1. ĐẶT VẤN ĐỀ (*)
Nguyễn Khải sáng tác rất thành công
ở nhiều thể loại, thể loại nào cũng được
đông đảo bạn đọc đón nhận. Tác phẩm
của ông phản ánh được những tìm tòi thể
nghiệm, những trăn trở của văn xuôi hiện
đại Việt Nam. Trang viết đậm nồng hơi
thở cuộc sống, kịp thời đem đến cho
người đọc những lí giải đúng đắn và khêu
gợi nhiều suy nghĩ về các vấn đề xã hội.
Theo dõi lịch sử nghiên cứu truyện
và tiểu thuyết Nguyễn Khải từ khi tác
phẩm ra đời, có thể nhận thấy rằng: Ban
đầu nó là đối tượng tranh luận của giới
phê bình, về sau nó trở thành đối tượng
nghiên cứu của khoa học chuyên sâu, gắn
với những tên tuổi như Lại Nguyên Ân,
Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn
Hạnh, Vương Trí Nhàn, Chu Nga, Huỳnh
Như Phương, Trần Đình Sử, Bích Thu,
Đinh Quang Tốn, Lê Ngọc Trà v.v. Các
tác giả trên chủ yếu nghiên cứu tác phẩm
như một tiếng nói xã hội gắn với những
chặng đường văn học dân tộc và thời đại, sức
chinh phục của tác phẩm, cũng như chuyện
văn chuyện đời của ông. Một vài ý kiến lẻ tẻ
về phương thức trần thuật, về giọng điệu, về
ngôn ngữ, về ngôi kể của chủ thể kể chuyện.
Đến nay chưa có nghiên cứu nào về người kể
chuyện trong cả truyện ngắn và tiểu thuyết
Nguyễn Khải như một công trình nghệ thuật
dưới góc độ thi pháp học.
Lê Ngọc Trà viết: “Chủ thể tường thuật
là một mặt của vấn đề tác giả trong văn học.
Nghiên cứu vấn đề người kể chuyện vừa tạo
điều kiện để nhận thức quá trình cá thể hoá
và cá nhân hoá trong sáng tạo văn học, vừa
mở ra cách tiếp cận với sự thể hiện của ý
thức nghệ thuật, với cái nhìn của nhà văn
trong tác phẩm”.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 226 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Người kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5 - Thaùng 01/2011
51
VÀ Ế Ễ Ả
HÀ HUY DŨNG (*)
TÓM TẮT
Nguyễn Khải là một trong những nhà văn luôn tìm tòi những trải nghiệm và sáng tạo..
Trong tác phẩm đầu tay của ông vào năm 1980, với cảm xúc về cộng đồng của mình, tác
giả mô tả, đánh giá, thực trạng các vấn đề thuộc về chính trị và xã hội. Và sau đó dự đoán
sự thay đổi của xã hội, khám phá thế giới nội tâm bằng kinh nghiệm của bản thân. Vì vậy,
trong các tác phẩm của Nguyễn Khải, phương thức trần thuật đã xuất hiện rất đa dạng và
mới mẻ.
ABSTRACT
Nguyen Khai is one of the writers who always looks for experience, and creativity. In
his first story in 1980, the writer with his community perspective describes and evaluates
the reality, conveys political and social issues. And then later forecasts social changes ,
explores the world of inner fellings with his own experience. So, in his works, the narrative
form appears much more diverse and innovative.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ (*)
Nguyễn Khải sáng tác rất thành công
ở nhiều thể loại, thể loại nào cũng được
đông đảo bạn đọc đón nhận. Tác phẩm
của ông phản ánh được những tìm tòi thể
nghiệm, những trăn trở của văn xuôi hiện
đại Việt Nam. Trang viết đậm nồng hơi
thở cuộc sống, kịp thời đem đến cho
người đọc những lí giải đúng đắn và khêu
gợi nhiều suy nghĩ về các vấn đề xã hội.
Theo dõi lịch sử nghiên cứu truyện
và tiểu thuyết Nguyễn Khải từ khi tác
phẩm ra đời, có thể nhận thấy rằng: Ban
đầu nó là đối tượng tranh luận của giới
phê bình, về sau nó trở thành đối tượng
nghiên cứu của khoa học chuyên sâu, gắn
với những tên tuổi như Lại Nguyên Ân,
Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn
Hạnh, Vương Trí Nhàn, Chu Nga, Huỳnh
Như Phương, Trần Đình Sử, Bích Thu,
Đinh Quang Tốn, Lê Ngọc Trà v.v. Các
(*)
ThS, Trường Cao đẳng Sư Phạm Daklak
tác giả trên chủ yếu nghiên cứu tác phẩm
như một tiếng nói xã hội gắn với những
chặng đường văn học dân tộc và thời đại, sức
chinh phục của tác phẩm, cũng như chuyện
văn chuyện đời của ông. Một vài ý kiến lẻ tẻ
về phương thức trần thuật, về giọng điệu, về
ngôn ngữ, về ngôi kể của chủ thể kể chuyện.
Đến nay chưa có nghiên cứu nào về người kể
chuyện trong cả truyện ngắn và tiểu thuyết
Nguyễn Khải như một công trình nghệ thuật
dưới góc độ thi pháp học.
Lê Ngọc Trà viết: “Chủ thể tường thuật
là một mặt của vấn đề tác giả trong văn học.
Nghiên cứu vấn đề người kể chuyện vừa tạo
điều kiện để nhận thức quá trình cá thể hoá
và cá nhân hoá trong sáng tạo văn học, vừa
mở ra cách tiếp cận với sự thể hiện của ý
thức nghệ thuật, với cái nhìn của nhà văn
trong tác phẩm”.
2. NỘI DUNG
2.1. Các hình thức xuất hiện của chủ
thể kể chuyện trong truyện và tiểu thuyết
Nguyễn Khải
52
Thứ nhất, Nguyễn Khải sử dụng
phương thức trần thuật khách quan hoá
làm xuất hiện kiểu người kể chuyện ẩn –
vô nhân xưng ở hai dạng: Không bình
luận trữ tình ngoại đề và có bình luận trữ
tình ngoại đề. Trong 1 truyện được
khảo sát có 33 truyện kể ở ngôi thứ ba
như ây dựng (1951), ung đột (1959 –
1961), Tầm nhìn xa (1963), hủ tịch
huyện (1971) Đặc điểm của loại truyện
này, người kể chuyện là người ngoài cuộc
nhưng lại biết hết mọi sự. Truyện chú
trọng sự gợi ý, không chấp nhận lối nói
trực tiếp công khai, ít để nhân vật thể
hiện mình. Điểm nhìn linh hoạt không bị
giới hạn nghiêm ngặt bởi không gian,
thời gian. Khoảng cách giữa người kể
chuyện và nhân vật được rút ngắn tối đa.
Người kể chuyện hiện diện trong tác
phẩm với tư cách là bóng dáng của tác
giả. Cơ hội đồng sáng tạo của bạn đọc khi
tiếp nhận tác phẩm bị hạn chế. Tuy nhiên,
người kể chuyện trong truyện kể ở ngôi
thứ ba của Nguyễn Khải không bị gò bó
bởi phạm vi của người thuật chuyện mà
luôn tìm cách thể hiện mình qua những
lời bình luận trữ tình ngoại đề đã tạo nên
sức hấp dẫn riêng.
Thứ hai, là phương thức trần thuật
chủ quan hoá – kiểu người kể chuyện lộ
diện xưng “tôi” trong truyện kể ở ngôi
thứ nhất. Có 4 dạng sau:
Dạng người kể chuyện xưng “tôi” –
chứng kiến, quan sát, không tham gia
biến cố trong các truyện con (1959),
Nếp nhà (1987) ng giữa đám đông
(1994)... Đặc điểm của người kể chuyện
này không phải là nhân vật của truyện.
Người kể chuyện đứng cùng vị trí với
tác giả vừa nghe, ghi, chứng kiến và cảm
nhận.
Dạng người kể chuyện xưng “tôi” có
tham gia nói chuyện với nhân vật trong các
truyện Ngư i g p hàng ngày (1981), húng
tôi và b n h n (1987), Ngư i k chuyện
thuê (1993)... Người kể chuyện là nhân vật
của truyện. Cái “tôi” – nhà văn, cái “tôi” –
nhân vật vừa là chủ thể vừa là đối tượng
thẩm mĩ. Dấu ấn chủ quan, cá tính nhà văn
in đậm trong tác phẩm. Cái “tôi” – nhà văn
xuất hiện một cách trực tiếp cùng bình diện
với các nhân vật khác của truyện. Điểm
nhìn linh hoạt, nhiều khi người kể chuyện
hoá thân vào nhân vật chính để bình luận từ
bên trong. Truyện kể sinh động, ngôn ngữ
đa thanh, giàu giọng điệu. Người đọc có
điều kiện đối thoại với nhân vật, sự đồng
sáng tạo của người đọc được phát huy.
Dạng người kể chuyện xưng “tôi” nói
thẳng là tác giả trong các truyện ái th i
lãng mạn (1987), Ngư i v (1988), Năm
tháng đã đi ua (19 9)... Người kể trong
truyện là nhân vật chính của truyện. Tác giả
xưng tên mình “anh Khải”, “đồng chí
Khải”, “thằng Khải” khi nói chuyện với
nhân vật. Nhiều chi tiết, tiểu sử, sự kiện,
biến cố cuộc đời được kể lại như một nhu
cầu của tác giả tự nói về mình, coi mình là
đối tượng của văn chương. Vì mục đích để
tự khẳng định mình, nên trong truyện người
kể không còn giấu kín thế giới riêng tư mà
tâm sự, giãi bày cùng bạn đọc. Việc người
kể chuyện xưng “tôi” nói thẳng là tác giả
đồng nghĩa với việc xác định vai trò nhà
văn. Tác giả nhân danh người kể chuyện
phát biểu trực tiếp quan điểm nghệ thuật của
mình. Điểm nhìn của người kể chuyện và
nhân vật không bị hạn chế, khoảng cách
giữa người kể chuyện và nhân vật gần gũi
tạo ra môi trường tự do bày tỏ quan điểm
suy tư của mình.
Dạng người kể chuyện xưng “tôi” nhưng
không nói rõ là tác giả trong các truyện nh
h ng b vận (1991), Nhóm bạn th i kháng
53
chiến (1995), hị ai (1997)... Người kể
chuyện là một nhân vật của truyện. Đằng
sau nhân vật là sự hoá thân của tác giả,
nhằm diễn tả đời sống tâm lí bên trong,
nhưng vẫn đảm bảo được tính khách quan
cho truyện. Người kể chuyện xưng “tôi”
trong truyện của Nguyễn Khải đóng rất
nhiều vai: có khi là người dẫn chuyện, khi
là nhân vật truyện, khi lại tự truyện. Không
hiếm trường hợp người kể chuyện xưng
“tôi” bị người đọc đánh đồng là tác giả.
Thứ ba, phương thức trần thuật kết
hợp (người kể chuyện hỗn hợp). Truyện
có nhiều dạng người kể chuyện xuất hiện
trong cùng một tác phẩm, thường là truyện
kể ở ngôi thứ nhất. Đặc điểm khác biệt
của người kể chuyện trong truyện là mức
độ cá thể hoá rõ rệt, do lối kết hợp phương
thức trần thuật khách quan hoá với
phương thức trần thuật chủ quan hoá.
Nghĩa là, trong truyện có 3 dạng kể: có
đoạn kể như vô nhân xưng, có đoạn “tôi”
kể, lại có đoạn một nhân vật trong truyện
đứng ra kể. Người kể chuyện không bị hạn
chế điểm nhìn. Cách nhìn không ngừng
được mở rộng trên nhiều bình diện. Nhiều
chủ thể kể chuyện, nhiều giọng điệu. Sự
kiện, tình tiết, biến cố, xung đột truyện
khó biết trước cái gì sẽ xảy ra. Việc sáng
tạo nghệ thuật trần thuật kết hợp đã làm
xuất hiện một kiểu cấu trúc mở cho
truyện. Loại này chiếm tỉ lệ đáng kể trong
69 truyện kể ở ngôi thứ nhất của Nguyễn
Khải. Đây là minh chứng Nguyễn Khải
không ngừng tự vượt lên chính mình, “tự
làm mới mình” trong hành trình lao động
nghệ thuật. Ông được coi là người đặt nền
móng cho truyện và tiểu thuyết đa thanh,
đa giọng điệu của văn xuôi tự sự Việt
Nam hiện đại.
2.2. Hình tượng người kể chuyện
trong truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải
Điểm dễ nhận ra trong tác phẩm Nguyễn
Khải là hình tượng người kể chuyện mang
chất cán bộ, suy tư – triết lí và tự giễu mình.
Trong tác phẩm a lạc (19 9), Đứa con
nuôi (1960), nh đội phó và ngư i th mộc
(1961), ãy đi xa hơn nữa (1962), hủ tịch
huyện (1971) của ông viết trước những
năm 19 , luôn xuất hiện hình tượng người
kể chuyện mang chất cán bộ. Lí giải hình
tượng này, có lẽ một phần Nguyễn Khải là
nhà văn mặc áo lính, có một thời gian dài
làm cán bộ tuyên huấn. Một phần trực tiếp
của thế giới quan là sáng tác của ông luôn
gắn liền với những chặng đường văn học dân
tộc. Vào những năm 6 của thế kỉ trước,
cuộc sống mới, con người mới là đối tượng
chủ yếu để nhà văn hướng tới nhằm ca ngợi
chế độ mới. Hai lí do trên đã chi phối hình
tượng người kể chuyện mang chất cán bộ.
Nó được thể hiện rõ qua cách quan sát của
nhà văn, cách nói chuyện với nhân vật và
giọng điệu của người kể chuyện. Hình tượng
người kể chuyện mang chất cán bộ là một
điểm nhấn giúp nhà văn thể hiện thành công
ý tưởng về nhân vật cho nền văn học mới.
Theo ông, hình tượng người kể chuyện mang
chất cán bộ ấy kết tinh được vẻ đẹp lí tưởng
của con người mới trong một chế độ mới.
Hình tượng đó, trải qua thời gian dài của lịch
sử đều chiếm được tình cảm và dư luận của
bạn đọc.
Trong tác phẩm ha và con và (1979),
Hai ông già ồng Tháp ư i (1981), p
g cu i năm (1982), ư già ch a Th m và
ông đại tá về hưu (1993), ạc th i (1994)
xuất hiện hình tượng người kể chuyện suy
tư, triết lí rất riêng. Nhà văn đã cắt nghĩa
hình tượng này từ phương thức trần thuật kết
hợp. Tác giả là người rất thích tranh luận
biện giải. Không ngần ngại bộc lộ trực tiếp
thái độ tình cảm của mình trước con người
và hiện thực. Sâu xa hơn, Nguyễn Khải
54
muốn khám phá “sự thật lòng người”, để
từ đó thể hiện tất cả chiều sâu suy tư,
chiều dài sự trải nghiệm. Những suy tư
triết lí về con người ở vấn đề may mắn
xui rủi, thành công hay thất bại, dại khôn,
được mất, sống chết ở đời có tác dụng
giáo dục lòng nhân ái, đề cao và coi trọng
giá trị đạo đức. Những suy tư triết lí về
cách mạng ở nội dung tiến bộ hay lạc hậu
có tác dụng khích lệ ý chí. Triết lí về xã
hội ở nội dung trường tồn hay bất ổn xấu
xa nhất thời, và phê phán mặt trái của xã
hội đã gợi ra nhiều bài học quý ở đời.
Hình tượng người kể chuyện tự giễu
mình trong tác phẩm Những ngư i già
(1994), àm trai (1995), Ngư i ngu
(1997), ng đ i (1999), Thư ng đế
thì cư i ( ) đã phần nào thể hiện
được tình cảm thẩm mĩ của thời đại mới.
Thời đại ý thức cá nhân được đề cao,
cho phép nhà văn thể nghiệm cá nhân.
Hình tượng người kể chuyện tự giễu
mình không phải là hiện tượng đầu tiên,
duy nhất trong tác phẩm văn xuôi tự sự.
Nhưng xét riêng trong truyện và tiểu
thuyết Nguyễn Khải, nó lại có ý nghĩa
quan trọng cho phép nhà văn tấn công
vào những cái cũ lạc hậu, lỗi thời một
cách trực diện. Ở vấn đề này, Nguyễn
Khải được dư luận đánh giá là một cách
làm mới mình rất ấn tượng.
Hình tượng người kể chuyện mang
chất cán bộ, suy tư triết lí và hình tượng
người kể chuyện tự giễu mình đã tạo nên
những cơn sóng ngầm suy tư, đem lại
nhiều điều mới mẻ trong cảm thụ của
người tiếp nhận. Những hình tượng ấy
luôn gợi hứng thú trí tuệ làm cho người
đọc thoả mãn, bởi những giọng điệu triết
lí tranh biện, trải nghiệm cá nhân rất sâu
sắc. Vì thế, Vương Trí Nhàn đã nói:
“ u n tìm hi u con ngư i th i đại với
tất cả cái hay cái d của h , nhất là mu n
tìm hi u cách ngh của h , đ i s ng tinh
thần của h , phải đ c Nguyễn Khải”.
2.3. Tác giả và người kể chuyện trong
truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải
Trường hợp song trùng giữa tác giả và
người kể chuyện thường thấy trong truyện
kể ở ngôi thứ nhất xưng “tôi” – nói rõ mình
là tác giả ( truyện), xưng “tôi” tự truyện
(1 truyện), truyện kể ở ngôi thứ ba và các
truyện có yếu tố tự truyện. Sự song trùng
giữa người kể chuyện và tác giả là một kiểu
dạng trần thuật mới, táo bạo thể hiện cái
“tôi” nghệ sĩ đầy bản lĩnh. Đây là một dấu
hiệu đổi mới tư duy nghệ thuật trần thuật rất
giàu giá trị thẩm mĩ, giàu sức truyền cảm,
góp phần làm cho truyện có tính đa thanh,
đa giọng điệu.
Trường hợp không song trùng giữa tác
giả và người kể chuyện do đặc thù của thể
loại tự sự. Thực ra sự không trùng hợp giữa
tác giả và người kể chuyện là sự khẳng định
con người nhiều chiều trong tính phức tạp
của nó. Sự không song trùng này đã làm cho
tác phẩm tự sự có tính đa thanh, đa giọng
điệu, làm cho người đọc hình dung được
hiện thực khách quan dường như mới được
viết cho người hôm nay. Đây cũng là một
dạng phổ biến của tự sự để tác giả rộng
đường bày tỏ quan điểm nghệ thuật của mình
trong việc sáng tạo người kể chuyện mà
không làm giảm sức truyền cảm, giá trị thẩm
mỹ của lời kể chuyện. Phương thức trần
thuật không song trùng giữa tác giả và người
kể chuyện thường làm cho tác phẩm tự sự
đạt được mục tiêu nhận thức và khám phá
hiện thực có tính khái quát hoá rộng lớn. Nó
là phương thức tự sự đã được khẳng định từ
lâu trong lịch sử sáng tạo văn học nghệ thuật.
Trường hợp không song trùng giữa tác
giả và người kể chuyện trong truyện kể ở
ngôi thứ nhất. Trong loại truyện này xuất
55
hiện người kể chuyện xưng “tôi” – chỉ
chứng kiến quan sát, không tham gia biến
cố xưng “tôi” không nói rõ mình là tác
giả và trong tác phẩm có người kể chuyện
hỗn hợp. Người kể chuyện trong tác phẩm
được hình tượng hoá. Trong những hình
tượng đó có hình tượng người kể chuyện
cán bộ, người kể chuyện suy tư triết lí,
giễu mình rất cụ thể và sống động. Nó trở
thành chất nội sinh táo bạo thực sự làm
đổi mới nghệ thuật kể chuyện, đem đến
cho người đọc những lời văn sắc sảo thấm
đẫm chất suy tư, triết lí. Đời sống tinh
thần được nhà văn khám phá, nhìn nhận
trong cảm hứng nghiên cứu, phân tích và
chiêm nghiệm rất sâu sắc. Đây là một
trong những cái cơ bản làm nên sự độc
đáo - nét mới của cây bút giàu chất trí tuệ
Nguyễn Khải so với các nhà văn cùng
thời, góp phần làm phong phú diện mạo
văn học.
Tự truyện làm cho người ta ý thức
được về sự thật, có khả năng nhìn thẳng
vào sự thật, phát hiện lại sâu sắc hơn
mối quan hệ giữa con người cá nhân với
con người xã hội, thúc đẩy nhu cầu đối
thoại với chính mình để phát triển. Một
số truyện như Ngư i tr về (1963),
hiến s (1973), ột gi t n ng nhạt
(1980), p g cu i năm (19 ) đậm
chất tự truyện. Tự truyện của nhà văn
thiên về lối kể. Đó là những kỉ niệm về tuổi
thơ không mấy suôn sẻ, về những bài viết
ngẫm lại thấy xấu hổ và buồn được tái hiện
như một giai thoại rất cảm động. Mặt khác,
tự truyện của ông viết về những con người
và các mối quan hệ xã hội đã góp phần tạo
nên tính cách con người ông. Tự truyện với
Nguyễn Khải vừa là nhu cầu tự nhận thức
lại chính mình, vừa tự làm mới mình trong
nghề viết. Tính chất tự truyện thể hiện trong
truyện và tiểu thuyết Nguyễn Khải là một tư
liệu quý giúp bạn đọc hiểu rõ thêm ít nhiều
về con người ông.
3. KẾT LUẬN
Nguyễn Khải là một trong những nhà
văn luôn tìm tòi thể nghiệm, mạnh dạn đổi
mới. Nếu trong những sáng tác trước năm
19 , nhà văn lấy quan điểm cộng đồng để
miêu tả, đánh giá hiện thực, thường xây
dựng người kể chuyện truyền tải những vấn
đề chính trị - xã hội, thì càng về sau với
mục đích suy ngẫm cuộc đời, dự báo những
biến đổi xã hội, tác phẩm lại thiên về khám
phá đời tư thế sự, xây dựng người kể
chuyện bằng sự trải nghiệm của chính mình.
Vì thế, trong tác phẩm của ông, các hình
thức chủ thể kể chuyện xuất hiện đa dạng
hơn và nhiều hình tượng người kể chuyện
đã đạt đến đỉnh cao của sự cách tân nghệ
thuật trần thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn h c, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2. M.Bakhtin (1992), í luận và Thi pháp ti u thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn và
giới thiệu, Bộ văn hoá Thông tin, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Hạnh (số 9 1996), Vài ý kiến về tác giả và tác phẩm của Nguyễn Khải,
Tạp chí Văn học, Hà Nội.
4. Nguyễn Khải (196 ), Nhìn lại những trang viết của mình, NXB Hội Nhà văn, Hà
Nội.
5. Nguyễn Khải ( 1), Ti u thuyết Nguyễn Khải, Tập 1, ,3,4, NXB Thanh Niên.
56
6. Nguyễn Khải ( 3), Truyện ng n 1, , NXB Hội Nhà văn Hà Nội.
7. Nguyễn Khải ( 3), Truyện vừa, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
8. Nguyễn Khải ( ), Nghề văn cũng l m công phu, Tạp văn, NXB Trẻ.
9. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn h c, NXB Văn nghệ TP. HCM.
10. Huỳnh Như Phương (19 6), Th i gian của ngư i, cu n ti u thuyết có âm hư ng,
Báo Văn nghệ (14), in lại trong Văn học 197 – 1985.
11. Trần Hữu Tá, Phạm Khánh Cao (1985), Ti u thuyết Việt Nam (I), ĐHSP. TP HCM.
12. Lê Ngọc Trà (199 ), í luận văn h c, NXB Trẻ.