Sự đồng nhất của chu kỳ thuỷ văn đã giới thiệu trọng chương 1 và được nhấn
mạnh thường xuyên trong các phân tích diễn tả các quá trình riêng rẽ và trong
chương chất lượng nước. Tuy nhiên từ chương 2 đến chương 8 theo đuổi một cách tiếp
tục các chủ đề bản chất nhất, tập trung chủ yếu vào các thành phần tiêu biểu của
chu trình thủy văn là sự giáng thuỷ, sự cầm giữ, sự bốc hơi, nước ngầm, nước trong
đất và chất lượng nước. Trong chương này đề cập đến các vấn đề có tính chất tiếp cận
đến sự tổng hợp 8 chương trên và cố gắng chứng minh các phản ứng bên trong các
quá trình thuỷ văn đi liền với các khung không gian diễn ra chu trình thủy văn.
75 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nguyên lý thủy văn Chương 9 Lưu vực thu nước và thủy văn toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
305
Chương 9
Lưu vực thu nước và thủy văn toàn cầu
9.1. Giới thiệu chung
Sự đồng nhất của chu kỳ thuỷ văn đã giới thiệu trọng chương 1 và được nhấn
mạnh thường xuyên trong các phân tích diễn tả các quá trình riêng rẽ và trong
chương chất lượng nước. Tuy nhiên từ chương 2 đến chương 8 theo đuổi một cách tiếp
tục các chủ đề bản chất nhất, tập trung chủ yếu vào các thành phần tiêu biểu của
chu trình thủy văn là sự giáng thuỷ, sự cầm giữ, sự bốc hơi, nước ngầm, nước trong
đất và chất lượng nước. Trong chương này đề cập đến các vấn đề có tính chất tiếp cận
đến sự tổng hợp 8 chương trên và cố gắng chứng minh các phản ứng bên trong các
quá trình thuỷ văn đi liền với các khung không gian diễn ra chu trình thủy văn.
Trong quá khứ, lưu vực thu nước thường được lựa chọn như một đơn vị không
gian rõ ràng và tiện lợi cho các nghiêc cứu hợp nhất và tổng thể. Như đã lưu ý trong
chương 1, mỗi một bồn thu nước hoạt dộng như một hệ thống thuỷ văn riêng lẻ nhận
đầu vào là số lượng giáng thuỷ cơ bản, lượng giáng thuỷ đó chuyển vào lưu vực và trở
thành dòng chảy, lượng trữ và đầu ra là bốc hơi và dòng chảy. Như vậy, bồn thu nước
là đơn vi được sử dụng thường xuyên nhất trong mô hình hoá các quá trình thuỷ văn,
trong nghiên cứu cân bằng nước, tổng lượng hoá học và trong kiểm tra các tác động
của con người lên hệ thống thuỷ văn. Tiêu biểu, bồn thu nước thí ngiệm nhỏ có đóng
góp quan trọng tới thuỷ văn trong hơn 100 năm qua. Các ví dụ có ý nghĩa bao gồm các
lưu vực thí nghiệm tại Emtal, Switzerland (thành lập trong những năm 1890), Wagon
Wheel Crap, USA (1990), Coweeta, USA (1930), Cathedral Peak, RSSA (1940) và
Plymlimon, UK (1960). Bồn thu nước cũng là một đơn vị địa mạo tự nhiên cho sự hoạt
động của các quá trình sông có dòng chảy lỏng và cả sông băng, bởi vì sự kiên khép kín
giữa sự phát triển của địa mạo động lực và thuỷ văn, điều này sẽ mở rộng hơn vai trò
của tiếp cận lưu vực trong thuỷ văn.
Cả hai bồn thu nước thuỷ văn và địa mạo đều là các thực thể cụ thể của động
lực hơn là các thực thể tĩnh học. Các quá trình của địa mạo liên quan đến hình dạng
mặt đất và qua đó nước do chuyển trong quá trình đó ảnh hưởng lớn tới các đặc trưng
thuỷ văn như mạng lưới sông, trắc diện đất, độ sâu mặt tầng nước ngấm. Theo khái
niệm này độ nhạy cảm được chỉ ra trong hình 9.1, hoạt động địa mạo tác dụng phản
hồi lên thuỷ văn mà hình thành nó (NRC, 1991).
Cộng nhận tự nhiên động lực của sông và các phản hồi giữa các hệ thống bồn
thu nước được phần thực về bản chất động lực của hệ thống lưu vực và tương tác giữa
chúng được thực hiện sau đó trong sự tiếp cận hệ thống thủy văn sông ngòi (Amoros
và Petts, 1993, Petts và Amoros, 1996) để cố gắng hợp nhất thuỷ văn học, địa mạo
học, và sinh thái học bằng cách xem xét hệ thống sông như sự kết hợp phụ thuộc
bên trong của cảnh quan dưới nước và mặt đất (Petts cà Bradley, 1997). Một trong
các khái niệm chìa koá của tiếp cận hệ thống thuỷ văn sông đó là kích cỡ và bản chất
306
của các thay đổi bồn thu nước liên tục từ đầu nguồn nước tới cửa ra và nghiên cứu chế
độ dòng chảy, trầm tích trôi nổi, và nhiệt độ nước bị ảnh hưởng bởi sự tăng diện tích
lưu vực, sự giảm gradient độ cao. Tương tự, môi trường sống vật lý (PHABSIM)
(Bovee, 1982) tuân theo phương pháp sinh thái học biểu diễn sự liên quan giữa các
điều kiện vật lý thay đổi này với sự thích hợp hơn về môi trường sống của các loài
riêng lẻ.
Hình 9.1. Phản hồi trong quan hệ giữc các quá trình thuỷ văn và địa mạo sộng từ một sơ đồ ban đầu
của NRC, 1991
Tuy nhiên, nhận thấy rằng, bồn thu nước không rộng lớn thì quy mô của nó có
thể quá nhỏ cho nghiên cứu ảnh hưởng của nhiều quá trình môi trường. Ví dụ, thừa
nhận tác động phạm vi toàn cầu của các biến khí hậu như sự tăng lên của các thông
số khí hậu như nhiệt độ bề mặt biển (SST) kết hợp với sự dao động ở trong lòng biển
và đại dương như hiện tượng El nino (ENSO), những sự kiện này được xem như hiện
tượng mang tính chất vùng hoặc địa phương, chúng được chú ý trong phân tích tính
chất toàn cầu của chu kỳ thuỷ văn (xem phần 2.5.3). Rất nhiều công việc vẫn cần
được thực hiện để làm rõ lý do các thay đổi nhiệt độ như vậy và mối quan hệ giữa
ENSO và các sự kiện khác. Các biến thông số dài hơn của SST lấy từ sự thay đổi hoàn
lưu đại dương và quá trình xáo trộn thẳng đứng trên quy mô thời gian 10 năm hoặc
lâu hơn. Ví dụ, dị thường SST có thể gây ra cả lũ lụt và mưa ở vùng Sahel, Tây ấn và
hoạt động lốc tố ở phía Đông USA, cho phép dự báo dài hơn những sự thay đổi hàng
năm của giáng thuỷ và lưu lượng sông ở Florida, USA (Sun và Furbish, 1997).
Tương tự như vậy, nguồn ô nhiễm có thể có các tác động liên tục và trải rộng ra
khí quyển toàn cầu. Và những tiếng sấm mùa hè trên những đồng bằng lớn của Mỹ
307
cũng đóng góp vào sự chuyển đổi hầu như là rất hiếm và là kết quả từ sự phát triển
kinh tế của con người. Hoàn lưu bị xáo trộn lớn, rất phức tạp tạo nên sự chuyển đổi
với quy mô trung gian (MCCS). Sự phức tạp này có thể bao phủ phần diện tích trên
50000 km2 (xem ví dụ Maddox, 1983). Nhiều vấn đề còn lại trước vô số các hiệu ứng
thuỷ văn đầy đủ của MCCS là rõ ràng. Cuối cùng, các cánh rừng mở rộng trên lưu
vực Amazon chiếm khoảng 50% rừng thưa nhiệt đới của thể giới, đó là do sự đảo lộn
của mưa và hàng nghìn kilomét dòng sông mất đi (Michell và nnk, 1990).
Quan tâm tới sự hoạt động quy mô toàn cầu của các quá trình thuỷ văn từ việc
tăng sự thay đổi khí hậu toàn cầu, đặc biệt có liên quan tới khả năng nóng lên toàn
cầu, nhưng cũng phần nào là do khả năng có sẵn, thông qua số liệu vệ tinh hoặc viễn
thám, các thông tin thuỷ văn là chìa khoá để nghiên cứu trên quy mô toàn cầu hoặc
quy mô vùng rộng lớn (ví dụ Engman và Gurney, 1991). Các số liệu như vậy là rất tốt
và phù hợp với sự hợp nhất không gian quy mô hệ thống vùng, lục địa và thậm chí
dùng trong hệ GIS toàn cầu và là số liệu cơ bản rất tốt (ví dụ Kovar và Nachtnebel,
1996).
Tiếp tục quan tâm tới sự hoạt động của các quá trình thuỷ văn trên quy mô
toàn cầu hoặc quy mô vùng nhằm nhấn mạnh tới sự khác thường trên quy mô không
gian mà thuỷ văn bao hàm (xem bảng 9.1)
Bảng 9.1. Quy mô không gian trong thuỷ văn (trích từ một bảng trong Dooge, 1988)
Loại Hệ thống
Chiều dài điển
hình
Hành tinh 10.000.000
Lục địa 1.000.000 Lớn Macro
Lưu vực lớn 1.000.000
Lưu vực nhỏ 10.000
Phụ lưu vực 1.000
Loại vừa Meso
Lưu vực thành
phần
100
Cột yếu tố 01
Điểm lục địa 0,00001 Loại nhỏ Micro
Phân tử 0,0000001
Liên kết Hydro theo quy mô phân tử là nguyên tắc cơ bản và làm cho nước dễ
dàng tồn tại ở 3 trạng thái. Nhiều lý thuyết phân loại thuỷ văn (ví dụ có dòng chảy tự
do của nước mặt và dòng chảy sát mặt bão hoà, chưa bão hoà) được phát triển tới mức
cao nhất của quy mô nhỏ, chỉ ra trong bảng 9.1 (Dooge, 1998). Phần lớn các nghiên
cứu thuỷ văn đều mang quy mô lưu vực hoặc cận lưu vực (Baird, 1997) và do đó rơi
vào quy mô trung bình và quy mô thấp nhất của quy mô lớn. Thuỷ văn toàn cầu tập
trung vào quy mô lớn nhất. Nó cúng sẽ làm tăng các vấn đề về quy mô trong chuyển
đổi lý thuyết và số liệu từ một quy mô đặc trưng này sang quy mô đo đặc trưng khác.
Nó cũng chứng minh sự khó khăn trong việc áp dụng các mối quan hệ được phát triển
tạo quy mô phòng thí nghiệm sang lưu vực mặc dù đó là quy mô nhỏ. Một tiếp cận
thay đổi là phê chuẩn quy luật điều khiển sự phản ứng lại của lưu vực trên quy mô
lớn và sau đó cố gắng không làm tăng kết quả để có thể áp dụng cho quy mô trung
308
bình (Dooge, 1988). Tại mức đơn giản nhất thậm chí với số liệu cơ bản cũng khó trong
phép ngoại suy từ quy mô này sang quy mô khác. Điều này được chứng minh rất rõ
ràng bằng các đo đạc hệ số dẫn thuỷ lực. Hình 9.2 chỉ ra các giá trị về đá Carbonat tại
trung tâm Châu Âu, với các chu kỳ mở có nghĩa là khả năng thấm trung bình. Các giá
trị tăng theo quy mô đo đạc bởi vì sự hợp nhất trong thể tích khe nứt tăng khá lớn và
thậm chí hệ thống đứt gãy mở rộng hơn. Việc ban hành quy mô được xem như một
trong các vấn đề chính chưa được giải quyết trong thuỷ văn nước ngầm (NRC, 1991;
Sivapalan và Kalma, 1995).
Các bình luận giới thiệu này đã nhắc tới và các vần đề về mỗi bình luận này
được viết trong toàn bộ quyển sách. Do đó, sự thảo luận về các vấn đề còn lại trong
chương này cần thiết được lựa chọn và tập trung tóm tắt các mô hình hoá thuỷ văn
trên quy mô bồn thu nước, nghiên cứu cân bằng nước cho lưu vực được lựa chọn các
vấn đề có tính khẩn cấp cho sự phát triển tương lai của thuỷ văn toàn cầu. Theo cách
này chúng ta hi vọng củng cố được cách nhìn nhận của chúng ta, thông qua nguồn gốc
thuỷ văn có thể dạy và nghiên cứu tiện lợi theo một chủ đề, một cách phân tích, áp
dụng chúng vào việc giải quyết các vấn đề nước cơ bản đạt được thông qua các nghiên
cứu hợp nhất, tổng hợp trên phạm vi quy mô lớn.
Hình 9.2. ảnh hưởng của thang đo hệ số dẫn thuỷ lực đo đạc của đá Carbonat ở trung tâm Châu âu
(từ sơ đồ ban đầu trong Garven, 1985)
9.2. Mô hình bồn thu nước
Các nhà thuỷ văn lưu tâm tới sự phát triển các mô hình mà có diễn tả chính xác
thuỷ văn bồn thu nước như là sự kiểm tra quan trọng sự hiểu biết của họ về các quá
trình thuỷ văn. Toàn bộ các mô hình như vậy thành công trong việc mô tả hơn là
trong dự báo. Các mô hình này áp dụng cho một lưu vực khác cũng thành công như
áp dung cho các lưu vực thực nghiệm. Và từ đó chúng ta có các mô hình số trị. Một
vài trong số chúng có kết quả hạn chế và có mục đích riêng nhưng quan tâm ít tới
thuỷ văn chung. Một vài mô hình là các mô hình hộp đen đơn giản nhưng có kết quả
chính xác cho một biến thuỷ văn được lựa chọn, ví dụ biến dòng chảy xảy ra trong
khoảng thời gian tiêu biểu nhưng có thể đưa ra dự báo không chính xác cho các biến
309
khác. Các biến mô hình khác tinh vi hơn và cố gắng giảm độ phức tạp, chỉ ra các biến
không gian dự báo và đặc trưng lưu vực. Tuy nhiên, chất lượng của số liệu sử dụng và
cất trúc mô hình là thành phần thành công quan trọng hơn so với độ phức tạp của mô
hình (ví dụ Gan và nnk, 1997). Toàn bộ những cố gắng để đưa ra mô hình cuối cùng
là một điều bí ẩn của chính lưu vực (Beven, 1987).
Trong một hoàn cảnh nào đó, mô hình lưu vực sẽ thực hiện thành công theo thời
gian thực, và thực tế, rất nhiều mô hình như vậy đã được phát triển cho mục đích dự
báo lũ. Một số mô hình loại đó đã được Smith và Ward (1998) giới thiệu. Tuy nhiên
trong trường hợp các mô hình được xây dựng cho mục đích đặc biệt khác thì hoạt
động của mô hình theo thời gian thực có thể chứa các yếu tố ít quan trọng hơn so với
các nhân tố thích hợp khác. Thực vậy, một trong các lý do cho sự thay đổi lớn của mô
hình lưu vực đó là hầu hết đều được phát triển cho mục đích dự báo hơn là cho các
mục đích khảo sát khoa học các quá trình thuỷ văn. Một lý do khác là phát triển các
mô hình để điều tiết trên một phạm vi rộng mà các số liệu thuỷ văn sẵn có hoặc từ
các trạm đo lớn của lưu vực mà không có số liệu giáng thuỷ từ tài liệu cực trị, đến sự
điều hành liên tục các biến thuỷ văn trong một phạm vi nhỏ nhưng có cường độ dòng
chảy mạnh đó là lưu vực thí nghiệm.
9.2.1. Các loại mô hình lưu vực
Có thể phân loại các mô hình theo một số cách. Ví dụ, các mô hình xác định mô
phỏng các quá trình vật lý xảy ra trong lưu vực từ sự chuyển đổi giáng thuỷ thành sự
bốc hơi và dòng chảy hoặc như là các mô hình xác suất chú ý đến cơ hội sảy ra hoặc
phân bố xác suất của các biến thuỷ văn. Các mô hình quan niệm dựa trên sự diễn tả
giới hạn các quá trình vật lý hoạt động để đưa ta đầu ra thuỷ văn, ví dụ, diễn tả lưu
vực bởi sự lưu trữ dưới dạng thác (hình 9.3), trong khi đó các mô hình vật lý cơ bản
dựa trên sự hiểu biết hơn về các quá trình vật lý thích hợp. Nhiều mô hình cũng có
thể là tuyến tính hoặc phi tuyến của một trong hai lý thuyết hệ thống, hoặc là hồi quy
thống kê. Có lẽ sự khác biệt quan trọng nhất đó là giữa mô hình thông số tập trung
và mô hình phân bố. Điều này phụ thuộc vào sự mở rộng theo phân bố không gian
của các biến thuỷ văn trong lưu vực được quan tâm hoặc theo hướng xác suất hoặc
theo hướng địa hình.
310
Hình 9.3. Cấu trúc của HYROM (mô hình thuỷ văn mưa-dòng chảy) thiết kế để chạy trong máy tính cá
nhân IBM và IBM-compatible (từ một sơ đồ gốc bởi Viện Thuỷ văn Willingforrd, Oxon, OX 108 BB,
UK)
Trong những năm gần đây, mọi người nhấn mạnh đến sự phát triển các mô
hình phân bố không gian của các biến thuỷ văn cơ bản. Lý do cơ bản đằng sau sự phát
triển đó là một mô hình diễn tả lưu vực như một hệ thống vật lý các biến không gian
mang bản chất thực tế hơn có khả năng phát triển lý thuyết làm cho nó có ích hơn,
phạm vi áp dụng rộng rãi hơn các loại mô hình khác. Tuy nhiên, biến không gian
trong các mô hình loại này diễn tả đơn giản hơn sự bất đồng nhất của lưu vực thực tế
và thường đạt được bằng việc áp dụng các phương trình toán học của các quá trình
thuỷ văn tại từng chỗ giao nhau của mạng lưới trên lưu vực. Giả thiết rằng các thông
số của các quá trình này thay đổi tốt nhất giữa các điểm giao nhau và tồi nhất khi áp
dụng tại biên diện tích và do đó không có sự tiếp tục tại các mặt lưới biên. Cũng có
vấn đề về quy mô vật lý (ví dụ, Sivapalan và Kalma, 1995) và cỡ lưới. Điều này thay
đổi của ô lưới bề mặt làm tổng cộng của các giá trị ô thêm vào xuất hiện, nhưng khi
giải chúng chỉ liên quan tới các điểm chung của mỗi bề mặt (Eeles và nnk, 1990).
Trong một vài lưu ý cơ chế phân bố có nghĩa là mô hình phân bố là một mô hình
mang bản chất tập trung tại lưới đo. ý nghĩa lớn hơn có lẽ là liên quan tới các phương
trình, trong nhiều mô hình phân bố được sử dụng để diễn tả thực tế thuỷ văn tại
điểm đo yếu tố lưới là không chính xác, ví dụ việc áp dụng định luật Darcy không
ảnh hưởng tới mô hình phân bố thậm chí cả những mô hình thành công như SHE và
IHDM thông qua sự dự báo các biến trạng thái thuỷ văn bên trong. Beven (1996) đã
diễn tả công trình Jensen cà nnk (1993), trong MIKE-SHE ước lượng hệ số dẫn thuỷ
lực như là một trong các nghiên cứu đã công bố ‘... trong đó các dự báo mô hình được
so sánh với các số liệu đo đạc trạng thái bên trong trong vòng phạm vi dòng chảy’ của
lưu vực.
Mô hình phân bố vật lý cơ bản gồm cả sự phức tạp và các yêu cầu biến cố của số
liệu đầu vào và khả năng tính toán của các mô hình tập trung đơn giản hơn, lấy giá
trị trung bình và tổng hợp cho toàn bộ lưu vực, có thể được diễn tả. Một tiếp cận thay
đổi phức tạp ngay lập tức, là cơ sở của mô hình xác suất – phân bố. Thay về xét đến
311
các con số không gian thực sự của các biến thuỷ văn trên lưu vực, các mô hình dựa
trên nguồn gốc phân bố xác suất quan tâm tới tần suất xẩy ra của các biến thuỷ văn
có ý nghĩa trên lưu vực mà không có sự xem xét vị trí địa lý của một sự kiện tiêu biểu.
Moore (1985) diễn tả mô hình phân bố xác suất dựa trên tổng lượng thấm và dung
tích khu trữ.
Các mô hình đơn giản hơn (ví dụ, mô hình tập trung, quan niệm, phân bố không
gian ...) được chỉ ra với sự thích hợp kinh nghiệm đầy đủ tới cách quan trắc lưu vực
tiêu biểu (cf. Robinson và Sivapalan, 1995) và do đó được sử dụng rộng rãi trong khảo
sát thuỷ văn. Các mô hình như vậy trội hơn hẳn các mô hình toán PC – based, desk –
top. Tính phổ biến của nó khá lớn và thực tế phù hợp với thói quen hoạt động và đầu
ra là các đêmô bằng đồ thị dễ sử dụng. Tuy nhiên, đặc điểm các mô hình này là các
thông số của chúng phải được xác định cỡ từ các số liệu lưu lượng và hầu hết các
trường hợp đều bị giới hạn khả năng áp dụng và khả năng chuyển đổi chung (Becker
và Pfuezner, 1990).
HYROM đã đưa ra một ví dụ đáng quan tâm và nổi tiếng (mô hình thuỷ văn
Mưa-dòng chảy) (Blackie và Eeles, 1985). Đây là một mô hình quan niệm Mưa-dòng
chảy, do viện thuỷ văn Anh phát triển và có khả năng áp dụng rộng rãi. Chương trình
này dễ sử dụng và yêu cầu sự hiểu biết nhỏ về hệ thống hoạt động máy tính hoặc cầu
trúc file số liệu. Đầu ra dưới dạng các đồ thị màn hình màu có thể sao chép hoặc in
các đồ thị này nếu có yêu cầu.
Trong HYROM, dự báo dòng chảy sử dụng diễn tả đơn giản các quá trình vật lý
điều khiển sự chuyển động của nước trong lưu vực (hình 9.4). Mô hình kết hợp sự cầm
giữ, nước trong đất, nước ngầm và lượng trữ dòng chảy, và bao gồm một diễn tả nào
đó về tổn thất do bốc hơn. Có thể định vỡ bởi người sử dụng hoặc tự động. Có thể
chỉnh lý 9 thông số mô hình (xem bảng 9.2), phần còn lạu thì được đặt lại,
Bảng 9.2. Các thông số có thể chỉnh lý trong HYROM và phạm vi cho phép
Ký hiệu Các thông số giữ nước
Phạm vi cho
phép
SM Thông số giữ nước do thực vật 0 < x < 5
RC Hệ số dòng chảy mặt 0 < x < 1
RDEL
Hệ số trễ theo ngày của dòng chảy
(ngày)
x > 0
RK Yếu tố dự trữ tính toán x > 1
PE Yếu tố bốc hơi Penman hở 0,3 < x < 1
Hệ số trễ theo ngày của dòng chảy
ngầm
x > 0
GS Chỉ số dự trữ dòng chảy ngầm x > 1
Yếu tố dự trữ dòng chảy ngầm x > 30
312
Hình 9.4. Cấu trúc mô hình lưu vực Stanford IV (láy từ sơ đồ ban đầu của Flẹming, 1975).
9.2.2. Mô hình lưu vực Stanford (SWM 4)
Một trong số những hiểu biết sâu sắc nhất về mô hình lưu vực quan niệm là mô
hình Stanford (SWM) là phiên bản đầu tiên của mô hình SWM 1, công bố băn 1960
như một mô hình mưa-dòng chảy. Điều này được phát triển nhanh chóng chứng tỏ mô
hình hoá tổng lượng phản hồi lại lưu vực, thích hợp hơn với dòng chảy từ mưa, và nổi
bật là mô hình SWm 4 năm 1966. Mô hình được Crowford và Linsley (1966) mô tả chi
313
tiết và Viessman và Levis (1966) chỉ dẫn chi tiết hơn để sử dụng tính toán độ ẩm đất
và diễn tả các quá trình thuỷ văn trong lưu vực thông qua hàm lượng trữ và diễn
toán (hình 9.5). Một hệ thống các phương trình vật lý được sử dụng để tính toán dòng
chảy của toàn bộ lượng nước đi vào lưu vực như giáng thuỷ, lượng trữ trong hệ thống
lưu vực thuỷ văn, và lượng nước ra khỏi như dòng chảy hoặc là bốc hơi. Mỗi một
lượng nước đầu được tích cho tới khi nó bốc hơi, thấm thành nước ngầm tới một vị trí
hạ lưu đặc biệt. Fleming (1975) là một người khởi xướng mô hình SWM4, đưa ra danh
sách số liệu cần thiết cho mô hình hoá dòng chảy ngày cùng với 34 thông số diễn tả
các đặc trưng vật lý của lưu vực (nếu không có tuyết tan thì là 25 thông số). Các
thông số này có thể thay đổi bằng một sự hiệu chỉnh nhỏ số liệu đầu vào để nghiên
cứu ảnh hưởng của các đặc trưng lưu vực khác nhau trên phương diện dòng chảy và
các khía cạnh đặc biệt khác của thuỷ văn lưu vực.
Hình 9.5. Cấu trúc của hệ thống Châu âu (SHE) ( từ biểu đồ gốc trong Abbott, 1986)
Mặc dù dạng đầu tiên của nó, SWM4 là một mô hình quan niệm nguỵ biện
trong đó các quá trình thuỷ văn giữ lại một quan hệ chính xác với từng yếu tố khác và
trong đó mặc dù vai trò của hàm kinh nghiệm phi tuyển đơn giản là quan trọng và nó
cũng cho phép người làm mô hình diễn tả sự bốc hơi và sự tập trung dòng chảy nhanh
trong sự biến đổi theo không gian. Không ngạc nhiên, mô hình được sử dụng rộng rãi
hiện nay.
9.2.3. Mô hình hệ thống Châu âu SHE (Système Hydrologique Européen)
Một ví dụ quan trọng về một mô hình phân bố vật lý cơ bản là Hệ thống thuỷ
văn Châu Âu (SHE). Đây thật sự là một khung mô hình hơn là một mô hình, kiến
trúc hệ thống mềm dẻo của nó được thiết kế cho phép hợp nhất các phiên bản mới của
các mô hình thành phần và cung cấp các tiềm năng cho việc tiếp tục phát triển thành
314
phần cho hệ thống (Ơ connell, 1991), SHE được phát triển với sự cộng tác của Viện
Thuỷ văn Anh (IH), Viện Thuỷ văn Đan Mạch (DHI) và Société Grenoblois d’ Etude
et d’ Apllicatión Hydrauliques (SOGRPAH). IH đã xây dựng các thành phần cầm giữ
bốc hơi và tuyết tan, DHI đã xây dựng các thành phần dòng chảy bão hoà và chưa bão
hoà và SOGREAH phát triển dòng chảy trên mặt đất và dòng chảy trong kênh. Sự
thúc đẩy phát triển SHE từ sự lĩnh hội các thất bại của các mô hình đã tồn tại tới sự
diễn tả các tác động của hoạt động con người