất nước,
con người và văn hóa của mình (các cuộc chấn
hưng văn hóa - nghệ thuật) và dùng các yếu tố
này để thâm nhập vào các quốc gia khác. Điển
hình như làn sóng điện ảnh, âm nhạc, thời
trang và ẩm thực Hàn Quốc đã tạo nên những
cơn sốt ở nhiều nước trên thế giới. Làn sóng
này mang tính nhất thời, tồn tại trong một
khoảng thời gian nhất định, thâm nhập ở mức
độ trên bề mặt, trong tiếng Anh được thể hiện
bằng một thuật ngữ là “trend” (trào lưu, xu
hướng). Xuất bản phẩm cũng là một hình thức
quảng bá các giá trị văn hóa vượt qua biên giới
như vậy. Trước đây, đơn thuần, chúng ta nhìn
nhận xuất bản phẩm, cụ thể hơn là sách, chỉ là
một kênh thông tin và hình thức lưu trữ thông
thường. Nhưng ngày nay, xuất bản phẩm đã
được nhận thức lại: là một sản phẩm xã hội, là
công cụ tích lũy, truyền bá tri thức từ thế hệ
này sang thế hệ khác; quan trọng hơn, xuất
bản phẩm mang một hệ thống giá trị giàu có
và bất biến về văn hóa tinh thần, lịch sử và tri
thức nhân loại. Đó chính là một yếu tố để minh
chứng rằng: xuất bản phẩm đã trở thành công
cụ ngoại giao văn hóa hiệu quả, có thể thâm
nhập vào chiều sâu của một cộng đồng. Thông
qua xuất bản phẩm, hình ảnh đất nước con
người cũng như các giá trị văn hóa in sâu ở các
nước sở tại, tạo nên một mối thiện cảm, từ đó,
dần dần mở đường “xâm nhập” cho hàng hóa
và đầu tư vào các nước này.
Nhật Bản chính là một trong những quốc
gia chú trọng và chủ động thực hiện ngoại
giao văn hóa đối với Việt Nam thông qua xuất
bản phẩm nhiều nhất, bởi lẽ bên cạnh chủ
trương ngoại giao văn hóa thì Nhật Bản cũng
là nước có ngành công nghiệp xuất bản tồn
tại lâu đời và phát triển bậc nhất trên thế giới.
Những điều kiện về bối cảnh lịch sử, chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội đã đặt tiền đề cho
quan hệ ngoại giao văn hóa Nhật Bản đối với
Việt Nam (thông qua xuất bản phẩm) được
hoàn thiện và nở rộ. Một minh chứng là từ năm
55Số 23 - Tháng 3 - 2018
VĂN HÓA CẬN - HIỆN ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
2006 đến nay, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản
được nâng tầm “hướng tới đối tác chiến lược vì
hòa bình và phồn vinh của Châu Á” (tuyên bố
chung Nhật Bản - Việt Nam ngày 23/10/2006
của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe và Thủ tướng
Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng). Trong tuyên bố
chung này, nội dung thứ 5 (tăng cường hiểu
biết lẫn nhau giữa người dân hai nước) đã tạo
một động lực thúc đẩy xuất bản phẩm từ Nhật
Bản vào Việt Nam để đáp ứng nhu cầu tìm
hiểu, học tập, nghiên cứu về nước Nhật và văn
hóa Nhật của người Việt Nam. Xuất bản phẩm
Nhật Bản tại Việt Nam hiện đang tác động rất
lớn vào đời sống văn hóa của người dân, đặc
biệt là giới trẻ. Số lượng người học tiếng Nhật
ở Việt Nam ngày một tăng lên, kéo theo việc
phổ cập những giáo trình tiếng Nhật. Việc các
nhà xuất bản Việt Nam triển khai ký kết hợp
tác xuất bản, giao dịch bản quyền với các nhà
xuất bản Nhật Bản cũng góp phần giới thiệu
nhiều tác phẩm, tác giả kinh điển của Nhật Bản
tới bạn đọc Việt Nam. Hoặc ở một khía cạnh
khác, tại các lễ hội văn hóa Việt - Nhật được tổ
chức tại Việt Nam, rất nhiều bạn trẻ đã tham
gia cosplay (hóa trang thành một nhân vật
trong truyện tranh manga hoặc phim hoạt
hình anime của Nhật).
Trong lĩnh vực xuất bản, Nhật Bản là một
trong những quốc gia có nền xuất bản phát
triển nhất. Theo số liệu 2015 của Hiệp hội các
nhà xuất bản Nhật Bản (Japan Book Publishers
Association - JBPA) thì có khoảng 3,700 doanh
nghiệp xuất bản ở Nhật Bản, trong đó 80 phần
trăm đóng tại Tokyo, hàng năm trung bình tạo
ra 1,7 nghìn tỷ Yên (tương đương khoảng 361
nghìn tỷ đồng Việt Nam). Truyện tranh (manga)
chiếm 80% xuất bản phẩm của Nhật Bản. Ba
nhà xuất bản lớn nhất Nhật Bản là Kodansha,
Shogakukan và Shueisha. Năm 1953, Hiệp hội
Các nhà xuất bản trao đổi văn hóa (Publishers
Association for Cultural Exchange - PACE) được
thành lập với tư cách là một tổ chức phi chính
phủ. Các thành viên của hiệp hội là đại diện
của các nhà xuất bản ở Nhật Bản. Mục đích
chính của PACE là thông qua việc trao đổi các
xuất bản phẩm, đóng góp vào sự hình thành
và phát triển văn hóa xuất bản ở Nhật Bản và ở
các quốc gia khác trên thế giới. PACE đã đóng
vai trò làm sâu sắc và thúc đẩy tình bạn chung
giữa Nhật Bản với nhiều quốc gia. Tổ chức này
chú trọng vai trò làm trung gian cho việc xúc
tiến mua bán bản quyền, dịch thuật giữa các
nhà xuất bản Nhật Bản và các nhà xuất bản
nước ngoài.
Ngày 1/11/1992 tại Ikebukuro Sunshine
City (Tokyo), trong khuôn khổ Hội chợ sách
quốc tế Tokyo, ý tưởng thành lập Hiệp hội
xuất bản châu Á - Thái Bình Dương (Asian
Pacific Publishers Association – APPA) đã được
đề xuất. Thành viên ban đầu của APPA bao
gồm Nhật Bản, Việt Nam, Bangladesh, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Philippin,
Singapore, Sri Lanka, Thái Lan và Thổ Nhĩ Kỳ.
Tổ chức này được thành lập nhằm đáp ứng các
mục đích hợp tác, tiến tới đảm bảo quyền lợi
của các nhà xuất bản (được tự do xuất bản với
sự tôn trọng luật pháp ở mỗi quốc gia), đồng
thời thúc đẩy việc bảo vệ bản quyền tác giả.
Ngày 26/1/1994, phiên họp đầu tiên của APPA
đã được tổ chức tại Tokyo. Chủ tịch đầu tiên
của APPA là ông Toshiyuki Hattori, lúc bấy giờ
kiêm giữ chức chủ tịch của JPBA. Tổ chức APPA
đánh dấu sự hợp tác đầu tiên giữa hai nền xuất
bản Nhật Bản và Việt Nam. Đại diện của ngành
xuất bản Việt Nam tham gia APPA lúc đó là
công ty xuất nhập khẩu sách báo Việt Nam.
Trước thời điểm 26/10/2004, nghĩa là trước
khi công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm
văn học và nghệ thuật có hiệu lực thì tình trạng
dịch lậu, in lậu các xuất bản phẩm rất phổ biến
ở Việt Nam. Tuy vậy, khi công ước Berne có
hiệu lực, các nhà xuất bản Việt Nam cũng như
các đơn vị liên kết xuất bản đã có ý thức chủ
động liên hệ với các nhà xuất bản nước ngoài
để thực hiện thương lượng và mua bản quyền
xuất bản phẩm. Hiện nay ở Việt Nam, Nhà xuất
bản Kim Đồng và Nhà xuất bản Trẻ là hai trong
số những nhà xuất bản thực hiện trao đổi
bản quyền có số lượng lớn nhất và hiệu quả
nhất với các nhà xuất bản Nhật Bản, đặc biệt
là truyện tranh. Những bộ truyện tranh thuộc
hàng ăn khách ở Nhật Bản như One Piece,
Số 23 - Tháng 3 - 201856
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Naruto, Doraemon, Dragon Ball (Bảy viên ngọc
rồng), Thám tử Conan đều đã được chuyển
ngữ sang tiếng Việt và phát hành ở Việt Nam.
Bên cạnh truyện tranh, các tác phẩm
nghiên cứu chuyên khảo và văn học nghệ
thuật Nhật Bản cũng được dịch và được độc
giả Việt Nam đón nhận