Nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh

I - NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. 1 - Nguồn gốc lý luận, tư tưởng. a. Tư tưởng và văn hoá truyền thống Việt Nam. Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã tạo lập cho dân tộc một nền văn hoá đặc sắc, phong phú và bền vững với nhiều truyền thống tốt đẹp và cao quý. Những truyền thống t ư tưởng và văn hoá này đã góp phần tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là: - Chủ nghĩa yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất để dựng nước và giữ nước. Đây là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hoá-tinh thần Việt Nam. - Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong hoạn nạn, khó khăn. Truyền thống này được quy định bởi cuộc đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Người Việt có thói quen sống gắn bó, tắt lửa tối đèn có nhau trong tình làng nghĩa xóm. Truyền thống này rất bền vững tr ước những biến đổi của lịch sử.

pdf10 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 2085 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH I - NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. 1 - Nguồn gốc lý luận, tư tưởng. a. Tư tưởng và văn hoá truyền thống Việt Nam. Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã tạo lập cho dân tộc một nền văn hoá đặc sắc, phong phú và bền vững với nhiều truyền thống tốt đẹp và cao quý. Những truyền thống tư tưởng và văn hoá này đã góp phần tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là: - Chủ nghĩa yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất để dựng nước và giữ nước. Đây là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hoá-tinh thần Việt Nam. - Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong hoạn nạn, khó khăn. Truyền thống này được quy định bởi cuộc đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Người Việt có thói quen sống gắn bó, tắt lửa tối đèn có nhau trong tình làng nghĩa xóm. Truyền thống này rất bền vững trước những biến đổi của lịch sử. - Truyền thống lạc quan, yêu đời. Cơ sở của tinh thần lạc quan đó là từ niềm tin vào bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa dù hiện tại còn đầy gian chuân, khổ ải. - Dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, là một dân tộc không ngừng học hỏi điều hay, lẽ phải và không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá của nhân loại. Người Việt Nam không chỉ biết tiếp thu tư tưởng Phật, Lão, Nho...của phương Đông mà cả những tư tưởng văn hoá hiện đại của phương Tây, người Việt Nam ngay từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc dân tộc, nhân dân ta biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị của riêng mình. b.Tinh hoa văn hoá nhân loại Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ đã được hấp thu một nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Trong những năm ở nước ngoài, Người đã không ngừng làm giàu trí tuệ mình bằng những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Hồ Chí Minh là một con người đặc trưng cho sự kết hợp hài hoà văn hoá Đông-Tây. - Tư tưởng văn hoá phương Đông. + Tư tưởng của Nho giáo: Hồ Chí Minh đã nhìn thấy và đã nhiều lần phê phán, bác bỏ những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, coi khinh lao động chân tay, coi thường phụ nữ, khinh thường thực nghiệp, doanh lợi...của Nho giáo nhưng Người cũng thấy được những yếu tố tích cực mà nhờ đó Nho giáo có sức sống mãnh liệt trong mấy ngàn năm qua. Đó là: triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; đó là lý tưởng về một xã hội bình trị, an ninh, hoà mục; là triết lý nhân sinh: tu thân, dưỡng tính, mọi người từ vua tới dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc. Bên cạnh đó Nho giáo đề cao văn hoá, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Điểm này là điểm hơn hẳn của Nho giáo so với các học thuyết cổ đại vì nhiều học thuyết thời ấy chủ trương ngu dân để dễ cai trị. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ nhiệm vụ cách mạng. - Tư tưởng của Phật giáo: Nói Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hoá truyền thống là bao hàm cả Phật giáo. Hồ Chí Minh đã nhận thấy bên cạnh những hạn chế, Phật giáo có nhiều mặt tích cực. Đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân, kêu gọi nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đó là tinh thần bình đẳng, dân chủ chất phác, chống lại sự phân chia dẳng cấp; ngoài ra Phật giáo đề cao tinh thần lao động, chống lười biếng, chủ trương sống gắn bó với nhân dân và đất nước. - Ngoài tư tưởng của Nho giáo và Phật giáo, ta còn có thể tìm thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh những tư tưởng khác của các nhà tư tưởng phương Đông như Lão tử, Mặc tử, Quản tử...và sau này là Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn vì " những điều đó thích hợp với điều kiện nước ta". Hồ Chí Minh là người đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hoá phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. - Tư tưởng văn hoá phương Tây Khi học từ tiểu học đến trung học, Nguyễn Tất Thành đã làm quen với nền văn hoá Pháp, đặc biệt Nguyễn Tất Thành rất muốn tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789. Khi đến nước Mỹ, Hồ Chí Minh được biết bản Tuyên ngôn độc lập 1776 nổi tiếng của nước Mỹ, sau Người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người được ghi trong bản Tuyên ngôn ấy. Sống, làm việc ở Anh, đặc biệt là thời kỳ sống ở thủ đô nước Pháp ( 1917), Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với một trung tâm văn hoá-nghệ thuật lớn của châu Âu và hiểu được nền văn hoá Pháp. Nước Pháp là quê hương của tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng, những lý luận gia của Đại cách mạng Pháp: Vonte, Rutxô, Môngtecxkiơ...Bên cạnh đó, Nguyễn Ái Quốc còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân chủ cho mình ngay từ trong cuộc sống thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia đảng phái, hội họp, ra báo, phát biểu ý kiến và trình bày quan điểm của mình trước dư luận Pháp, viết bài phê phán, lên án bọn quan lại, vua chúa nước mình, cả bọn thống sứ , toàn quyền đang gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc còn học được cách làm việc dân chủ ngay trong cách sinh hoạt khoa học ở các câu lạc bộ và trong sinh hoạt chính trị của Đảng Xã hội Pháp. Tóm lại: nhờ quá trình được rèn luyện trong phong trào công nhân, đướcự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước trưởng thành. Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa thu nhận, vừa chắt lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ, hành động, vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam. c. Chủ nghĩa Mác-Lênin Từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, trong Quốc tế cộng sản và trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc. Ở đây Hồ Chí Minh được tiếp xúc với các văn kiện của Quốc tế Cộng sản, được đọc các tác phẩm của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin. Người đã tham dự các lớp học lý luận của Quốc tế Cộng sản và được tiếp xúc với nhiều lãnh tụ cộng sản của nhiều nước. Những công việc đó đã giúp Người nhận thức được bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp biện chứng macxit mà vấn đề cốt tử là lý luận luôn luôn gắn với thực tiễn cách mạng. Thế giới quan và phương pháp luận Mác-Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá, phân tích, tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra con đường cách mạng đúng đắn. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển lý luận Mác-Lênin một cách sáng tạo. Hoạt động trong phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh càng có điều kiện để khẳng định tư tưởng độc lập, tự chủ, tự lập, tự cường trong sự nghiệp giành lại độc lập và xây dựng đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. 2 - Nguồn gốc thực tiễn. a. Thế giới Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chỉ 9 nước đế quốc ( Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Nhật Bản, Bỉ, Mỹ, Hà lan ) đã chi phối toàn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc của chúng. Nhân dân ở các nước thuộc địa bị tước đoạt những giá trị văn hoá, tinh thần, quyền lợi kinh tế và địa vị xã hội...Mạng sống của người dân thuộc địa " không đáng một đồng trinh". Cùng vơi mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản-mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản-chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh một mâu thuẫn mới-mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân, mâu thuẫn này ngày càng gay gắt. Ở những thập niên đầu thế kỷ XX, do sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, một số nước đế quốc muốn chia lại thuộc địa đã gây ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914-1918). Cuộc chiến tranh hao người tốn của ấy làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa, làm cho chủ nghĩa tư bản thế giới suy yếu. Cách mạng tháng Mười Nga ( 1917) thắng lợi, mở ra thời đại mới-thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, đồng thời Nhà nước Xôviết ra đời làm nảy sinh một mâu thuẫn mới mang tính thời đại: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại cùng với sự thành lập Quốc tế Cộng sản đã tạo tiền đề, điều kiện cơ bản thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển nhanh chóng. b. Trong nước Vào giữa thế kỷ XIX, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập bị chủ nghĩa tư bản Pháp xâm lược, trở thành nước thuộc địa, nửa phong kiến. Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam không có tự do. Kể từ khi triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Patơnot ( 1884) chịu sự bảo hộ của đế quốc Pháp, trừ một số ít người can tâm làm tay sai cho giặc, còn đại đa số nhân dân vẫn nung nấu chí căm thù và chờ thời cơ vùng lên tự giải phóng. Lớp lớp sỹ phu và đồng bào yêu nước đã liên tục đứng lên chiến đấu giành lại độc lập. Song, những kinh nghiệm lịch sử chống ngoại xâm chưa phát huy được tác dụng trước một kẻ thù mới-chủ nghĩa đế quốc. Các phong trào kháng chiến, các con đường cứu nước đều bị thất bại. Cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài nô lệ, tưởng chừng như không có đường ra. Sứ mệnh lịch sử đặt ra cho dân tộc, cho mỗi người Việt Nam yêu nước lúc bấy giờ là phải tìm ra con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Chính trong điều kiện lịch sử ấy, Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của lịch sử. 3 - Nhân tố chủ quan - Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản hiện đại, không để bị đánh lừa bởi cái hào nhoáng bên ngoài. - Sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để có thể tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin, khoa học về cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế. - Tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sỹ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào. Chính những phẩm chất cá nhân hiếm có đó đã quyết định việc Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hoá, phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình. II - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1 - Từ 1890-1911: Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng. Nguyễn Tất Thành-Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan. Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước, từ thuở nhỏ, Hồ Chí Minh đã được hưởng một nền giáo huấn " yêu nước, thương nòi" của gia đình, truyền thống đấu tranh bất khuất của quê hương. Vốn có tư chất thông minh, linh khiếu chính trị sắc sảo, Người đã ôm ấp chí lớn là tìm con đường cách mạng để cứu nước, cứu dân, không đi theo con đường phong kiến, lối mòn của các bậc tiền bối. Người nói: " Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi nghe những tiếng Pháp " Tự do, Bình đẳng, Bác ái". Thế là tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ " mỹ miều" ấy. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem " mẫu quốc" ra sao và tôi tới Pari để học hỏi và về cứu giúp đồng bào". 2 - Từ 1911-1920: Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm, và cũng là giai đoạn có sự chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống phát triển lên chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa. Từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Hồ Chí Minh sang Pháp ( 6-1911), Người còn đến nhiều nước khác như Anh, Mỹ và các nước thuộc địa ở châu Phi, châu Mỹ latinh, châu Á. Cuộc hành trình vạn dặm ấy đã giúp Người tìm ra sự thật cội nguồn những khổ đau của nhân loại là ở chủ nghĩa tư bản. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Đến năm 1917, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp. Tại đây, Người ra nhập Đảng xã hội Pháp và lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước. Ngày 7-11-1917, Cách mạng tháng Mười nổ ra và thắng lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình sâu sắc với cuộc cách mạng ấy và với V.I.Lênin. Chiến tranh kết thúc, năm 1919 các nước đế quốc thắng trận họp hội nghị hoà bình tại Vecxây ( Pháp ). Thực chất, đây là hội nghị để chia lại thuộc địa bằng thủ đoạn ẩn dấu dưới những lời lẽ " tự do" của tổng thống Mỹ Uynxơn. Thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Hồ Chí Minh đưa đến hội nghị " Yêu sách của nhân dân An Nam" đòi các cường quốc thừa nhận quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Qua Hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh hiểu rõ " chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn". Tháng 7-1920, Hồ Chí Minh đọc: " Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin và tìm thấy trong đó " con đường giải phóng" cho dân tộc mình. Tháng 12 năm 1920, Hồ Chí Minh quyết định ra nhập Quốc tế III do V.I.Lênin sáng lập và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản của giai cấp vô sản và dân tộc Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng cách mạng của Người- chủ nghĩa yêu nước chân chính gặp chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính. 3 - Từ 1921-1930:Giai đoạn hình thành những vấn đề cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh. - Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của mình về nước, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng. - Báo " Người cùng khổ"-LeParia-, (1922), tác phẩm " Bản án chế độ thực dân Pháp" ( 1925), báo " Thanh niên" ( 1925-1927), tác phẩm " Đường cách mệnh" ( 1927) và những bài viết trên các báo, tạp chí " Cộng sản", " Đời sống công nhân", " Thông tin quốc tế",v.v...là những công cụ quan trọng thể hiện tư tưởng của Người nhằm giáo dục những người Việt Nam yêu nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền thống thành yêu nước theo lập trường tư tưởng Hồ Chí Minh. - Những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã lăn lộn trong phong trào yêu nước và phong trào công nhân ở nhiều thuộc địa và chính quốc. Người đã mở rộng quan hệ xã hội và tri thức của mình. Nhờ thông hiểu nhiều ngoại ngữ, Người có thêm hiểu biết về những nền văn hoá cổ, kim, Đông, Tây; nghiên cứu lý luận Mác-Lênin và học được nhiều kinh nghiệm cách mạng thế giới qua sách, báo, bạn bè, đồng chí ở các châu lục. Cũng qua các hội nghị quốc tế và các hoạt động văn hoá, xã hội, những buổi tranh luận về chiến lược, sách lược cách mạng và qua thực tiễn công tác, Hồ Chí Minh đã tích luỹ được vốn lớn về tri thức cách mạng, dần dần hình thành nên trong tư duy của Người một luận điểm đúng đắn: giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân loại. - Đầu năm 1930, Hồ Chí Minh thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Người vạch ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt và được Hội nghị thành lập Đảng ( 3-2-1930) thông qua. Các văn kiện quan trọng ấy đã được lịch sử cách mạng nước ta chứng minh là đúng đắn, trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành từ trong quá trình tìm đường cứu nước và được hoàn chỉnh về cơ bản khi Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 4 - Từ 1930-1941:Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác dịnh của cách mạng Việt Nam. - Những đường lối, chủ trương mà Hồ Chí Minh vạch ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam. - Trong sự vận dụng sáng tạo đó có những vấn đề thuộc về lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở nước thuộc địa mà V.I. Lênin cũng như Quốc tế Cộng sản có đề cập nhưng chưa đi sâu. Hơn nữa vào cuối những năm 20, nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị chi phối bởi những sai lầm " tả" khuynh, tư tưởng " biệt phái", " hẹp hòi". Điều này thể hiện rõ nét qua Nghị quyết Đại hội VI Quốc tế Cộng sản ( 1928). Mặt khác, Quốc tế cộng sản vì không sát tình hình các nước thuộc địa, nên đã phê phán đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh vạch ra. - Bị ảnh hưởng của tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng ( 10-1930) đã ra Nghị quyết thủ tiêu Chính cương và Sách lược vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua và đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. - Tuy bị phê phán, song đường lối của Hồ Chí Minh được thực tiễn cách mạng chứng minh là đúng đắn. Đó là cơ sở để Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh ( 18-11-1930), tiếp đó là Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng ở Trung Kỳ ( 20-5-1931). Những chỉ thị này đã uốn nắn quan điểm xa rời thực tiễn Việt Nam, làm cho toàn Đảng thấy được sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế trong sứ mệnh đoàn kết toàn dân đưa cách mạng đến thắng lợi. - Song, phải đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế cộng sản ( 7-1935), trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới mới, khi Quốc tế Cộng sản đã nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm " tả" khuynh trong Nghị quyết Đại hội VI của mình, thì những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về đoàn kết các lực lượng cách mạng chống đế quốc đã trình bày trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng mới được Quốc tế Cộng sản thừa nhận. Cuối tháng 9-1938, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người về công tác ở Đông Dương. Sau gần 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941, Hồ Chí Minh vượt cột mốc 108 của biên giới Việt-Trung về nước. Đây là điều kiện thuận lợi để Hồ Chí Minh biến tư tưởng của mình thành sức mạnh của quần chúng, đưa cách mạng đến thắng lợi. 5 - Từ 1941-1969:Giai đoạn phát triển và thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. - Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về cơ bản là thống nhất. - Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Quan điểm chủ đạo của Hội nghị này là nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu gọi: " Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu lấy giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng ". - Ngày 19-5-1941, Hồ Chí Minh sáng lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Mặt trận Việt Minh. Việt Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng yêu nước chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, không phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo...Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, Chương trình hành động của Việt Minh cùng với " Kính cáo đồng bào" của Hồ Chí Minh ngày 6- 6-1941 là những văn kiện quan trọng của Đảng, chứa đựng các chính sách cụ thể, đúng đắn, hợp lòng dân, đã quy tụ toàn dân dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đưa cách mạng Tháng Tám 1945 đến thắng lợi. - Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đọc bản Tuyên ngôn độc