TÓM TẮT
Bài viết bước đầu giới thiệu chân dung và sự nghiệp của A.N.Radisev (1749 – 1802),
nhà tư tưởng, nhà văn, người tiền trạm của phong trào Tháng Chạp và Cách mạng dân
chủ Nga những năm cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, người dũng cảm tuyên truyền cách
mạng, ca ngợi tự do dân chủ, công khai kêu gọi nhân dân vùng lên đấu tranh lật đổ ách áp
bức chuyên chế, thủ tiêu chế độ nông nô.
Radisev cũng là người mở ra một con đường hoàn toàn mới cho sự phát triển của thơ
ca cách mạng Nga. Cống hiến của Radisev có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sáng tác của A.X.
Puskin và nhiều nhà thơ Tháng Chạp khác.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Người lữ hành dũng cảm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5 - Thaùng 01/2011
96
NGƯỜI LỮ HÀNH DŨNG CẢM
TRẦN THANH BÌNH (*)
TÓM TẮT
Bài viết bước đầu giới thiệu chân dung và sự nghiệp của A.N.Radisev (1749 – 1802),
nhà tư tưởng, nhà văn, người tiền trạm của phong trào Tháng Chạp và Cách mạng dân
chủ Nga những năm cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, người dũng cảm tuyên truyền cách
mạng, ca ngợi tự do dân chủ, công khai kêu gọi nhân dân vùng lên đấu tranh lật đổ ách áp
bức chuyên chế, thủ tiêu chế độ nông nô.
Radisev cũng là người mở ra một con đường hoàn toàn mới cho sự phát triển của thơ
ca cách mạng Nga. Cống hiến của Radisev có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sáng tác của A.X.
Puskin và nhiều nhà thơ Tháng Chạp khác.
ABSTRACT
This article introduces the life and works of A.N. Radisev (1749 – 1802) – the thinker,
writer and pioneer of December movement and Russian democratic revolution during the
end of 18th century and the beginning of 19th century – who bravely propagandized
revolution in favor of democratic freedom and publicly summoned people to fight against
oppressive dictatorship which eliminated serfdom.
Radisev also paved the way for the complete innovation of Russian revolutionary
poetry. His devotion had a strong influence on the works of A.X.Puskin as well as of many
other poets of the December movement.
(*)Trong công cuộc đấu tranh cải tạo xã
hội Châu Âu thế kỉ XVIII, triết học khai
sáng được coi là trào lưu tư tưởng có vai
trò quan trọng hàng đầu. Chứng kiến sự
khủng hoảng ngày càng trầm trọng của
chế độ phong kiến Châu Âu khi phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang tỏ ra
thắng thế, các nhà khai sáng tiêu biểu như
Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Diderot
v.v. đã kịch liệt chỉ trích mọi trật tự lỗi
thời của chính quyền phong kiến, lên án
tôn giáo, nhà thờ, kêu gọi xoá bỏ mọi áp
bức, bất công xã hội và đòi quyền tự do,
giải phóng cho nhân dân. Tuy nhiên, trong
khát vọng thực hiện những lí tưởng cao
đẹp ấy, các nhà khai sáng Châu Âu lại
(*)
TS, Nhà Xuất bản Giáo dục tại TP. Hồ Chí
Minh
trông chờ sự nhượng bộ của chính quyền
phong kiến, đặt hi vọng vào những cải cách
hoà bình, vào sự hiểu biết, thông cảm lẫn
nhau giữa giai cấp thống trị và những tầng lớp
bị trị v.v.
Còn ở Nga, chính trong thời kì chế độ
chuyên chế nông nô phát triển đến mức cao
nhất dưới triều đại Ekaterina II (1762-1796),
một đại biểu ưu tú của tư tưởng khai sáng đã
dũng cảm tuyên truyền cách mạng, công khai
kêu gọi nhân dân vùng lên đấu tranh, lật đổ
ách áp bức chuyên chế, thủ tiêu chế độ nông
nô để giành lại hạnh phúc và quyền tự do
thiêng liêng cho con người. Đó là Alechsandr
Nikolaevich Radisev, nhà tư tưởng, đồng thời
là nhà văn – chiến sĩ, người tiền trạm của
phong trào Tháng Chạp và cách mạng dân
chủ Nga những năm sau này.
A.N.Radisev sinh ngày 20/8/1749 trong
97
một gia đình địa chủ thuộc vùng Xaratôp.
Năm 1766, sau khi tốt nghiệp Trường
Trung học Pagiexki (Matxcơva), Radisev
cùng một số học viên xuất sắc được đích
thân Nữ hoàng Ekaterina II gửi sang Đức
tu nghiệp tại Trường Đại học Tổng hợp
Laixich. Chính thời gian này, Radisev bắt
đầu làm quen với trước tác của các nhà
khai sáng châu Âu, trong đó cuốn sách Về
trí tuệ của nhà triết học duy vật người
Pháp Henvetxi – tác phẩm mà Diderot
đánh giá là “đòn chí tử giáng vào mọi thứ
định kiến” – được chàng sinh viên Nga đặc
biệt yêu thích. Tháng 11/1771, Radisev trở
về Tổ quốc và được bổ nhiệm vào Ban thư
kí của Viện Tham chính (Xenat) – cơ quan
lập pháp cao nhất nước Nga thời bấy giờ.
Những năm tháng làm việc tại đây, tiếp
xúc trực tiếp với các điều luật, văn bản,
Nghị định, chỉ thị v.v. của chính quyền
Nga hoàng, Radisev ngày càng thấu hiểu
thực trạng bất bình đẳng ghê gớm đang đè
nặng lên xã hội và nhân dân Nga: luật
pháp hiện hành chỉ là phương tiện bảo vệ
quyền lợi của giai cấp quý tộc địa chủ, còn
nông dân thì chỉ có thứ “pháp luật của thần
chết” mà thôi.
Năm 1773, cả nước Nga rung chuyển
với cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất
lịch sử do E.I.Pugatsov cầm đầu. Bùng
lên từ vùng Vonga và sông Đông, ngọn
lửa khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng đến
tận Trung và Nam Uran, Tây Xibir,
Basokiria, Perm v.v., đe doạ nghiêm
trọng sự tồn tại của chính quyền phong
kiến. Cùng năm đó, Radisev cũng chính
thức bắt đầu con đường đấu tranh xã hội
của mình bằng việc xuất bản bản dịch tác
phẩm Những suy nghĩ về lịch sử Hi Lạp
của nhà sử học nổi tiếng người Pháp
Mabli. Trong công trình này, Radisev
không chỉ dịch Mabli mà còn diễn giải và
trình bày nhiều quan điểm, nhận xét về các
vấn đề tự do, dân chủ, bình đẳng xã hội v.v.,
thể hiện rõ bản lĩnh và tầm nhìn của một nhà
tư tưởng. Với kết luận: “Chế độ chuyên chế
là hình thái mâu thuẫn gay gắt nhất với bản
chất con người”, Radisev được coi là người
đầu tiên trên văn đàn Nga xác lập những tiền
đề cơ bản cho một cuộc cách mạng giải
phóng.
Năm 1782, tượng đài Kị sĩ Đồng – một
công trình điêu khắc nổi tiếng kỉ niệm Piot
Đại đế – được long trọng khánh thành tại Sant
Peterburg. Nhân sự kiện đó, Radisev đã viết
Thư gửi người bạn ở Tobonsk. Nội dung tư
tưởng của tác phẩm chính luận này là quan
niệm sáng tạo của Radisev về vai trò cá nhân
trong lịch sử: một cá nhân chỉ trở thành vĩ
nhân nếu sự nghiệp người đó gắn liền với lợi
ích của quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, phân
tích hình tượng Piot Đại đế, Radisev đã nhìn
thấy ở đó, một mặt là nhân cách một quân
vương – nhà cải cách vĩ đại, “người thợ mộc”
kiên quyết xây dựng lại nước Nga từ đổ nát,
hoang tàn; mặt khác lại là kẻ độc tài chuyên
chế, luôn gây chiến để bành trướng lãnh thổ,
“người thủ tiêu những dấu hiệu cuối cùng của
tự do nguyên thuỷ trên đất nước”. Từ thực tế
đau xót ấy, Radisev khẳng định: một chính
quyền mà nếu không ai, không có gì kiểm
soát được nó thì chính quyền ấy tất yếu sẽ
chuyển thành chế độ chuyên chế, khi đó
“Không, và có lẽ là không bao giờ Nga hoàng
lại tự nguyện từ bỏ, dù chỉ một chút, quyền
lực của mình”.
Tự do – bài thơ nổi tiếng của Radisev
(viết năm 1783) – có thể được coi là bản
trường ca đầu tiên của dòng văn học cách
mạng Nga thế kỉ XVIII. Ra đời trong bối
cảnh cuộc đấu tranh vì độc lập của mười ba
nước thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ vừa giành
được thắng lợi, bài thơ – như nhan đề của nó
– là khúc hát ngợi ca những giá trị thiêng
98
liêng của tự do, “báu vật vô giá”, “ngọn
nguồn của mọi sự nghiệp vĩ đại”, là cảm
hứng lãng mạn thể hiện khát vọng các
dân tộc đang đứng lên chống lại ách áp
bức của chế độ chuyên chế phong kiến:
Ôi các anh, những con người hạnh
phúc
Có nơi đâu tự do được ban phát ngẫu
nhiên
Hãy gìn giữ tự do như báu vật
Và khắc sâu mãi mãi trong tim.
Không dừng lại ở đó, với nội dung
chính trị – xã hội sâu sắc, Tự do còn là
bản tuyên ngôn trình bày những lí luận cơ
bản về đường lối của một cuộc cách
mạng nhân dân, khác hẳn với tư tưởng
cải lương của các nhà khai sáng châu Âu.
Chẳng hạn, G.Rousseau trong Khế ước xã
hội chỉ đề nghị: nếu một bậc quân vương
do xã hội lựa chọn lại không xứng đáng
với ngôi vị của mình thì xã hội sẽ có
quyền huỷ bỏ sớm hơn khế ước đã kí với
quân vương đó, nhưng điều quan trọng
nhất: phải thực hiện việc huỷ bỏ khế ước
như thế nào thì Rousseau im lặng.
Còn Radisev, với quan điểm biện
chứng: lịch sử không đứng yên, và chế độ
chuyên chế không phải là vĩnh viễn, ông
nhấn mạnh đến sự phẫn nộ của nhân dân
đối với chính quyền phong kiến:
Vua chễm chệ nắm trong tay quyền
trượng
Đám lâu la khúm núm trước ngai
vàng
Nhưng trước mắt nhân dân chỉ thấy
Bọn người kia như một lũ thú hoang,
Và khẳng định: một khi sự phẫn nộ
đã dồn nén đến cực điểm, nhân dân tất
yếu sẽ đứng lên khởi nghĩa vũ trang,
dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo
lực chuyên chế:
Quân khởi nghĩa khắp nơi nổi dậy
Tất cả đều chung một khát vọng sục sôi
Kẻ bạo ngược phải chết trong vũng máu
Ta mau mau rửa nỗi nhục muôn đời.
Hãy vui lên, khối toàn dân đoàn kết
Thuộc về ta quyền báo thù thiêng liêng
Đoạn đầu đài đã sẵn sàng rồi đấy
Hãy lôi ra xét xử cả quân vương.
Trong dư âm thắng lợi của cách mạng
nhân dân các nước Bắc Mĩ, Radisev đã viết
những dòng thơ tươi sáng, lạc quan, động
viên nhân dân vượt qua mọi khó khăn thử
thách, vững tin vào thắng lợi cuối cùng:
Chúng ta không quên quy luật của muôn
đời
Từ đổ nát, tối tăm, từ máu lửa
Sẽ bừng lên những tinh cầu rạng rỡ
Kết vòng hoa dâng thế giới đại đồng.
Khi thử nghiệm bút lực của mình trong
thơ ca, Radisev đã mở ra con đường hoàn toàn
mới cho sự phát triển một nền thơ cách mạng.
Khác với các tác giả của chủ nghĩa cổ điển như
M.Lomonosov, B.Trediakov, A.Sumarokov,
G.Dergiavin v.v., Radisev đã quan niệm về
phạm trù cái cao cả trong thơ một cách đầy
sáng tạo. Ở đây, cao cả không phải là chủ đề
về Chúa trời, về quân vương hay các bậc công
hầu, khanh tướng mà là khát vọng tự do, là
cuộc đấu tranh sống mái vì tự do của con
người. Trong một đất nước mà nhân dân còn
đau khổ, chìm đắm dưới ách thống trị của chế
độ chuyên chế, người nghệ sĩ phải thực hiện sứ
mệnh cao cả của mình: “nhà tiên tri” tiên đoán
và khẳng định thắng lợi tất yếu của cuộc đấu
tranh giải phóng.
Trong cảm hứng sáng tác của Radisev,
chủ đề lịch sử chiếm một vị trí quan trọng.
Với ông, lịch sử không chỉ là bài học xương
máu góp phần soi sáng hiện tại, dự báo tương
lai mà còn là một hình thức tuyên truyền cách
mạng sinh động và thuyết phục. Trường ca
Những khúc hát lịch sử mà Radisev viết
những năm cuối đời có thể được coi là điển
99
hình cho loại sáng tác này.
Trong trường ca, từ những sự kiện
tiêu biểu của lịch sử phương Đông, Hi
Lạp và La Mã cổ đại, Radisev đã khái
quát lịch sử thế giới theo những quy luật
chính trị đanh thép và rõ ràng: thứ nhất,
không thể có sự thoả hiệp giữa tự do của
nhân dân với quyền lợi của chính quyền
chuyên chế; thứ hai, sự thay đổi các triều
đại phong kiến thực chất chỉ là sự thay
đổi bạo chúa này bằng bạo chúa kia; và
thứ ba, mọi hi vọng vào một chính thể
phong kiến “vua sáng tôi hiền” suy cho
cùng cũng chỉ là ảo vọng. Mặc dù chưa
hoàn thành nhưng với nội dung tư tưởng
sâu sắc và tính chiến đấu mãnh liệt,
Những khúc ca lịch sử, cùng với tụng ca
Tự do, xứng đáng được coi là tượng đài
ghi nhận chặng đường đầu phát triển của
thơ ca cách mạng Nga.
Suốt một thời gian dài, Radisev kiên
trì xây dựng hệ thống từ vựng và xác định
phong cách mới cho thơ ca cách mạng
Nga. Cống hiến của Radisev đã có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sáng tác của A.Puskin
và nhiều nhà thơ Tháng Chạp khác như
K.Ryleev, A.Odoevski, A.Bestugiev v.v.
Chính vì vậy mà sau này, vào năm 1790,
khi Radisev bị chính quyền Ekaterina II
kết án đày đi Sibir, trên đường đến Ilimsk
– nơi đày ải, ông đã tự hào thừa nhận:
Tôi khai phá dòng văn học mới
Cho những con người dũng cảm,
thông minh.
Tiểu thuyết Cuộc đời của Phedo
Vasilievich Usakov (1787) được Radisev
sáng tác dựa trên những sự kiện có thật
xảy ra trong thời gian ông theo học tại
Trường Đại học Tổng hợp Laixich (Đức).
Khi đó, trực tiếp quản lí nhóm sinh viên
Nga ở trường là Bokum, một thiếu tá
giám thị độc ác và thô lỗ, gian trá và
tham lam, hống hách và ti tiện. Dựa vào
quyền lực của mình, hắn đã ngang nhiên
chiếm đoạt phần lớn số tiền học bổng cấp
cho sinh viên, khiến mọi người phải ăn đói,
mặc rách, sống chui rúc trong những căn
phòng ổ chuột. Quá bất bình trước hành vi
trắng trợn đó, nhóm sinh viên Nga do
Usakov dẫn đầu đã kéo lên gặp Bokum, bắt
hắn ta phải trả lại số tiền chiếm đoạt. Không
những không trả lại tiền, Bokum còn lớn
tiếng thách thức, dọa nạt và thậm chí, tát
thẳng vào mặt Nasakin – một sinh viên trong
nhóm tranh đấu. Thế là giọt nước cuối cùng
đã làm tràn li. Usakov cùng nhóm sinh viên
lập tức vây lấy viên thiếu tá, dùng sức mạnh
tập thể buộc hắn ta phải chấp nhận một trong
hai điều kiện: hoặc quyết đấu với Nasakin,
hoặc sẽ bị ăn đòn. Dĩ nhiên, gã Bokum hèn
nhát kia không bao giờ dám chọn phương án
thứ nhất. Thế là Nasakin và một sinh viên
khác đã giáng cho Bôkum những cái tát nảy
lửa, khiến tên này phải nhục nhã bỏ chạy
tháo thân.
Dễ dàng nhận thấy đằng sau những sự
kiện miêu tả trong tiểu thuyết, Radisev đã có
ý thức phát triển chủ đề tác phẩm lên tầm
khái quát mới. Ở đây, chủ đề sinh hoạt đời
thường đã chuyển biến thành chủ đề chính trị
– xã hội: thiếu tá Bokum chính là hiện thân
của những hôn quân, bạo chúa; và cuộc đấu
tranh của tập thể sinh viên chính là hình ảnh
tượng trưng cho phong trào đấu tranh giải
phóng của nhân dân. Đặc biệt, qua tính cách
của nhân vật chính Usakov – một trí thức
Nga trẻ tuổi đầy tài năng, người luôn hướng
lòng mình về Tổ quốc đau thương và nhận
thức sâu sắc được sứ mệnh của mình trong
cuộc đấu tranh chống áp bức, bất công – tác
phẩm đã đóng góp cho phong trào đấu tranh
xã hội Nga hình tượng về mẫu người lí
tưởng của thời đại mới: những nhân vật tích
cực, giác ngộ cao, sẵn sàng dấn thân vì tự
100
do, hạnh phúc nhân loại.
Từ giã cuộc đời ở tuổi 23, Usakov
không thể tiếp tục đồng hành cùng thế hệ
mình trên những bước đường tranh đấu,
song hình ảnh của anh sống mãi trong
tâm trí bạn bè. Khi viết về Usakov với
niềm tiếc thương sâu sắc, Radisev không
phải ngẫu nhiên đã chọn thể loại “truyện
các thánh” (gitie) chứ không chọn các thể
loại truyện thông thường.
Không chỉ viết văn, làm thơ, Radisev
còn là một cây bút chính luận sắc sảo,
luôn quan tâm đến những vấn đề nóng
bỏng của thời cuộc. Một trong những tác
phẩm chính luận điển hình mà ông viết
thời kì này là công trình Đối thoại về việc
ai xứng đáng mang danh người con của
Tổ quốc. Từ xuất phát điểm: danh hiệu
“người con của Tổ quốc” chỉ xứng đáng
với những công dân có lòng nhiệt tình
yêu nước, luôn hành động vì lợi ích
chung của xã hội, Radisev đã quan sát
toàn bộ đời sống đất nước và nghiêm
khắc đưa ra nhận xét: ở nước Nga hiện
nay, khi ách chuyên chế nông nô đang đè
nặng lên tất cả thì không một ai xứng
đáng với danh hiệu cao quý trên bởi vì
khi đó, giai cấp quý tộc địa chủ tất yếu
biến thành lớp người ăn bám, bóc lột, còn
nông dân bị tước đoạt quyền con người,
bị coi như “súc vật” hay những “công cụ
biết nói”. Mặc dù trong công trình này,
Radisev chưa trực tiếp phát biểu công
khai kết luận cuối cùng: để nước Nga
thực sự có những người con chân chính,
dứt khoát phải thủ tiêu chế độ chuyên chế
nông nô, song tinh thần ấy sẽ được ông
thể hiện trong tác phẩm quan trọng nhất
đời mình: Hành trình từ Peterburg đến
Moskva (từ đây viết gọn: Hành trình).
Ngay từ giữa những năm 80, Radisev
đã bắt tay khởi thảo tác phẩm này. Được
viết theo thể loại du kí, ghi chép lại những
điều mắt thấy tai nghe qua những cuộc tiếp
xúc, trò chuyện với đủ loại người có nghề
nghiệp, địa vị xã hội, tuổi tác khác nhau,
Hành trình là tác phẩm hiện thực mang tính
khuynh hướng rõ rệt. Theo bước chân người
lữ hành trên con đường ngàn dặm từ
Peterburg đến Moskva, người đọc nhìn thấy
cả nước Nga những năm cuối thế kỉ XVIII
hiện lên vô cùng sống động với tất cả những
mâu thuẫn của nó; trong đó hình ảnh người
nông dân đối lập gay gắt, quyết liệt với mức
độ khủng hoảng trầm trọng của chế độ
chuyên chế nông nô đã trở thành cảm hứng
phê phán chủ đạo xuyên suốt tác phẩm. Đặc
biệt, trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc hiện thực
ngổn ngang, đa dạng của cuộc sống xã hội
Nga sau khởi nghĩa Pugasov, nhà văn đã đúc
kết và dũng cảm đặt ra những vấn đề cốt yếu
nhất của một cuộc cách mạng cho tương lai
nước Nga.
Như đã biết, dưới chính thể của Ekaterina
II, chế độ nông nô được coi là một hình thái
kinh tế – xã hội cần thiết và được pháp luật
thừa nhận, bảo vệ. Số phận phụ thuộc hoàn
toàn vào địa chủ, người nông nô không chỉ bị
bóc lột tàn tệ đến tận xương tuỷ mà còn bị
tước đoạt cả quyền sống, quyền làm người.
Trước Radisev, văn học Nga đã có những tác
phẩm của Kantemir, Sumarokov, Phonvigin
v.v. phê phán, đả kích chế độ chuyên chế
nông nô nhưng phải đến Hành trình, hình thái
phản động ấy mới bị vạch trần đầy đủ như
một “tập tục man rợ” cần phải đấu tranh xoá
bỏ ngay lập tức.
Xuất phát từ một luận điểm cơ bản của
thuyết khai sáng: mọi người sinh ra đều có
quyền tự do và bình đẳng, Radisev đã phẫn
nộ vạch trần tội ác ghê tởm của chế độ nông
nô khi chế độ ấy ngang nhiên bóc lột và tước
đoạt quyền công dân của hàng chục triệu
người. “Lẽ nào một quốc gia có tới hai phần
101
ba dân số bị tước quyền công dân, và một
phần trong đó thậm chí còn bị pháp luật
coi như đã chết, lại là một quốc gia thịnh
vượng? Lẽ nào tình cảnh của nông dân
Nga hiện nay lại được coi là sáng sủa?”.
Từ Liuban, qua Mednoe, Chudovo,
Spaskaia polest, Giaisevo v.v. (các trạm
dừng chân của cuộc hành trình, đồng thời
cũng là các chương của cuốn sách), đâu
đâu tác giả cũng gặp những bộ mặt địa
chủ ác bá, điển hình cho chế độ nông nô
Nga – “những tên đao phủ”, “những kẻ
hút máu người”, “những kẻ tạo dựng cơ
nghiệp của mình bằng sự cướp đoạt”. Tên
địa chủ ở Giaisevo “chiếm đoạt toàn bộ
đất đai, gia súc của nông dân trong vùng,
buộc nông dân làm việc quần quật cho
mình suốt cả tuần lễ, và để họ không chết
đói ngay, hắn hào phóng ban cho họ ăn
mỗi ngày một bữa”. Tên địa chủ ở
Mednoe nhẫn tâm bán cả người lão bộc
trung thành trước đây từng cứu hắn khỏi
chết đuối, cả bà vú nuôi từng chăm bẵm
hắn suốt thời ấu thơ, bán luôn cả cô gái
nông dân mà hắn đã cướp đoạt trinh
tiết Còn tên địa chủ ở Liuban, tác giả
đã phải căm uất thốt lên khi chứng kiến
sự lộng hành, tàn bạo của hắn: “Thật
khủng khiếp, hỡi kẻ mất nhân tính, trên
thân thể mỗi nông nô của mi, ta đều thấy
dấu roi trừng phạt” v.v.
Không chỉ có vậy, ở mức độ khái
quát hơn, Radisev còn nhận rõ: chế độ
nông nô chính là kẻ thù của tinh thần
sáng tạo dân tộc, là nguyên nhân dẫn đến
sự tổn thương đạo đức xã hội hết sức
nặng nề. Bằng thực tiễn sinh động, ông
chứng minh rằng, người nông dân trên
thửa ruộng của mình sẽ làm lụng với tất
cả “sự cần mẫn và siêng năng, tích cực và
sáng tạo”, khác hẳn với người nông nô
khốn khổ, bị hành hạ tối tăm mặt mũi,
phải vắt kiệt mồ hôi của mình cho ruộng đất
chủ nô. Đồng thời, một khi quan hệ chủ nô –
nô lệ ngày càng đè nặng lên xã hội, đạo đức
xã hội tất yếu sẽ bị phân hoá theo hai hướng:
giai cấp quý tộc địa chủ ngày càng trở nên
đồi bại, tàn nhẫn; còn giai cấp nông dân,
nông nô ngày càng trở nên khiếp nhược, đớn
hèn. Hậu quả là cả quốc gia và dân tộc cùng
suy yếu.
Cùng với chế độ nông nô, nền chuyên
chế Nga hoàng và hết thảy bộ máy quan liêu,
độc đoán của nó cũng trở thành đối tượng
phê phán quyết liệt của Radisev.
Trong Hành trình, vầng hào quang giả
tạo từng bao trùm lên ngai vàng chuyên chế
từ hàng chục thế kỉ nay đã bị xé toạc. Giấc
mơ của người lữ hành về một Nga hoàng
“hồi tâm phục thiện, ăn năn khiếp sợ vì tội
lỗi của mình” (chương Spaskaia polest) thực
sự là tiếng cười châm biếm cay độc, cảnh
tỉnh mọi người. Sau giấc mơ, người lữ hành
thấy rằng: “trên ngai vàng, tất cả những sa
hoàng, giáo chủ, lãnh chúa, xuntan hay một
danh vị gì đó đều chẳng là gì hết”.
Dưới ngòi bút phê phán sắc sảo của
Radisev, nền chuyên chế trở thành thể chế
nguy hiểm cho xã hội không chỉ vì tất cả đều
phụ thuộc vào quyền tối thượng của hoàng
đế trên ngai mà còn vì đó là một bộ máy nhà
nước độc đoán, bóp nghẹt mọi tư tưởng tự
do dân chủ, vì các đại diện lớn nhỏ của nó
đều là những hoàng đế không ngai, quan
liêu, say sưa quyền lực và mặc sức hành hạ
dân lành. Đó là viên quan thản nhiên nhìn
những người dân sắp chết đuối mà không
thèm động tay cứu giúp vì “điều đó không
ghi trong chức danh của mình”, là viên chủ
sự bưu điện phung phí tiền nhà nước trả
lương cho vô số nhân viên để gửi đi khắp nơi