Lạm phát là một hiện tượng kinh tếvĩmô phổbiến và có ảnh hưởng rộng lớn đến các mặt
của đời sống kinh tế- xã hội. Một ví dụhết sức nổi bật vềlạm phát là thời kỳsiêu lạm phát
mà nước Đức đã trải qua vào đầu những năm 1920. Người ta cho rằng, siêu lạm phát đã phá
huỷtoàn bộhệthống chính phủdân chủmà nước Đức đã nỗlực xây dựng sau thất bại trong
cuộc chiến tranh thếgiới lần thứnhất và tạo cơsởcho sựtăng cường quyền lực của Đảng
phát xít do Hitler đứng đầu. Một loạt các nước MỹLa-tinh đã lâm vào lạm phát rất cao trong
những năm 1980 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợbùng nổvào năm 1982. Việt Nam
cũng nhưphần lớn các nước trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi từmô hình kế
hoach hoá tập trung sang kinh tếthịtrường đều trải qua lạm phát cao.
13 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2133 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên lý kinh tế học: Lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 1
CHƯƠNG 15
LẠM PHÁT
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế vĩ mô phổ biến và có ảnh hưởng rộng lớn đến các mặt
của đời sống kinh tế - xã hội. Một ví dụ hết sức nổi bật về lạm phát là thời kỳ siêu lạm phát
mà nước Đức đã trải qua vào đầu những năm 1920. Người ta cho rằng, siêu lạm phát đã phá
huỷ toàn bộ hệ thống chính phủ dân chủ mà nước Đức đã nỗ lực xây dựng sau thất bại trong
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và tạo cơ sở cho sự tăng cường quyền lực của Đảng
phát xít do Hitler đứng đầu. Một loạt các nước Mỹ La-tinh đã lâm vào lạm phát rất cao trong
những năm 1980 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ bùng nổ vào năm 1982. Việt Nam
cũng như phần lớn các nước trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi từ mô hình kế
hoach hoá tập trung sang kinh tế thị trường đều trải qua lạm phát cao.
Trong phần đầu của chương chúng ta sẽ đề cập đến định nghĩa và cách đo lường lạm phát.
Sau đó, chúng ta sẽ giới thiệu các lý thuyết giải thích nguyên nhân gây ra lạm phát. Một lý
thuyết về lạm phát chỉ thực sự có í nghĩa, khi nó giải thích được thực tế là lạm phát thường
xuyên biến động và liên kết được sự tăng/giảm lạm phát với sự tăng/giảm của các biến độc
lập hay các nhân tố quyết định lạm phát. Trong phần cuối của chương, chúng ta sẽ bàn về
những tổn thất mà lạm phát gây ra cho xã hội và mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.
I. Khái niệm và đo lường
1. Khái niệm
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này không nhất
thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ,
mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Lạm phát vẫn có thể xảy ra khi giá của một số hàng
hóa giảm, nhưng giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Trong bối cảnh
lạm phát, một đơn vị tiền tệ mua được ngày càng ít đơn vị hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói
một cách khác, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều tiền hơn để
mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ nhất định.
Nếu thu nhập bằng tiền không tăng kịp tốc độ trượt giá, thì thu nhập thực tế, tức là sức mua
của thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Do vậy, thu nhập thực tế tăng lên hay giảm xuống trong thời
kỳ lạm phát phụ thuộc vào điều gì xảy ra với thu nhập bằng tiền, tức là, phải chăng các cá
nhân có nhận thêm lượng tiền đã giảm giá trị đủ để bù đắp cho sự gia tăng của mức giá hay
không. Người dân vẫn có thể trở nên khá giá hơn khi thu nhập bằng tiền tăng nhanh hơn tốc
độ tăng giá.
Một điều quan trọng mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia
tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một cú sốc
xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường như mức giá chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm trở lại
mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không được gọi là lạm phát.
Tuy nhiên, trong thực tế mỗi cú sốc thường có ảnh hưởng kéo dài đối với nền kinh tế và do
đó có thể gây ra lạm phát. Chúng ta sẽ xét một tình huống như được mô tả trong Bảng 9-1.
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 2
Trong mỗi trường hợp, chúng ta giả thiết chỉ có một cú sốc xuất hiện vào thời kỳ 3 mà trước
đó mức giá được ổn định ở mức 100. Trong trường hợp thứ nhất, mức giá tăng 100% trong
thời kỳ 3, sau đó giảm 50% trong thời kỳ 4 và lại ổn định trong các thời kỳ tiếp theo. Như
vậy, từ thời kỳ 4 giá cả trở lại mức ban đầu giống như trước khi cú sốc tác động đến nền kinh
tế. Trong trường hợp thứ hai, mức giá tăng 100% trong thời kỳ 3, sau đó ổn định trong các
thời kỳ tiếp theo. Vấn đề trở nên phức tạp hơn trong trường hợp thứ ba, khi mức giá tăng
50% trong thời kỳ 3, sau đó tăng chậm lại trong các thời kỳ tiếp theo do mọi người điều chỉnh
một phần theo sai số dự báo về lạm phát. Trong trường hợp này mức giá chung tăng liên tục
và gây ra lạm phát kéo dài nhưng giảm dần theo thời gian.
Bảng 9-1 Tác động của một cú sốc đến tỷ lệ lạm phát
Trường hợp 1 Trường hợp 2 Trường hợp 3 Thời kỳ
Mức giá Lạm phát Mức giá Lạm phát Mức giá Lạm phát
1 100 100 100
2 100 0 100 0 100 0
3 200 100 200 100 150 50
4 100 -50 200 0 175 6,7
5 100 0 200 0 187,50 7,1
6 100 0 200 0 193,75 3,3
Trong thực tế, việc phân biệt được các sự kiện chỉ xảy ra một lần nhưng có ảnh hưởng kéo
dài với sự gia tăng liên tục được lặp lại của mức giá trong mỗi thời kỳ có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính phủ thường chỉ điều chỉnh
chính sách trước các cú sốc kéo dài, còn các mất cân đối tạm thời thường để thị trường tự giải
quyết.
Trường hợp ngược lại của lạm phát là giảm phát, diễn ra khi mức giá chung liên tục giảm.
Khi đó, sức mua của đồng nội tệ liên tục tăng.
2. Đo lường lạm phát
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định, các nhà
thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức
giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công thức sau:
πt = %100P
PP
1t
1tt ×−
−
−
Trong đó:
πt : tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quí, hoặc năm)
Pt : mức giá của thời kỳ t
Pt-1 : mức giá của thời kỳ trước đó
Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết định sử dụng chỉ
số giá nào để phản ánh mức giá. Như chúng ta đã biết từ Chương 2 là người ta thường sử
dụng chỉ số điều chỉnh GDP (D) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung.
Tuy nhiên, nếu mục tiêu là xác định ảnh hưởng của lạm phát đến mức sống, thì rõ ràng chỉ số
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 3
giá tiêu dùng tỏ ra thích hợp hơn. Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát
trên toàn thế giới đều được tính trên cơ sở CPI.
3. Phân loại lạm phát
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ lạm phát. Việc
phân loại lạm phát theo tính chất sẽ được đề cập khi bàn về tác động của lạm phát, còn trong
mục này chúng ta sẽ phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát. Theo tiêu thức này
các nhà kinh tế thường phân biêt 3 loại lạm phát: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu
lạm phát.
Lạm phát vừa phải. Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi mức giá tăng chậm và nhìn chung
có thể dự đoán trước được vì tương đối ổn định. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở
mức một con số thường được coi là vừa phải. Đó là mức lạm phát mà bình thường nền kinh
tế trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, mọi người vẫn sẵn
sàng giữ tiền để thực hiện giao dịch và ký các hợp đồng dài hạn tính bằng tiền vì họ tin rằng
giá và chi phí của hàng hóa mà họ mua và bán sẽ không đi chệch quá xa.
Lạm phát phi mã. Lạm phát trong phạm vi hai hoặc ba con số một năm thường được gọi là
lạm phát phi mã. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường đều phải đổi mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực
hiện cải cách.
Nhìn chung lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh
tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền bị mất giá rất nhanh, cho nên mọi người chỉ
giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ
hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm
phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
Siêu lạm phát. Siêu lạm phát là trường hợp lạm phát đặc biệt cao. Định nghĩa cổ điển về siêu
lạm phát do nhà kinh tế người Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50%
trở lên. Trong khi lạm phát 50% một tháng có thể không thực sự gây ấn tượng, nhưng nếu tỷ
lệ lạm phát này được duy trì liên tục suốt 12 tháng thì tỷ lệ lạm phát cả năm sẽ lên tới khoảng
13.000 phần trăm. Theo định nghĩa này, cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm
phát. Một trường hợp được nghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức sau Chiến tranh
Thế giới thứ Nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mác vào tháng 1 năm 1921 lên đến
70.000.000 mác chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng với tốc độ
tương tự. Từ tháng Giêng năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên
10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến mức
nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và
cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện
trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát đã có xu hướng
xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến, hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về
ngân sách chính phủ. Vào những năm 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ
của thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số nước
Mỹ La-tinh.
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 4
Đặc điểm chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức trong cung tiền, điều này
thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách quá lớn. Hơn nữa, một
khi lạm phát cao đã bắt đầu, tình hình thâm hụt ngân sách có thể trở nên không thể kiểm soát
được: lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế tính theo phần trăm so với GDP,
làm tăng thâm hụt ngân sách và chính phủ sẽ phải dựa nhiều hơn vào phát hành tiền mà điều
này đến lượt sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn. Dựa trên các bằng chứng lịch sử, dường như
là thâm hụt ngân sách kéo dài được tài trợ bằng phát hành tiền trong khoảng từ 10-12 % của
GDP sẽ gây ra siêu lạm phát1.
II. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
Điều gì gây ra lạm phát là một câu hỏi phổ biến, song các nhà kinh tế vẫn còn những bất
đồng. Có nhiều lý thuyết giải thích về nguyên nhân gây ra lạm phát mà dưới đây chúng ta sẽ
giới thiệu những lý thuyết chính.
1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá
mức tự nhiên. Thực ra đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát dựa vào nguyên nhân gây
ra lạm phát: lạm phát được coi là do sự tồn tại của một mức cầu quá cao. Theo lý thuyết này
nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực
sản xuất. Tuy nhiên để cho định nghĩa này có sức thuyết phục thì cần phải giải thích tại sao
chi tiêu lại liên tục lớn hơn mức sản xuất. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét các thành tố của tổng
cầu.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng và
đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá cả của
những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại. Tương tự, lạm phát
cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan của các nhà đầu tư làm
tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên.
Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức trong các chương
trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư
nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt
giảm các chương trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức
giá sẽ giảm.
1 Sachs, J.D. and Larrain, F. (1993), Macroeconomics in the Global Economy, Harvester Wheatsheaf, New
York.
E0
AD0 AD1
AS0
P
P2
P1
P0
E2
AD2
Y0 Y*Y2 Y
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 5
Hình 9-1 Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu tác động tới
lạm phát trong nước theo một cách khác: khi nhu cầu xuất khẩu tăng, lượng còn lại để cung
ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và
luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định,
vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng lượng tiền cung ứng2. Tình hình ngược
lại sẽ xảy ra khi nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn nước ngoài chảy vào giảm do nền kinh tế thế
giới hay trong khu vực lâm vào suy thoái.
Trong đồ thị tổng cung-tổng cầu, lạm phát do cầu kéo xuất hiện khi có sự dịch chuyển sang
bên phải của đường tổng cầu. Như minh họa trong hình 9-1, sự gia tăng của một thành tố nào
đó của tổng cầu sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang bên phải. Do đường tổng cung dốc
lên trong ngắn hạn, nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn và thất nghiệp thấp hơn,
nhưng đồng thời lại phải đối mặt với lạm phát. Rõ ràng lạm phát do cầu kéo sẽ không phải là
vấn đề mà thực ra còn cần thiết và có lợi cho nền kinh tế nếu như nền kinh tế còn nhiều
nguồn lực chưa sử dụng như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD1:
lạm phát sẽ khá thấp trong khi sản lượng và việc làm sẽ tăng đáng kể. Ngược lại, lạm phát do
cầu kéo sẽ trở thành vấn đề thực sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã sử dụng hết và đường tổng
cung trở nên rất dốc như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2. Khi
đó, sự gia tăng tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao trong khi sản lượng và việc làm tăng
lên rất ít.
2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền kinh
tế. Trong đồ thị tổng cung-tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng cung dịch chuyển
lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều
biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp và lạm phát đều tăng.
Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát đi kèm suy
thoái (stagflation).
Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập
khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm
cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Vòng xoáy đi lên của tiền lương và giá cả sẽ
tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu chính phủ tìm cách tránh suy thoái bằng cách mở rộng
tiền tệ.
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có
thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ phí bắt buộc)
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá. Nếu so
sánh với các nước phát triển là những nước có tỷ lệ thuế trực thu cao, chúng ta có thể nhận
định rằng ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
2 Trong hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, khi dòng vốn từ nước ngoài chảy vào sẽ làm tăng cung về ngoại tệ. Để
ngăn cản đồng nội tệ lên giá, ngân hàng trung ương cần tung nội tệ ra để mua ngoại tệ. Kết quả là dự trữ ngoại tệ
của ngân hàng trung ương tăng, đồng thời cung tiền cũng tăng.
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 6
nguồn thu từ thuế, thì thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm phát.
Hình 9-2 Lạm phát do chi phí đẩy
Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu mà nền công
nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng (có thể do giá quốc tế
thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát
trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng nội tệ giảm giá
mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm
phát sẽ bùng nổ.
Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra tác động tổng hợp,
làm cho lạm phát có thể tăng tốc. Nếu chính phủ phản ứng quá mạnh thông qua các chính
sách thích ứng, thì lạm phát có thể trở nên không kiểm soát được, như tình hình của nhiều
nước công nghiệp trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980.
3. Lạm phát ỳ
Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu
hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ
lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn được dự tính trước.
Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các biến danh nghĩa được thanh toán
trong tương lai.
Hình 9-3 Lạm phát ỳ
Hình 9-3 cho thấy lạm phát ỳ xảy ra như thế nào. Cả đường tổng cung và đường tổng cầu
cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ như nhau. Sản lượng luôn được duy trì ở mức tự nhiên,
trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn định theo thời gian.
AD0
AS1
AS0
P
P1
P0 E0
E1
Y1 Y* Y
AD2
AD1
AD0
E2
AS2
AS1
AS0
P
P2
P1
P0 E0
E1
Y* Y
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 7
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: Lạm phát tăng tốc trong năm 2004
Sau một thời gian dài được kiềm chế ở mức thấp, lạm phát đã bùng lên trong năm 2004. Điều
này được coi là một trong những sự kiện kinh tế nổi bật của Việt Nam. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng năm 2004 tăng 9,5%, trong đó, chỉ số giá nhóm lương
thực-thực phẩm tăng cao nhất: 15,6% (giá hàng lương thực tăng 14,3%, giá thực phẩm tăng
17,1%); nhóm dược phẩm y tế tăng 9,1%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 7,4%; các
nhóm hàng khác tăng từ 2,2 đến 5,9%. Đây là mức tăng giá cao nhất trong 9 năm qua và cũng
là năm đầu tiên kể từ năm 1999 tỷ lệ lạm phát vượt ngưỡng do Quốc hội đề ra (5%). Câu hỏi
đặt ra là tại sao lạm phát ở Việt Nam trong năm 2004 lại tăng đột biến như vậy?
Trước hết, cần phải khẳng định rằng diễn biến lạm phát toàn cầu đã có hưởng quan trọng đến
động thái lạm phát ở Việt Nam trong những năm vừa qua. Cùng với quá trình hội nhập ngày
càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, những biến động của giá cả trên thị trường
thế giới đã có tác động ngày càng rõ nét đến thị trường trong nước. Thực tế cho thấy lạm phát
thấp trong giai đoạn 1999 – 2003 không phải do chính sách tài khoá và tiền tệ quá thắt chặt
hay do nền kinh tế tăng trưởng quá cao gây ra tình trạng dư thừa hàng hoá, mà nguyên nhân
chủ yếu là do xu hướng giảm giá toàn cầu sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á.
Còn trong năm 2004, bất chấp nền kinh tế tăng trưởng cao hơn, trong khi các chính sách tài
khoá và tiền tệ không có sự điều chỉnh đáng kể so với các năm trước, nhưng lạm phát vẫn
tăng tốc.
Thực ra lạm phát cao trong năm 2004 không phải là hiện tượng riêng có của Việt Nam mà là
hiện tượng kinh tế mang tính toàn cầu. Hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới đều đối mặt
với mức lạm phát cao hơn trong năm 20043. Lạm phát cao ở nước ngoài đã lan truyền vào
nền kinh tế Việt Nam qua cả hai kênh: xuất khẩu và nhập khẩu. Với kênh xuất khẩu, theo tính
toán của Bộ Thương mại tính trung bình giá hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2004 đã tăng
8% so với năm 2003. Sự gia tăng giá xuất khẩu làm tăng giá thu mua trong nước và góp phần
làm tăng mức giá chung trên thị trường nội địa. Đồng thời, khi thu nhập của các nhà sản xuất
và kinh doanh hàng xuất khẩu được cải thiện, họ sẽ mua nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn, điều
này tiếp tục làm tổng cầu tăng. Kết quả là cả mức giá và sản lượng đều tăng lên mức cao hơn.
Đây là một lý do quan trọng làm cho nền kinh tế trong năm 2004 vừa tăng trưởng nhanh hơn,
vừa trải qua lạm phát cao hơn. Còn với kênh nhập khẩu, giá của nhiều vật tư quan trọng nhập
khẩu như: phôi thép, hạt nhựa, hoá chất sản xuất tân dược, xăng dầu, khi đốt hoá lỏng, phân
bón hoá học, clinker, phụ liệu ngành dệt may... đã tăng mạnh trong năm 2004. Các doanh
nghiệp đều tìm cách đưa chi phí cao hơn vào giá cả và do đó đẩy giá nhiều mặt hàng sản xuất
trong nước tăng lên.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy các nước châu Á khác cũng chịu những tác động khách quan bên
ngoài tương tự như Việt Nam, nhưng mức lạm phát của họ chỉ thấp hơn 5%. Do vậy, lạm
phát cao