Nền kinh tế được cấu thành bởi hàng ngàn doanh nghiệp sản xuất ra những hàng hóa và dịch
vụmà hàng ngày bạn sửdụng: General Motors sản xuất ô tô, General Electric sản xuất bóng
đèn, General Mills chếbiến món ngũcốc dành cho các bữa sáng. Đó chỉlà ba trong sốnhững
doanh nghiệp có quy mô lớn; họthuê hàng ngàn công nhân và có hàng ngàn cổ đông cùng
nhau chia sẻlợi nhuận. Các doanh nghiệp khác, chẳng hạn cửa hàng cắt tóc, quầy bán bánh
kẹo thường có quy mô nhỏ; họchỉthuê một vài lao động và do một cá nhân hay hộgia đình
sởhữu.
18 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1940 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên lý kinh tế học: Chi phí sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 5 – Chi phí sản xuất 1
CHƯƠNG 5
CHI PHÍ SẢN XUẤT
Nền kinh tế được cấu thành bởi hàng ngàn doanh nghiệp sản xuất ra những hàng hóa và dịch
vụ mà hàng ngày bạn sử dụng: General Motors sản xuất ô tô, General Electric sản xuất bóng
đèn, General Mills chế biến món ngũ cốc dành cho các bữa sáng. Đó chỉ là ba trong số những
doanh nghiệp có quy mô lớn; họ thuê hàng ngàn công nhân và có hàng ngàn cổ đông cùng
nhau chia sẻ lợi nhuận. Các doanh nghiệp khác, chẳng hạn cửa hàng cắt tóc, quầy bán bánh
kẹo thường có quy mô nhỏ; họ chỉ thuê một vài lao động và do một cá nhân hay hộ gia đình
sở hữu.
Trong những chương trước, chúng ta đã sử dụng đường cung để tóm lược các quyết định sản
xuất của doanh nghiệp. Theo luật cung, các doanh nghiệp sẵn sàng sản xuất và bán lượng
hàng lớn hơn khi giá cao hơn và phản ứng này làm cho đường cung dốc lên trên. Luật cung là
tất cả những gì chúng ta cần biết để phân tích nhiều vấn đề về hành vi của doanh nghiệp.
Trong chương này và các chương tiếp theo, chúng ta xem xét hành vi của doanh nghiệp chi
tiết hơn. Chủ đề được trình bày ở đây sẽ giúp bạn có thêm hiểu biết về những quyết định nằm
sau đường cung thị trường. Ngoài ra, bạn còn có điều kiện làm quen với một bộ phận của
kinh tế học có tên là Tổ chức ngành - một bộ môn nghiên cứu cách ra quyết định của doanh
nghiệp về giá cả và lượng hàng trên cơ sở các điều kiện thị trường mà họ phải đối mặt. Ví dụ
ở nơi bạn đang sống có thể có vài hiệu bánh ngọt, nhưng chỉ có một công ty truyền hình cáp.
Sự khác biệt về số lượng doanh nghiệp đó tác động như thế nào đến giá thị trường và hiệu
quả của thị trường? Môn tổ chức ngành sẽ giải quyết vấn đề này.
Là điểm khởi đầu trong việc nghiên cứu tổ chức ngành, chương này phân tích chi phí sản xuất.
Tất cả doanh nghiệp, từ công ty cung cấp dịch vụ hàng không đến cửa hàng rất nhỏ bán thực
phẩm gần nơi bạn ở, đều phải quan tâm đến chi phí khi họ sản xuất hàng hóa hay cung ứng dịch
vụ. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương tiếp theo, chi phí của một doanh nghiệp là yếu tố then
chốt đối với việc ra quyết định sản xuất và định giá. Tuy nhiên, việc xác định xem những gì là chi
phí của một doanh nghiệp không phải chuyện đơn giản như người ta vẫn tưởng.
CHI PHÍ LÀ GÌ?
Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc thảo luận về chi phí của Nhà máy Bánh ngọt Hungry Helen.
Helen, người chủ nhà máy đã mua bột mỳ, đường, va ni và các nguyên liệu làm bánh khác.
Cô cũng mua máy trộn bột, lò nướng và thuê công nhân để vận hành thiết bị. Sau đó, cô bán
những chiếc bánh làm ra cho người tiêu dùng. Qua một số công việc mà Helen phải làm khi
thực hiện công việc kinh doanh của mình như trên, chúng ta có thể rút ra một số bài học áp
dụng cho tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Tổng doanh thu, tổng chi phí và lợi nhuận
Chúng ta bắt đầu bằng mục tiêu của doanh nghiệp. Để hiểu một doanh nghiệp phải quyết định
những gì, chúng ta phải biết doanh nghiệp đó đang cố gắng làm gì. Có thể nhận thấy rằng Helen
khởi nghiệp kinh doanh vì cô muốn cung ứng bánh ngọt cho xã hội. Tuy nhiên, cũng có thể
Helen kinh doanh để kiếm tiền. Các nhà kinh tế thường cho rằng mục đích của các doanh nghiệp
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 5 – Chi phí sản xuất 2
là tối đa hóa lợi nhuận và họ thấy rằng giả thiết này đúng trong hầu hết các trường hợp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp là gì? Lượng tiền doanh nghiệp nhận được từ việc bán sản phẩm
của mình (bánh ngọt) gọi là tổng doanh thu. Lượng tiền mà doanh nghiệp phải trả để mua các
đầu vào (bột mỳ, đường, công nhân, lò nướng...) gọi là tổng chi phí. Helen sẽ giữ lại số tiền
còn lại sau khi đã trừ chi phí. Chúng ta định nghĩa lợi nhuận của doanh nghiệp là tổng doanh
thu trừ đi tổng chi phí. Nghĩa là
Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
Mục tiêu của Helen là làm cho lợi nhuận của nhà máy lớn đến mức có thể.
Để biết doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận bằng cách nào, chúng ta phải xem xét toàn diện
cách tính tổng doanh thu và tổng chi phí. Tổng doanh thu tương đối dễ hiểu: Nó bằng sản
lượng của doanh nghiệp nhân với giá bán sản phẩm. Nếu nhà máy của Helen sản xuất 10.000
chiếc bánh ngọt và bán chúng với giá 2 đô la một chiếc, tổng doanh thu của cô sẽ bằng
20.000 đô la. Ngược lại, việc tính tổng chi phí của doanh nghiệp khó hơn nhiều.
Chi phí tính bằng chi phí cơ hội
Khi tính chi phí của nhà máy bánh ngọt Hungry Helen hay của bất kỳ doanh nghiệp nào khác,
điều quan trọng là chúng ta cần nhớ tới một trong Mười Nguyên lý của Kinh tế học ở chương
1: Chi phí của một thứ là cái mà bạn phải bỏ ra để có được thứ đó. Hãy nhớ lại rằng chi phí
cơ hội của một vật là tất cả những vật khác bạn phải bỏ qua để có được nó. Khi các nhà kinh
tế nói về chi phí sản xuất của doanh nghiệp, họ tính tất cả chi phí cơ hội phát sinh trong quá
trình sản xuất ra sản lượng hàng hóa và dịch vụ.
Chi phí cơ hội của sản xuất có khi rõ ràng, có khi không. Khi Helen trả 1.000 đô la để mua
bột mỳ, thì 1.000 đô la đó là chi phí cơ hội, bởi vì Helen không thể dùng 1.000 đô la đó để
mua thứ khác nữa. Tương tự, khi Helen thuê công nhân nướng bánh, tiền lương cô phải trả là
một phần chi phí của doanh nghiệp. Đây là những chi phí hiện. Ngược lại, một số chi phí cơ
hội là chi phí ẩn. Chúng ta hãy tưởng tượng ra rằng Helen thạo máy tính và có thể kiếm 100
đô la/giờ khi làm công việc của chuyên viên máy tính. Mỗi giờ Helen sử dụng để làm việc
trong nhà máy bánh ngọt, cô mất đi 100 đô la thu nhập và phần thu nhập mất đi này cũng là
một phần chi phí của cô.
Sự khác biệt này giữa chi phí ẩn và chi phí hiện cho chúng ta thấy điểm khác nhau quan trọng
giữa phương pháp phân tích doanh nghiệp của nhà kinh tế và các kế toán viên. Các nhà kinh
tế quan tâm đến việc nghiên cứu cách thức doanh nghiệp ra quyết định về sản xuất và giá cả.
Bởi vì những quyết định này dựa vào cả chi phí hiện và chi phí ẩn, nên các nhà kinh tế xem
xét cả hai khi tính chi phí của doanh nghiệp. Ngược lại, các kế toán viên làm công việc theo
dõi các dòng tiền luân chuyển ra và vào doanh nghiệp. Do vậy, họ phải tính các chi phí hiện,
nhưng thường bỏ qua chi phí ẩn.
Sự khác biệt giữa nhà kinh tế và kế toán viên thật dễ nhận ra trong trường hợp cụ thể của nhà
máy bánh ngọt Helen. Khi Helen bỏ cơ hội kiếm tiền với tư cách chuyên viên máy tính, kế
toán viên của cô không tính nó vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì không có
luồng tiền nào chảy ra khỏi nhà máy để trả cho chi phí đó, nên nó không được biểu thị trên
các bảng kết toán tài chính của kế toán viên. Nhưng nhà kinh tế coi phần thu nhập mất đi là
một khoản chi phí, bởi vì nó tác động đến quyết định mà Helen đưa ra trong công việc kinh
doanh của mình. Ví dụ, nếu tiền lương của Helen với tư cách chuyên viên máy tính tăng từ
100 đô la lên 500 đô la/giờ, cô có thể nghĩ rằng việc điều hành nhà máy bánh ngọt quá tốn
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 5 – Chi phí sản xuất 3
kém và quyết định đóng cửa nhà máy để đi làm chuyên viên máy tính cả ngày.
Chi phí sử dụng vốn với tư cách một loại chi phí cơ hội
Một chi phí ẩn quan trọng đối với hầu hết các doanh nghiệp là chi phí cơ hội của vốn được
đầu tư vào kinh doanh. Giả sử Helen sử dụng 300.000 đô la tiền tiết kiệm của mình để mua
nhà máy bánh ngọt của người chủ cũ. Nếu không làm như vậy, Helen có thể dùng số tiền này
gửi vào tài khoản tiền gửi ngân hàng đem lại lãi suất 5 phần trăm và mỗi năm nhận được
15.000 đô la. Cho nên để sở hữu nhà máy sản xuất bánh ngọt, Helen đã phải từ bỏ 15.000 đô
la thu nhập mỗi năm. 15.000 đô la mất đi mỗi năm là một trong các chi phí cơ hội ẩn trong
hoạt động kinh doanh của Helen.
Như chúng ta đã thấy, nhà kinh tế và kế toán viên có cách xử lý chi phí khác nhau và điều này
đặc biệc đúng trong việc xử lý chi phí sử dụng vốn. Nhà kinh tế coi 15.000 đô la thu nhập về tiền
lãi mà Helen từ bỏ mỗi năm là chi phí cho công việc kinh doanh của cô, mặc dù đó là một khoản
chi phí ẩn. Song nhân viên kế toán của Helen không coi 15.000 đô la này là chi phí, bởi vì không
có khoản tiền nào chảy ra khỏi doanh nghiệp để thanh toán cho khoản chi phí đó.
Để hiểu sâu hơn sự khác biệt giữa nhà kinh tế và kế toán viên, chúng ta hãy thay đổi ví dụ
trên một chút. Bây giờ chúng ta giả định rằng Helen không có đủ 300.000 đô la để mua nhà
máy, vì vậy cô chỉ dùng 100.000 đô la tiền tiết kiệm của riêng mình và vay 200.000 đô la còn
thiếu từ một ngân hàng với lãi suất 5 phần trăm. Nhân viên kế toán của Helen, người chỉ tính
chi phí hiện, bây giờ sẽ coi khoản lãi suất 10.000 đô la để trả lãi cho ngân hàng mỗi năm là
chi phí, bởi vì bây giờ khoản tiền này chảy ra khỏi doanh nghiệp. Ngược lại, theo quan điểm
của nhà kinh tế, chi phí cơ hội của việc sở hữu doanh nghiệp hiện vẫn là 15.000 đô la. Chi phí
cơ hội bằng tiền lãi trả cho ngân hàng (chi phí hiện bằng 10.000 đô la) cộng với phần tiền lãi
tiết kiệm mất đi (chi phí ẩn bằng 5.000 đô la).
Lợi nhuận kinh tế và lợi nhuận kế toán
Hình 1. Nhà kinh tế và kế toán viên. Nhà kinh tế đưa tất cả chi phí cơ hội vào phân tích,
trong khi kế toán viên chỉ tính chi phí hiện. Do đó, lợi nhuận kinh tế nhỏ hơn lợi nhuận kế toán.
Doanh
thu
Tổng
chi
phí
cơ
hội
Chi phí
hiện
Lợi nhuân
kinh tế
Chi phí
ẩn
Lợi nhuận
kế toán
Doanh
thu
Chi phí
hiện
Quan điểm của kế toán viên về doanh nghiệp
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 5 – Chi phí sản xuất 4
Bây giờ, chúng ta hãy quay trở lại mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Bởi vì nhà kinh tế và
kế toán viên tính chi phí khác nhau, nên họ cũng tính lợi nhuận khác nhau. Nhà kinh tế tính
lợi nhuận kinh tế của doanh nghiệp bằng cách lấy tổng doanh thu của doanh nghiệp trừ tổng
tất cả các chi phí cơ hội (bao gồm chi phí hiện và chi phí ẩn) của việc sản xuất hàng hóa và
cung ứng dịch vụ. Kế toán viên tính lợi nhuận kế toán của doanh nghiệp bằng cách lấy tổng
doanh thu của doanh nghiệp trừ các khoản chi phí hiện của nó.
Hình 1 biểu thị sự khác nhau này. Cần chú ý rằng do kế toán viên bỏ qua các chi phí ẩn, nên
lợi nhuận kế toán lớn hơn lợi nhuận kinh tế. Để một doanh nghiệp có lợi nhuận theo quan
điểm của nhà kinh tế, tổng doanh thu phải bù đắp được tất cả các chi phí cơ hội, kể cả chi phí
hiện và chi phí ẩn.
Kiểm tra nhanh: Bác nông dân McDonald dạy đàn với giá 20 đô la/giờ. Mỗi ngày ông dành
10 tiếng để trồng hạt giống trị giá 100 đô la trên trang trại của mình. Tính chi phí cơ hội của
ông? Nếu hạt giống nảy mầm và ông thu hoạch được số nông sản trị giá 200 đô la, thì theo cách
tính lợi nhuận kế toán, ông sẽ thu được lợi nhuận bao nhiêu? Ông có lợi nhuận kinh tế không?
SẢN XUẤT VÀ CHI PHÍ
Các doanh nghiệp phải chịu chi phí khi họ mua nguyên liệu để sản xuất hàng hóa hoặc cung
ứng dịch vụ mà họ dự kiến. Trong phần này, chúng ta hãy xem xét mối quan hệ giữa quá
trình sản xuất của doanh nghiệp và tổng chi phí của nó. Một lần nữa, chúng ta trở lại với nhà
máy bánh ngọt của Helen.
Trong phần phân tích tiếp theo, chúng ta đưa ra một giả định đơn giản hóa rất quan trọng:
Chúng ta sẽ giả định rằng quy mô nhà máy của Helen là cố định và Helen chỉ có thể thay đổi
lượng bánh sản xuất bằng cách thay đổi số lượng công nhân. Giả định này sát với thực tế
trong ngắn hạn, nhưng không đúng trong dài hạn. Nghĩa là Helen không thể xây dựng một
nhà máy lớn hơn trong một đêm, nhưng cô có thể làm như vậy trong một hay vài năm. Do đó,
phần phân tích này nên được coi là sự mô tả các quyết định sản xuất mà Helen phải đối mặt
trong ngắn hạn. Chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa chi phí và thời gian một cách đầy đủ
hơn ở phần sau của chương này.
Hàm sản xuất
Bảng 13.1 cho thấy lượng bánh ngọt mà nhà máy của Helen sản xuất ra trong một giờ phụ thuộc
vào số lượng công nhân. Nếu không có công nhân trong nhà máy, Helen không sản xuất chiếc
bánh nào cả. Khi có một công nhân, cô sản xuất 50 chiếc bánh. Khi có 2 công nhân, cô sản xuất
90 chiếc, và vân vân. Hình 2 vẽ đồ thị từ hai cột số liệu của bảng 1. Số lượng công nhân được ghi
trên trục hoành, còn lượng bánh ngọt sản xuất ghi trên trục tung. Mối quan hệ giữa lượng đầu vào
(công nhân) và sản lượng (bánh ngọt) được gọi là hàm sản xuất.
Số
công
nhân
Sản lượng
(lượng bánh
ngọt sản xuất
mỗi giờ)
Sản phẩm
cận biên của
lao động
Chi phí
của nhà
máy (đôla)
Chi phí trả
cho công
nhân (đôla)
Tổng chi phí đầu vào
(Chi phí của nhà máy +
Lương trả cho công
nhân) (đô la)
0 0 - 30 0 30
1 50 50 30 10 40
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 5 – Chi phí sản xuất 5
2 90 40 30 20 50
3 120 30 30 30 60
4 140 20 30 40 70
5 150 10 30 50 80
Bảng 1. Hàm sản xuất và tổng chi phí: Nhà máy bánh ngọt Hungry Helen.
Một trong Mười Nguyên lý của kinh tế học giới thiệu trong chương 1 là: Con người duy
lý suy nghĩ tại điểm cận biên. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương tiếp theo, quan
điểm này đóng vai trò then chốt trong việc tìm hiểu quyết định của doanh nghiệp về
việc nên thuê bao nhiêu công nhân và sản xuất bao nhiêu sản lượng. Để tiến một bước
tới sự hiểu biết về các quyết định này, cột thứ ba trong bảng trên ghi sản phẩm cận biên
của mỗi công nhân. Sản phẩm cận biên của bất kỳ đầu vào nào trong quá trình sản xuất
cũng bằng sự gia tăng của sản lượng từ một đơn vị đầu vào tăng thêm. Khi số công nhân
tăng từ 1 lên 2, sản lượng bánh ngọt tăng từ 50 lên 90, vì vậy sản phẩm cận biên của
người công nhân thứ hai là 40 chiếc bánh ngọt. Và khi số lượng công nhân tăng từ 2 lên
3 người, sản lượng bánh ngọt tăng từ 90 lên 120, vì vậy sản phẩm cận biên của người
công nhân thứ ba là 30 chiếc bánh.
Hình 2. Hàm sản xuất của công ty Hungry Helen. Hàm sản xuất chỉ ra mối quan hệ giữa số
công nhân sử dụng và sản lượng sản xuất. Số công nhân (trên trục hoành) được lấy từ cột thứ
nhất trong bảng 1 và sản lượng (trục tung) được lấy từ cột thứ hai. Độ dốc của hàm sản xuất
giảm dần khi số công nhân tăng, phản ánh quy luật sản phẩm cận biên giảm dần.
Cần lưu ý rằng khi số công nhân tăng, sản phẩm cận biên giảm. Người công nhân thứ hai có sản
phẩm cận biên là 40 chiếc bánh, người công nhân thứ ba có sản phẩm cận biên là 30 chiếc và người
công nhân thứ tư có sản phẩm cận biên là 20 chiếc. Thuộc tính này được gọi là quy luật sản phẩm
cận biên giảm dần. Đầu tiên, khi chỉ có ít công nhân được thuê, họ dễ dàng sử dụng thiết bị nấu
nướng của Helen. Khi số công nhân tăng lên, những công nhân tăng thêm phải chia sẻ thiết bị hiện
có với các công nhân cũ và làm việc trong điều kiện chật chội hơn. Vì vậy khi thuê ngày càng nhiều
công nhân, mỗi công nhân tăng thêm đóng góp ngày càng ít vào sản lượng bánh ngọt.
Sản
lượng
(Số bánh
mỗi giờ)
150
140
130
120
110
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
Số công nhân 0 1 2 3 4 5
Hàm sản
xuất
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 5 – Chi phí sản xuất 6
Quy luật sản phẩm cận biên giảm dần cũng thể hiện rõ trong hình 2. Độ dốc của hàm sản xuất
(bằng tung độ chia cho hoành độ) cho ta biết mức thay đổi sản lượng bánh ngọt của Helen
(“tung độ”) cho mỗi đầu vào lao động tăng thêm (“hoành độ”). Nghĩa là độ dốc của hàm sản
xuất phản ánh sản phẩm cận biên của một công nhân. Khi số công nhân tăng, sản phẩm cận
biên giảm và hàm sản xuất trở nên phẳng hơn.
Từ hàm sản xuất đến đường tổng chi phí
Ba cột cuối cùng của bảng 1 ghi chi phí sản xuất bánh ngọt của Helen. Trong ví dụ này, chi
phí của cô là 30 đô la một giờ và chi phí trả cho công nhân là 10 đô la một giờ. Nếu cô thuê 1
công nhân, tổng chi phí của cô bằng 40 đô la. Nếu cô thuê 2 công nhân, tổng chi phí của cô
bằng 50 đô la, vân vân. Nhờ thông tin này, giờ đây bảng trên cho chúng ta biết số công nhân
mà Helen thuê có mối quan hệ như thế nào với lượng bánh ngọt mà cô sản xuất và với tổng
chi phí sản xuất của cô.
Hình 3. Đường tổng chi phí của công ty Hungry Helen. Đường tổng chi phí chỉ ra mối quan
hệ giữa sản lượng được sản xuất ra và tổng chi phí sản xuất. Sản lượng (trên trục hoành) được
lấy từ cột thứ hai trong bảng 1 và tổng chi phí (trục tung) lấy từ cột thứ sáu. Độ dốc của đường
tổng chi phí khi sản lượng tăng do quy luật sản phẩm cận biên giảm dần.
Mục đích của chúng ta trong nhiều chương tiếp theo là nghiên cứu các quyết định sản xuất và
định giá của doanh nghiệp. Đối với mục đích này, mối quan hệ quan trọng nhất trong bảng 1
là giữa sản lượng sản xuất (cột thứ hai) và tổng chi phí (cột thứ sáu). Hình 3 vẽ đồ thị từ số
liệu của của hai cột này với sản lượng sản xuất trên trục hoành và tổng chi phí trên trục tung.
Đồ thị này gọi là đường tổng chi phí.
Hãy chú ý rằng đường tổng chi phí ngày càng dốc khi sản lượng tăng. Hình dạng của
đường tổng chi phí trong hình này phản ánh hình dạng của hàm sản xuất trong hình 2.
Chúng ta hãy nhớ lại rằng khi xưởng làm bánh của Helen đông công nhân, thì mỗi công
nhân tăng thêm sản xuất được lượng bánh ngọt ít hơn; quy luật sản phẩm cận biên giảm
Tổng chi
phí
(đô la)
80
70
60
50
40
30
20
10
Sản lượng (Số bánh mỗi giờ) 0 20 40 1401201008060
Đường tổng chi phí
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 5 – Chi phí sản xuất 7
dần này được phản ánh lại trong độ dốc giảm dần của hàm sản xuất khi lượng công nhân
tăng. Nhưng bây giờ lôgích trên chuyển theo hướng ngược lại: khi Helen sản xuất một
lượng bánh lớn, cô phải thuê nhiều công nhân. Bởi vì xưởng làm bánh của cô đã chật
chội, việc sản xuất thêm một chiếc bánh ngọt khá tốn kém. Cho nên khi sản lượng tăng
thêm, đường tổng chi phí trở nên dốc hơn.
Kiểm tra nhanh: Nếu bác nông dân Jones không trồng hạt giống nào trên trang trại của
bác, bác sẽ không thu hoạch được gì cả. Nếu trồng 1 bao hạt giống, bác sẽ thu hoạch được
3 giạ lúa mỳ. Nếu trồng 2 bao hạt giống, bác sẽ thu hoạch được 5 giạ. Nếu trồng 3 bao,
bác sẽ được 6 giạ. Một bao hạt giống giá 100 đô la và mình bác phải trả số tiền mua hạt
giống đó. Hãy sử dụng số liệu này để vẽ đồ thị của hàm sản xuất và đường tổng chi phí
của bác nông dân. Hãy lý giải hình dạng của chúng.
CÁC THƯỚC ĐO KHÁC NHAU VỀ CHI PHÍ
Phân tích của chúng ta về nhà máy bánh ngọt Hungry Helen cho thấy tổng chi phí của nhà
máy được phản ánh trong hàm sản xuất của nó như thế nào. Từ số liệu tổng chi phí của
nhà máy, chúng ta có thể rút ra một số đại lượng về chi phí có liên quan. Chúng trở nên
hữu ích khi chúng ta phân tích các quyết định sản xuất và định giá trong các chương tiếp
theo. Để thấy các đại lượng có liên quan này được tính toán như thế nào, chúng ta hãy xét
ví dụ trong bảng 2. Bảng này ghi số liệu về chi phí của cơ sở sản xuất nằm cạnh nhà máy
của Helen: nhà máy chế biến nước chanh Lemonade Stand của bà Thirsty Thelma.
Lượng
nước
chanh
(cốc/
giờ)
Tổng chi
phí
(đô la)
Chi phí cố
định
(đô la)
Chi phí
biến đổi
(đô la)
Chi phí cố
định bình
quân
(đô la)
Chi phí
biến đổi
bình quân
(đô la)
Chi phí
bình quân
(đô la)
Chi phí cận
biên
(đô la)
0 3.00 3.00 0.00 ___ ___ ___
1 3.30 3.00 0.30 3.00 0.30 3.30 0.30
2 3.80 3.00 0.80 1.50 0.40 1.90 0.50
3 4.50 3.00 1.50 1.00 0.50 1.50 0.70
4 5.40 3.00 2.40 0.75 0.60 1.35 0.90
5 6.50 3.00 3.50 0.60 0.70 1.30 1.10
6 7.80 3.00 4.80 0.50 0.80 1.30 1.30
7 9.30 3.00 6.30 0.43 0.90 1.33 1.50
8 11.00 3.00 8.00 0.38 1.00 1.38 1.70
9 12.90 3.00 9.90 0.33 1.10 1.43 1.90
10 15.00 3.00 12.00 0.30 1.20 1.50 2,10
Bảng 2. Các thước đo khác nhau về chi phí: nhà máy Lemonade Stand của Thirsty Thelma.
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 5 – Chi phí sản xuất 8
Cột thứ nhất ghi số cốc nước chanh mà bà Thelma có thể sản xuất, từ 0 đến 10 cốc mỗi giờ.
Cột thứ hai ghi tổng chi phí sản xuất nước chanh của Thelma. Hình 4 vẽ đường tổng chi phí.
Lượng nước chanh (số liệu ở cột thứ nhất) được ghi trên trục hoành và tổng chi phí (số liệu ở
cột thứ hai) được ghi trên trục tung. Đường tổng chi phí của Thelma có hình dạng tương tự
đường tổng chi phí của Helen. Cụ thể, nó trở nên dốc hơn khi sản lượng tăng và điều này cho
biết (như đã thảo l