Người cao tuổi ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi cấu trúc gia đình

Tóm tắt Người cao tuổi (NCT) là nhóm đối tượng được đặc biệt quan tâm khi quá trình già hóa dân số đang diễn ra với tốc độ “phi mã”. Ngoài những khó khăn chung của những người ở nhóm tuổi này, người cao tuổi Việt Nam còn đối diện với một số vấn đề có tính đặc thù, trong đó có yếu tố văn hóa. Nhiều người gặp cú sốc tâm lý khi chứng kiến sự biến đổi giá trị: từ chỗ đề cao giá trị cộng đồng - người già gắn bó suốt đời với con cái, đến việc khẳng định giá trị cá nhân, cổ vũ lối sống độc lập. Một trong những nguyên nhân của hiện trạng này đến từ việc biến đổi cấu trúc gia đình. Trên cơ sở phân tích mô hình cấu trúc gia đình xưa và nay, bài viết nhấn mạnh tính khách quan của sự biến đổi và xã hội cần thiết có chiến lược thích ứng đối phó để đảm bảo cuộc sống người cao tuổi.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 38 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Người cao tuổi ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi cấu trúc gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
77Số 24 - Tháng 6 - 2018 VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA 1. Người cao tuổi trong cơ cấu dân số quốc gia 1.1. Cơ cấu dân số là một trong những dữ liệu quan trọng làm tiền đề cho việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia: Đó là tổ hợp của nhiều thông số: lứa tuổi, giới tính, sức khỏe, trình độ học vấn và nghề nghiệp, tộc người, địa bàn cư trú... Trong đó, cơ cấu độ tuổi có ý nghĩa rất đặc biệt. Căn cứ vào tỷ lệ độ tuổi, người ta xếp hạng quốc gia có Dân số Trẻ, Dân số Già hay Dân số Vàng - như chỉ báo hàng đầu về tiềm lực phát triển kèm theo những cơ hội và thách thức đối với quốc gia đó. Cũng dựa trên số liệu này, các nhà kinh tế học sẽ thống kê được nhóm người ở tuổi lao động (từ 15 đến 65) và tuổi phụ thuộc (dưới 15 và trên 65), còn các nhà xã hội học thường tiếp cận khía cạnh “thế hệ” với độ tuổi linh hoạt hơn. Độ ngắn dài của mỗi thế hệ (trẻ - trung niên - cao tuổi) có thay đổi trong các bối cảnh kinh tế xã hội khác nhau, thí dụ so với thời kỳ trước đây, khoảng tuổi của ba thế hệ hiện nay đều kéo dài hơn (7, tr. 29). NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC GIA ĐÌNH NGUYỄN HỒNG MAI Tóm tắt Người cao tuổi (NCT) là nhóm đối tượng được đặc biệt quan tâm khi quá trình già hóa dân số đang diễn ra với tốc độ “phi mã”. Ngoài những khó khăn chung của những người ở nhóm tuổi này, người cao tuổi Việt Nam còn đối diện với một số vấn đề có tính đặc thù, trong đó có yếu tố văn hóa. Nhiều người gặp cú sốc tâm lý khi chứng kiến sự biến đổi giá trị: từ chỗ đề cao giá trị cộng đồng - người già gắn bó suốt đời với con cái, đến việc khẳng định giá trị cá nhân, cổ vũ lối sống độc lập. Một trong những nguyên nhân của hiện trạng này đến từ việc biến đổi cấu trúc gia đình. Trên cơ sở phân tích mô hình cấu trúc gia đình xưa và nay, bài viết nhấn mạnh tính khách quan của sự biến đổi và xã hội cần thiết có chiến lược thích ứng đối phó để đảm bảo cuộc sống người cao tuổi. Từ khóa: Người cao tuổi, cấu trúc gia đình, biến đổi gia đình Abstract The elderly is particularly concerned when the aging process of the population is occurring at the speed of “galloping”. In addition to the common difficulties of people at this age group, Vietnamese elderly people have to face a number of specific issues, including cultural aspects. Many people experience psychological shock when they witness the change of values: from the dignification of community values, the old continue all the rest of lives with their children, to the affirmation of personal values, the promotion of independent living. One of the causes of this state comes from the changing in family structure. Based on the analysis of the past and present family structure model, the article emphasizes the objectivity of change and the social need to have adaptive coping strategies to ensure the well-being of the elderly. Keywords: Elderly, family structure, family change Số 24 - Tháng 6 - 201878 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Theo quy định của luật pháp Việt Nam, người cao tuổi là khái niệm chỉ nhóm người ở độ tuổi trên 60, những người đang bước vào giai đoạn cuối của cuộc đời. Kết quả Điều tra dân số năm 2006, nước ta còn ở nhóm quốc gia có Dân số Vàng (2 người lao động/ 1 người phụ thuộc), nhưng chỉ sau 5 năm đã chính thức đứng trên ngưỡng Dân số Già với tỷ lệ 11% là NCT (trong 10,1 triệu NCT có 2 triệu người trên 80). Già hóa dân số tuy được coi là xu hướng phổ biến trên thế giới, nhưng ở nước ta, hiện tượng này có hai điểm khác biệt cơ bản. Trước hết, quá trình này diễn ra quá nhanh (có nghiên cứu dùng từ “phi mã”). Ở các nước khác, quá trình già hóa thường kéo dài gần thế kỷ (Pháp 100 năm, Thụy Điển 85 năm, Mỹ 69 năm,) còn ở nước ta, con đường đi từ Dân số Trẻ đến Dân số Già chỉ khoảng 20 - 22 năm. Hội thảo quốc tế “Thích ứng với xu hướng già hóa dân số” tổ chức ở Hà Nội tháng 7/2017 còn đưa ra dự báo: mỗi giây có hai người Việt Nam bước vào tuổi 60 và tỷ lệ NCT trong tổng dân số có thể là 18% vào năm 2030 và 26% ở giữa thế kỷ. Mặt khác, nếu các quốc gia trên thế giới chuyển sang giai đoạn già hóa thường ở thời điểm phát triển cao của nền kinh tế, thì Việt Nam lại đón nhận xu hướng này khi nền kinh tế mới đạt mức trung bình thấp. Điều này có nghĩa, hiện nay nước ta còn thiếu rất nhiều điều kiện để thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ cuộc sống NCT. 1.2. Không thể phủ nhận, già hóa dân số là dấu hiệu tích cực, thành quả khách quan của cuộc vận động hạ tỷ suất sinh trong vài thập kỷ qua, cũng như những đóng góp quan trọng của y học hiện đại nhằm giảm tỷ suất tử vong và nâng cao tuổi thọ. Nhờ nâng tuổi thọ trung bình lên 73, cùng với cải thiện mức thu nhập quốc dân và trình độ học vấn, mà Chỉ số Phát triển con người (HDI) của nước ta đã vượt qua một số quốc gia có chỉ số GDP cao hơn. Tuy nhiên, do hai điểm khác biệt kể trên, NCT ở Việt Nam cũng đang đối diện với một số thách thức mang tính đặc thù so với nhóm người cùng tuổi trong các quốc gia phát triển. + Việc làm của người cao tuổi. Vấn đề này đặt ra như một nghịch lý. Trên lý thuyết, ở tuổi này, họ đã hoàn thành các nghĩa vụ đối với gia đình và xã hội. Họ cần thiết và được quyền nghỉ ngơi thụ hưởng thành quả do chính mình tạo ra trong quá khứ. Nhưng trong thực tế, họ vẫn có nhu cầu lao động cũng như gặp không ít khó khăn khi tìm việc. Số liệu năm 2014 cho biết, vẫn còn trên 50% nam giới và 36% phụ nữ là NCT đang lao động kiếm sống, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế tư nhân. Nhu cầu này xuất phát từ cả khía cạnh kinh tế và khía cạnh văn hóa. Về mặt kinh tế, đại bộ phận NCT ở nước ta ở trong hoàn cảnh “già mà chưa giàu”, không có nguồn tích lũy nào để dưỡng già. Trên 70% - chủ yếu ở nông thôn và vùng cao - không có lương hưu hay trợ cấp xã hội, phải tự kiếm sống và trông chờ vào sự cấp dưỡng của con cái. Lương hưu và trợ cấp của nhóm 30% còn lại cũng rất thấp, trung bình chỉ từ 3 - 4 triệu đồng. 95% cho biết khoản trợ cấp đó không đáp ứng được nhu cầu chi dùng cơ bản trong tình huống vật giá leo thang từng ngày. Vì vậy, mong muốn tiếp tục làm việc có thu nhập trước hết bắt nguồn từ nhu cầu để tồn tại của chính họ. Cũng cần phải nhắc thêm một nguyên nhân nữa mang ý nghĩa văn hóa. NCT ở nước ta muốn làm việc để giảm bớt gánh nặng cho con cháu khi hằng ngày chứng kiến chúng đang rất vất vả mưu sinh. Luôn mang tâm lý “nước mắt chảy xuôi”, thương con xót cháu, với thói quen cần cù chịu khó, họ vẫn muốn tìm mọi cách giúp đỡ thêm cho chúng, bất kể sức khỏe đã suy yếu. Đặc biệt, với nhóm người tuổi sơ lão (từ 61 đến 70) - chủ yếu là trí thức và doanh nhân - nhu cầu có việc làm lại càng lớn. Đây là những người còn sức khỏe, có trình độ học vấn cao, bề dày kinh nghiệm chuyên môn nên rất muốn tiếp tục đóng góp cho xã hội. Với họ, được hoạt động (lao động và giao tiếp) là nhu cầu sống và chỉ có cảm giác sống thực sự khi còn làm việc. Hơn nữa, khi được làm công việc yêu thích, phù hợp với khả năng, có thêm thu nhập, họ có điều kiện khẳng định vai trò “có ích” của mình trước gia đình và xã hội. Do đó, nếu phát triển được nguồn việc làm phù hợp với NCT, một mặt sẽ đáp ứng được mong muốn chính đáng, đem 79Số 24 - Tháng 6 - 2018 VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA lại cho họ niềm vui sống, góp phần đảm bảo an sinh xã hội; mặt khác, xã hội có thêm một nguồn lực đáng kể vào công cuộc phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đất nước còn chưa có đủ việc làm cho cả nhóm tuổi lao động (nhất là khi cuộc Cách mạng 4.0 đang đến gần) thì nhu cầu này của NCT vẫn đang là một thách thức. + Sức khỏe của người cao tuổi. NCT ở nước ta không chỉ mang đặc điểm “già mà chưa giàu” mà còn là những người “thọ nhưng không khỏe”. Tuy tuổi thọ cao hơn nhưng trung bình mỗi người mang trong mình 2,7 bệnh (chủ yếu bệnh về tim mạch, tiểu đường, xương khớp, suy giảm về trí nhớ, thị giác, thính giác và năng lực vận động). Hiện trạng này là hệ quả tất yếu của những giai đoạn lịch sử khó khăn của đất nước. Họ đã trải qua hai cuộc kháng chiến khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc, những năm tháng vất vả phục hồi kinh tế sau chiến tranh, thời kỳ bao cấp thiếu thốn với chế độ lương thực, thực phẩm tem phiếu hạn hẹp. Do tận sức cống hiến thời tuổi trẻ, lại thêm lối sống tiết kiệm đến mức khắc kỷ, họ bước vào tuổi già trong trạng thái sức khỏe kém. Hơn thế, theo truyền thống, người Việt Nam không có thói quen kiểm tra sức khỏe định kỳ nhằm phát hiện sớm những điều bất thường trong cơ thể. Cho nên, khi tuổi cao, sức đề kháng giảm, bệnh tật dễ bùng phát, việc điều trị trở nên khó khăn và chi phí tốn kém hơn. Nhà nước ta đã ban hành một số chính sách tích cực trong việc chăm sóc, điều trị cho nhóm đối tượng này. Trung tâm lão khoa của các bệnh viện đã được thành hình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của NCT. + Tâm lý truyền thống của người cao tuổi. Ở bất kỳ quốc gia nào, NCT cũng là nhóm người bảo lưu bền bỉ và sâu đậm nhất những giá trị truyền thống của nền văn hóa mà mình sinh trưởng. Ở phương Tây, nền văn hóa công nghiệp thành hình hàng trăm năm đã giúp con người quen thuộc với lối tư duy phân tích - duy lý, đề cao giá trị cá nhân và lối sống độc lập. Còn ở phương Đông, bao gồm Việt Nam, nền văn hóa nông nghiệp (dạng tiểu nông) lại bồi đắp một lối tư duy khác: tư duy tổng hợp biện chứng - duy tình, luôn coi trọng các mối quan hệ, đề cao giá trị cộng đồng, trước hết là cộng đồng gia đình. Tính phong phú của hệ thống đại từ nhân xưng trong ngôn ngữ tiếng Việt là một ví dụ cho tư duy trọng quan hệ. Khi giao tiếp, tuỳ theo tương quan độ tuổi, địa vị xã hội và bối cảnh cụ thể, người ta sử dụng linh hoạt các đại từ “chú khi ni, mi khi khác”. Ngay khi tự vấn bản thân, người Việt cũng thường dùng từ “mình” thay cho từ “tôi”. Người Việt Nam thường tâm niệm: mỗi người chỉ là một mắt xích nhỏ trong đường dây lịch sử gia đình - bên trên là tổ tiên, phía dưới là hậu duệ - với những nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể. Họ không chỉ cầu mong bình an, may mắn trong hiện tại mà còn luôn khắc sâu ơn nghĩa với quá khứ và chuẩn bị hết lòng cho tương lai. Việc thờ cúng tổ tiên nhiều đời một cách quy củ, chặt chẽ trong mỗi gia đình là một ví dụ rõ rệt cho điều này. Con cháu phải thực hiện phận sự lâu dài với cha mẹ, cả khi sống lẫn khi qua đời và bậc bề trên, dù đã khuất, vẫn tiếp tục ở bên con cháu, dõi theo và phù trợ bí ẩn cho chúng! Vùng tâm thức trở thành nền tảng cho quy ước tự nhiên: những người ruột thịt phải cùng chung sống và gắn bó, nương tựa nhau suốt đời. “Trẻ cậy cha, già cậy con”, vì vậy, đã trở thành nguyên lý sống của mỗi người Việt Nam. Mối liên hệ hai chiều trong tâm thức còn được ủng hộ, bảo trợ bằng cả hai công cụ quản lý xã hội: hương ước của làng xã và pháp luật của Nhà nước. Trong các giá trị tinh thần mà người ta hướng tới, phúc và hiếu được coi là những giá trị thiêng liêng. “Vô phúc” đối với người già là nỗi bất hạnh lớn nhất và tội “bất hiếu” của con cháu cũng xếp hàng đầu trong “thập ác”. Người làm cha mẹ có phúc khi sinh được đông con nhiều cháu (đặc biệt là con trai) và chúng ngoan ngoãn, hiếu thảo, tạo ra một đường dây thế hệ trường tồn. Trách nhiệm (kể cả quyền uy) của cha mẹ với con cháu là mãi mãi, ngay khi chúng đã trưởng thành. Có thể nhắc tới những câu thơ hiện đại nhưng phản ánh rất đúng tâm lý truyền thống này: Số 24 - Tháng 6 - 201880 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA “Cha mẹ là lá chắn che chở suốt đời con” hay “Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi suốt cuộc đời, lòng mẹ vẫn theo con” Nhìn chung, người làm cha mẹ không bao giờ đo đếm công sức của mình đối với con cái, thậm chí chắt chiu dành dụm tài sản bồi đắp cho con, mong con sung sướng (Con hơn cha là nhà có phúc), không loại trừ cả niềm hy vọng vào sự đền đáp của chúng khi mình vào tuổi “chân yếu, tay run” (Có lẽ đây là điểm khác biệt trong tâm lý NCT thuộc hai nền văn hóa Đông - Tây). Ngược lại, chính lòng hiếu thảo của những đứa con sẽ xây thành lũy vững chắc cho chữ phúc của cha mẹ. Đạo làm con là đạo lý cơ bản nhất của Đạo làm Người. “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Lòng biết ơn đối với cha mẹ vốn đã có cội rễ trong nền văn hóa bản địa Đông Nam Á (Văn hóa thờ Mẫu), nhưng nhờ quá trình giao lưu, tiếp biến, các dòng văn hóa ngoại lai như Phật giáo, Kitô giáo, đặc biệt là Nho giáo, đã cung cấp thêm lý thuyết và lễ thức để nó trở thành Đạo Hiếu. Con cái phải có bổn phận tôn kính, vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ suốt đời. Ai vi phạm, không những bị pháp luật kết tội mà còn bị tòa án của cộng đồng lên án, chối bỏ. Phân tích yếu tố tâm lý truyền thống mà hầu hết NCT ở nước ta đang lưu giữ chính để lý giải hiện trạng tại sao những xúc cảm tiêu cực (thất vọng, buồn bã) lại chiếm ưu thế trong tâm trạng họ khi đối diện với sự khủng hoảng đang diễn ra trong các mối quan hệ gia đình cũng như sự biến đổi mô hình cấu trúc gia đình. Đây là vấn đề thuộc khía cạnh văn hóa, một thách thức không nhỏ đối với những NCT ở nước ta hiện nay. 2. Người cao tuổi trong cấu trúc gia đình xưa và nay Cấu trúc gia đình là thuật ngữ khoa học chỉ các yếu tố hợp thành chỉnh thể gia đình (số thế hệ, số thành viên trong mỗi thế hệ) cũng như mối tương tác giữa các yếu tố ấy với nhau. Mỗi kiểu loại gia đình có một dạng thức cấu trúc - được kiến tạo nhằm thực hiện các chức năng xã hội mà người chủ gia đình mong muốn. Cấu trúc gia đình, do đó được hình thành và biến đổi trên nền tảng của nhiều yếu tố khách quan cũng như ý thức chủ quan của con người. Nó có ảnh hưởng to lớn tới vai trò, vị trí của mỗi gia đình trong xã hội, cũng như tác động sâu sắc tới đời sống vật chất và tinh thần của các thành viên, bao gồm cả người cao tuổi. 2.1. Gia đình Việt Nam trong xã hội nông nghiệp truyền thống có một đặc điểm khái quát, đó là tính tương đối thuần nhất về kiểu loại cấu trúc. Tuyệt đại gia đình kết cấu theo khuôn mẫu: kết hôn dị tính, đầy đủ vợ chồng - con cái. Rất hiếm gia đình khác kiểu, vì khi “đi chệch khỏi truyền thống cũ và đi theo ý tưởng mới có thể dẫn tới kết quả bị xa lánh, bị tẩy chay, loại bỏ và đó là điều đáng kinh sợ khủng khiếp đối với người sống trong làng” (4, tr.194). Tất nhiên, trong nhóm các gia đình theo đúng khuôn mẫu, cũng không có duy nhất một cấu trúc. “Ở nước ta trước năm 1945, tầng lớp quan lại và địa chủ mới có điều kiện tạo lập gia đình 4 thế hệ với hàng chục nhân khẩu. Còn gia đình nông dân lao động thì kết cấu phổ biến là hai hoặc ba thế hệ - một loại gia đình không lớn lắm” (2, tr.175). Vậy gia đình truyền thống được bàn luận ở đây là loại gia đình nào? Xuất phát từ quan niệm gia đình truyền thống phải là gia đình chiếm số đông, trên diện rộng, trong một giai đoạn lịch sử lâu dài, chúng tôi coi cấu trúc của loại gia đình nông dân - trực canh là cấu trúc gia đình điển hình mang tính đại diện. Từ đó, có thể khẳng định: gia đình truyền thống nước ta thuộc loại gia đình nhỏ, ít thế hệ. Hơn nữa, gia đình hai thế hệ chiếm tới 2/3, gia đình ba thế hệ - nơi bố mẹ già sống cùng con - có tỷ lệ thấp hơn, khác với những ý kiến cho rằng gia đình mở rộng (3, 4 thế hệ) mới là mô hình điển hình trong xã hội truyền thống. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến việc gia đình hạt nhân chiếm tỷ lệ cao trong xã hội trước đây? Trước hết, “Cây thấp, tán rộng” là hình ảnh phổ quát được chúng tôi hình dung về gia đình truyền thống. “Cây thấp” gắn liền với tuổi thọ của người chủ gia đình. Ở nhiều làng quê, đàn ông mới 48 - 50 đã được làng mừng thọ với 81Số 24 - Tháng 6 - 2018 VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA nghi thức “lên lão”, bắt đầu có “xỉ tước”(khác với “quan tước” đây là một tước vị mà mọi thường dân đều có thể có được, “sống lâu lên lão làng”). Họ luôn được cộng đồng kính trọng (nhường đường, nhường chỗ) vì gia tài kinh nghiệm sống và kỹ năng sản xuất. Có lẽ vì lý do “cây thấp” này nên rất hiếm gia đình song hành bốn thế hệ. “Tán rộng” vì cây có nhiều cành, cành có nhiều nhánh, biểu tượng người chủ nhà có đông con, nhiều cháu. Đó là một ước vọng của người nông dân. Nó vừa thỏa mãn về mặt tâm linh (Con cái là “của Trời cho”, là “hồng ân của Chúa”), đáp ứng nguồn nhân lực trực tiếp trên mảnh ruộng gia đình (“mỗi con, mỗi của”), vừa phòng ngừa sa sảy do “hữu sinh vô dưỡng”, tạo thêm mối liên kết vợ chồng Đặc biệt, sinh nhiều con là một dạng đầu tư lâu dài cho tuổi già (Con cái là “của để dành”). Tuy đông con, nhưng ở nước ta, rất hiếm mô hình “huynh đệ đồng củ” (anh em đã kết hôn vẫn sống chung và có kinh tế chung) như ở nước láng giềng Trung Hoa. Người Việt Nam có phong tục cho con trai ra ở riêng ngay sau khi kết hôn. Vợ chồng con trai trưởng (ở miền Bắc) hoặc con trai út (ở miền Nam) ở lại ngôi nhà của cha mẹ với trách nhiệm chính trong việc chăm sóc bậc sinh thành và thờ cúng tổ tiên - bằng nguồn hoa lợi từ ruộng hương hỏa (Theo qui định của pháp luật, ruộng hương hỏa chiếm 1/20 tài sản của gia đình). “Một người con trai, thường là con trưởng sẽ ở cùng cha mẹ, còn những người con khác, đặc biệt người đã kết hôn, phải ra xây dựng hộ riêng và sống cùng vợ con mình” (4, tr.175). Có một số lý do dẫn đến việc phát triển các gia đình hạt nhân. Một là, đặc điểm của quy trình sản xuất lúa nước (ruộng nhỏ, công cụ thô sơ) không cần đông người mà phù hợp với kết cấu gia đình nhỏ (Chồng cày, vợ cấy). Hai là, các bậc cha mẹ có ý thức tạo lập tài sản riêng cho từng người con ngay khi mình còn sống, tránh sự tranh chấp giữa các con. Khi lấy vợ, người con trai đuợc chia cho một phần đất làm nhà ở riêng và còn được làng cấp cho một phần đất công để cấy cày. Những đứa con ra ở riêng cũng làm giảm sự liên đới của cha mẹ khi xảy ra sự cố. “Chính sự sở hữu độc lập đó khiến cha mẹ được miễn giảm trách nhiệm với những món nợ mà con cái họ mắc phải” (4, tr.162). Hình ảnh “biển tư hữu ruộng đất” trong làng xã đã được nhiều nghiên cứu nhắc tới chính bắt nguồn từ thực tế này, “làng phân chia ruộng đất cho các thành viên theo định kỳ”. Sang đầu thế kỷ XIX, số ruộng tư đã nhiều gấp năm số ruộng công” (6, tr.33). Lý do thứ ba giải thích hiện tượng gia đình hạt nhân chiếm tỷ lệ cao trong làng xã, tìm thấy trong quan điểm ủng hộ, khuyến khích của chính quyền phong kiến trung ương. Ở Việt Nam, con cái ra ở riêng khi cha mẹ còn sống không bị coi là phạm tội “bất hiếu” như những quy ước của Nho giáo. “Mặc dầu đã Nho giáo hóa pháp luật, vua Việt Nam vẫn thận trọng không chấp nhận nhũng gì có thể dẫn tới việc tạo ra những gia đình có thế lực gây trở ngại cho việc xây dựng và điều hành chính quyền tập trung. Việc phân chia quyền sở hữu tài sản và khả năng sống độc lập của con cái cần phải được hiểu theo quan điểm đó” (4, tr.97). Tuy nhiên, trước kia, mối quan hệ giữa những gia đình hạt nhân này với gia đình gốc - nơi cha mẹ sống cùng vợ chồng người anh trưởng - vẫn rất mật thiết. Họ sống riêng nhưng gần kề nhà cha mẹ, họ làm ruộng riêng nhưng vẫn trong không gian chật hẹp của làng. Công việc ấy, khoảng cách địa lý ấy giúp họ dễ dàng thực hiện được các nghĩa vụ của mình (Sáng viếng, tối thăm). Một khía cạnh nữa cũng cần lưu ý là vai trò của những người phụ nữ (con dâu, con gái) trong mối quan hệ với NCT. Do quan niệm chăm già, chăm trẻ thuộc việc nhà nên công việc này, người phụ nữ thường đảm nhiệm chính. Dù cũng phải làm việc vất vả trên đồng ruộng với vai trò người cộng sự của chồng, nhưng các nàng dâu (cả và thứ) đều có ý thức cùng nhau chia sẻ nghĩa vụ. Những người con gái đã xuất giá cũng thường xuyên đi lại thăm nom cha mẹ, đây là điểm khác biệt với xã hội Trung Hoa - nơi mà sau khi lấy chồng, người con gái phải cắt đứt quan h
Tài liệu liên quan