Với vai trò là luật do các bên trong quan 
hệhợp đồng tạo ra, vềmặt lý luận, các 
điều khoản quy định trong hợp đồng cần 
phải đảm bảo các tiêu chí: đầy đủ, rõ ràng, 
thống nhất, đơn nghĩa, dễhiểu trong đó 
tiêu chí “rõ ràng” là quan trọng nhất. Tuy 
nhiên, không ít hợp đồng tồn tại trên thực 
tếkhông phải lúc nào cũng đảm bảo được 
các tiêu chí nói trên dẫn đến việc các bên 
không có cách hiểu thống nhất vềnội dung 
hợp đồng và vấn đềgiải thích hợp đồng để
giải quyết tranh chấp được đặt ra. Mục 
đích của việc giải thích hợp đồng là nhằm 
làm rõ nghĩa và phạm vi của hợp đồng hay 
một điều khoản cụthểcủa hợp đồng. 
Trong phạm vi bài viết này muốn đềcập 
và trao đổi với quý độc giảvềvấn đề“giải 
thích hợp đồng bảo hiểm”. 
Hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp 
đồng bảo hiểm nhân thọnói riêng được 
điều chỉnh bởi Luật kinh doanh bảo hiểm 
là một loại hợp đồng gia nhập (còn gọi là 
hợp đồng theo mẫu). Đặc điểm này được 
thểhiện ởchỗdoanh nghiệp bảo hiểm là 
bên đưa ra các điều khoản mẫu (do BộTài 
chính ban hành hoặc phê duyệt) đểkhách 
hàng xem xét trảlời chấp nhận trong một 
khoảng thời gian hợp lý; nếu khách hàng 
đồng ý tham gia bảo hiểm đồng nghĩa với 
việc chấp nhận toàn bộnội dung hợp đồng 
theo điều khoản mẫu mà doanh nghiệp bảo 
hiểm đã đưa ra. Do đó, vềnguyên tắc 
người mua bảo hiểm không được đàm 
phán, thỏa thuận vềviệc sửa đổi, bổsung 
điều khoản của hợp đồng bảo hiểm.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2153 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc Hợp đồng bảo hiểm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Hợp đồng bảo hiểm 
Xét trên phương diện lý thuyết, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều 
bên, qua đó thể hiện sự thống nhất ý chí (còn gọi là sự “ưng thuận”) của các bên 
với các mong muốn và chủ đích đạt được những hệ quả pháp lý nhất định là việc 
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ ràng buộc các bên trong 
quan hệ hợp đồng. 
Với vai trò là luật do các bên trong quan 
hệ hợp đồng tạo ra, về mặt lý luận, các 
điều khoản quy định trong hợp đồng cần 
phải đảm bảo các tiêu chí: đầy đủ, rõ ràng, 
thống nhất, đơn nghĩa, dễ hiểu trong đó 
tiêu chí “rõ ràng” là quan trọng nhất. Tuy 
nhiên, không ít hợp đồng tồn tại trên thực 
tế không phải lúc nào cũng đảm bảo được 
các tiêu chí nói trên dẫn đến việc các bên 
không có cách hiểu thống nhất về nội dung 
hợp đồng và vấn đề giải thích hợp đồng để 
giải quyết tranh chấp được đặt ra. Mục 
đích của việc giải thích hợp đồng là nhằm 
làm rõ nghĩa và phạm vi của hợp đồng hay 
một điều khoản cụ thể của hợp đồng. 
Trong phạm vi bài viết này muốn đề cập 
và trao đổi với quý độc giả về vấn đề “giải 
thích hợp đồng bảo hiểm”. 
Hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp 
đồng bảo hiểm nhân thọ nói riêng được 
điều chỉnh bởi Luật kinh doanh bảo hiểm 
là một loại hợp đồng gia nhập (còn gọi là 
hợp đồng theo mẫu). Đặc điểm này được 
thể hiện ở chỗ doanh nghiệp bảo hiểm là 
bên đưa ra các điều khoản mẫu (do Bộ Tài 
chính ban hành hoặc phê duyệt) để khách 
hàng xem xét trả lời chấp nhận trong một 
khoảng thời gian hợp lý; nếu khách hàng 
đồng ý tham gia bảo hiểm đồng nghĩa với 
việc chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng 
theo điều khoản mẫu mà doanh nghiệp bảo 
hiểm đã đưa ra. Do đó, về nguyên tắc 
người mua bảo hiểm không được đàm 
phán, thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung 
điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. 
Xuất phát từ sự “yếu thế” nói trên của 
người mua bảo hiểm, tính phức tạp và khó 
hiểu của các điều khoản bảo hiểm đặc biệt 
là điều khoản bảo hiểm nhân thọ, và để 
tránh việc các doanh nghiệp bảo hiểm tìm 
cách “chèn ép” khách hàng, dồn họ vào 
tình thế khó lựa chọn cũng như hạn chế vi 
phạm nguyên tắc “tự do khế ước” trong 
giao dịch, các nhà làm luật đã đưa ra quy 
định về nghĩa vụ giải thích hợp đồng bảo 
hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng 
của người mua bảo hiểm như sau: 
- Thứ nhất, “khi giao kết hợp đồng bảo 
hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách 
Www.ThoLaw.Wordpress.Com 1
 nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan 
đến hợp đồng bảo hiểm, nghĩa vụ giải 
thích cho bên mua bảo hiểm về các điều 
kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua 
bảo hiểm…” (khoản 1, Điều 19 Luật kinh 
doanh bảo hiểm). 
- Thứ hai, “trong trường hợp hợp đồng bảo 
hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều 
khoản đó được giải thích theo hướng có lợi 
cho người mua bảo hiểm” (Điều 21 Luật 
kinh doanh bảo hiểm)”. 
Như vậy, theo các quy định trên thì nghĩa 
vụ giải thích hợp đồng bảo hiểm trước hết 
thuộc về doanh nghiệp bảo hiểm (thực 
hiện trực tiếp hoặc thông qua đại lý) và 
việc giải thích này phải theo hướng có lợi 
cho người mua bảo hiểm nếu điều khoản 
không rõ ràng. Khi có tranh chấp giữa 
doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng liên 
quan đến những quy định của điều khoản 
hợp đồng, toà án có nghĩa vụ làm sáng tỏ ý 
nghĩa và nội dung của hợp đồng bảo hiểm 
đó và thường sẽ ưu tiên giải thích theo 
hướng có lợi hơn cho người mua bảo hiểm 
và/hoặc người được hưởng quyền lợi bảo 
hiểm. 
Về vấn đề này, khoản 2 Điều 406 Bộ luật 
dân sự năm 1995 và khoản 2 Điều 407 Bộ 
luật dân sự năm 2005 cũng quy định 
“Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có 
điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra 
hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi 
giải thích điều khoản đó”. Đây là quy định 
hợp lý bởi lẽ doanh nghiệp bảo hiểm là 
bên soạn thảo hợp đồng, do đó về nguyên 
tắc họ có quyền đồng thời có nghĩa vụ diễn 
đạt các điều khoản của hợp đồng một cách 
rõ ràng, mạch lạc còn người tham gia bảo 
hiểm hay người được hưởng quyền lợi bảo 
hiểm là bên phải chấp nhận hoặc bác bỏ 
toàn bộ các điều khoản đó (không tham gia 
bảo hiểm) mà không được “mặc cả” bất cứ 
điều gì. 
Tuy nhiên, Luật kinh doanh bảo hiểm chỉ 
dừng lại ở quy định nguyên tắc giải thích 
hợp đồng bảo hiểm mà không nói đến cách 
thức giải thích hợp đồng này như thế nào. 
Do đó, khi có tranh chấp xảy ra, việc giải 
thích hợp đồng bảo hiểm phải căn cứ vào 
các quy định khác của pháp luật nếu có, 
bởi về nguyên tắc áp dụng luật, việc giao 
kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm trước 
hết sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật kinh 
doanh bảo hiểm. Nếu Luật kinh doanh bảo 
hiểm không quy định hoặc dẫn chiếu đến 
việc áp dụng luật khác (Bộ luật dân sự và 
các quy định quy định khác của pháp luật 
có liên quan) thì luật khác sẽ được áp dụng 
(Điều 12 khoản 4 Luật kinh doanh bảo 
hiểm). Trong trường hợp này, Điều 408 Bộ 
luật dân sự năm 1995 có quy định cách 
thức giải thích hợp đồng như sau: 
1. Khi hợp đồng có điều khoản không rõ 
ràng thì không chỉ dựa vào ngôn từ của 
Www.ThoLaw.Wordpress.Com 2
 hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí 
chung của các bên để giải thích điều khoản 
đó. 
2. Khi một điều khoản của hợp đồng có thể 
được hiểu theo nhiều nghĩa thì phải chọn 
nghiã nào làm cho điều khoản đó khi thực 
hiện có lợi nhất cho các bên. 
3. Khi hợp đồng có ngôn từ có thể hiểu 
theo nhiều nghĩa khác nhau thì phải giải 
thích theo nghĩa phù hợp nhất với tính chất 
của hợp đồng. 
4. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn 
từ khó hiểu thì phải được giải thích theo 
tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng. 
5. Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản 
không thuộc nội dung chủ yếu, thì có thể 
bổ sung theo tập quán đối với đối với loại 
hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp 
đồng. 
6. Các điều khoản trong hợp đồng phải 
được giải thích trong mối liên hệ với nhau, 
sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù 
hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng”. 
Điều 409 Bộ luật dân sự năm 2005 cũng 
kế thừa các quy định về cách thức giải 
thích hợp đồng tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6 
Điều 408 nói trên. Tuy nhiên, Điều 409 Bộ 
luật dân sự năm 2005 đã sửa từ “…thiếu 
một số điều khoản không thuộc nội dung 
chủ yếu…” của khoản 5 Điều 408 thành 
“…thiếu một số điều khoản…” và có bổ 
sung mới hai cách thức giải quyết sau: 
7. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa 
ý chí chung của các bên với ngôn ngữ từ 
sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung 
của các bên được sử dụng để giải thích 
hợp đồng. 
8. Trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào 
hợp đồng nội dung bất lợi cho bên yếu thế 
thì khi giải thích hợp đồng phải theo 
hướng có lợi cho bên yếu thế”. 
Rõ ràng từ những quy định nói trên, thì 
việc giải thích hợp đồng bảo hiểm theo 
hướng có lợi cho người mua bảo hiểm khi 
có điều khoản không rõ ràng phải được đặt 
trong mối quan hệ với các cách thức giải 
thích đã được đề cập tại Bộ luật dân sự 
hiện hành chứ không được áp dụng một 
cách tuỳ tiện, duy ý chí. 
Giải thích hợp đồng không phải là vấn đề 
mới đối với các nước trên thế giới bởi từ 
trước công nguyên, những luật gia thuộc 
thế hệ đầu tiên của La Mã đã đặt nền móng 
cho hoạt động này. Tuy nhiên, không phải 
luật pháp nước nào cũng quy định giống 
nhau về cách thức giải thích hợp đồng. 
Theo Bộ luật dân sự Pháp, khi giải thích 
hợp đồng trong trường hợp các điều khoản 
của hợp đồng có điểm không rõ ràng thì 
phải xem xét ý định đích thực của các bên 
Www.ThoLaw.Wordpress.Com 3
 ký kết (Điều 1156). Nếu một điều khoản 
hợp đồng có thể được giải thích theo hai 
cách khác nhau, thì phải chọn cách giải 
thích nào làm cho điều khoản đó có hiệu 
lực và loại trừ cách giải thích làm cho điều 
khoản vô hiệu (Điều 1157). Trường hợp 
một điều khoản của hợp đồng có thể được 
hiểu theo hai nghĩa khác nhau, thì phải giải 
thích theo nghĩa phù hợp nhất với nội dung 
cơ bản của hợp đồng (Điều 1158). Giải 
thích hợp đồng dựa vào tập quán, thông lệ 
(Điều 1159 và 1160). Giải thích nội dung 
các điều khoản cụ thể phải dựa vào nội 
dung của hợp đồng nói chung, bởi vì nội 
dung từng điều khoản cụ thể của hợp đồng 
không thể mâu thuẫn nhau (Điều 1161) và 
trong trường hợp có nghi ngờ về nội dung 
của một điều khoản hợp đồng, thì phải giải 
thích hợp đồng điều khoản đó theo hướng 
có lợi cho người có nghĩa vụ (Điều 1162). 
Theo Công ước Viên năm 1980, “tuyên bố 
và cách xử sự khác của một bên được giải 
thích theo đúng ý định của họ nếu bên kia 
biết hoặc không thể biết ý định ấy. Nếu 
không đạt được mục đích đó, thì tuyên bố 
và cách xử sự khác của một bên được giải 
thích theo nghĩa mà một người có lý trí, 
nếu người đó được đặt vào vị trí của phía 
bên kia trong những hoàn cảch tương tự 
cũng sẽ hiểu như thế. Và khi xác định ý 
muốn của một bên hoặc theo cách hiểu 
không thường của một người có lý trí, cần 
phải tính đến mọi tình tiết liên quan, kể cả 
các cuộc đàm phán, mọi thực tế mà các 
bên đã có trong mối quan hệ tương hỗ của 
họ, các tập quán và hành vi sau đó của các 
bên” (Điều 8). 
Tại Việt Nam, xung quanh vấn đề giải 
thích hợp đồng bảo hiểm, có rất nhiều 
quan điểm khác nhau trong đó có không ít 
những quan điểm xuất phát từ việc không 
hiểu hoặc cố tình không hiểu cách thức 
giải thích hợp đồng nên đưa ra nhận định 
chủ quan của mình, xúi giục những người 
mua bảo hiểm chưa am hiểu về lĩnh vực 
pháp luật, khởi kiện doanh nghiệp bảo 
hiểm gây mất ổn định xã hội, bản thân 
người mua bảo hiểm cũng mất nhiều thời 
gian, tiền bạc theo đuổi vụ kiện do bị thua 
kiện. Chúng tôi xin nêu một vụ kiện sau 
làm ví dụ điển hình: 
Ông Nguyễn Văn T. và Bà Ngô Thị K. 
tham gia Hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ 
thời hạn 05 năm cho chính mình với số 
tiền bảo hiểm (STBH) ghi tại Phụ lục 1- 
Mục III của Hợp đồng Bảo hiểm như sau: 
+ STBH của Hợp đồng chính (Bảo hiểm và
tiết kiệm) 
 : 20.000.000
đồng 
+ STBH của Điều khoản riêng I 
(Bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn do 
tai nạn) 
: 20.000.000
đồng 
+ STBH của Điều khoản riêng II (Bảo hiểm
chi phí phẫu thuật) 
 : 20.000.000
đồng 
Www.ThoLaw.Wordpress.Com 4
 Đến ngày đáo hạn Hợp đồng bảo hiểm nói 
trên, Công ty bảo hiểm nhân thọ PT đã 
thanh toán cho Ông T. và Bà K. với STBH 
của Hợp đồng chính cho mỗi người là 
20.000.000 đồng cộng với lãi chia thêm. 
Được sự tư vấn của Văn phòng Luật sư 
HV, ông T. và bà K. đã làm đơn yêu cầu 
Bảo Việt Nhân thọ PT thanh toán thêm 
STBH của các điều khoản riêng I, II với lý 
do viện dẫn là tại Điều 2 điểm 2.1 điều 
khoản Hợp đồng chính có ghi: “Đến ngày 
đáo hạn hợp đồng bảo hiểm, Công ty sẽ 
thanh toán cho người được bảo hiểm toàn 
bộ số tiền bảo hiểm đã cam kết tại Phụ lục 
1- Mục III của Hợp đồng Bảo hiểm”. 
Thực tế, đề nghị của bà K. với sự viện dẫn 
như trên là không có cơ sở pháp lý do đã 
hiểu điều khoản này một cách quá cứng 
nhắc, máy móc theo hướng “chẻ chữ” mà 
không căn cứ vào các cách thức giải thích 
hợp đồng đã được quy định tại Điều 408 
Bộ luật dân sự năm 1995 (do tại thời điểm 
giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm 
của bà K. và ông T., Bộ luật dân sự 2005 
chưa ra đời nên Bảo Việt lấy Bộ luật dân 
sự 1995 để giải thích). Lý do như sau: 
Thứ nhất, bản chất của hợp đồng chính và 
điều khoản riêng I, II mà ông T. và bà K. 
đã tham gia là hoàn toàn khác nhau. Hợp 
đồng chính là loại sản phẩm bảo hiểm hỗn 
hợp vừa tiết kiệm vừa bảo hiểm (nghĩa là 
trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng 
nếu người được bảo hiểm (NĐBH) gặp rủi 
ro thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc bị tử 
vong thì Công ty bảo hiểm sẽ trả STBH và 
nếu khi hợp đồng đáo hạn mà NĐBH còn 
sống thì sẽ được nhận STBH). Còn điều 
khoản riêng I (Bảo hiểm thương tật toàn 
bộ vĩnh viễn do tai nạn) và riêng II (Bảo 
hiểm chi phí phẫu thuật) đơn thuần là sản 
phẩm bảo hiểm rủi ro (nghĩa là chỉ có rủi 
ro quy định trong các điều khoản riêng này 
xảy ra đối với NĐBH thì Công ty bảo 
hiểm mới trả tiền bảo hiểm theo các điều 
khoản riêng này). Điều này được giải thích 
rõ ngay tại Điều 2 điều khoản riêng I, II 
“Số tiền bảo hiểm theo điều khoản này 
được hiểu là giới hạn trách nhiệm tối đa 
của Công ty bảo hiểm đối với hậu quả của 
từng rủi ro được bảo hiểm xảy ra đối với 
Người được bảo hiểm”. Đây cũng là lý do 
tại sao số phí bảo hiểm của hợp đồng 
chính lại gấp rất nhiều lần số phí bảo hiểm 
của điều khoản riêng trong khi có cùng 
STBH . 
Thứ hai, giới hạn trách nhiệm của Công ty 
bảo hiểm nhân thọ PT đối với người mua 
bảo hiểm, người được bảo hiểm đã được 
phân định rõ ràng, tách biệt tại phần quyền 
lợi bảo hiểm của điều khoản hợp đồng 
chính và điều khoản riêng I, II. Theo đó, 
Công ty bảo hiểm thanh toán STBH cho 
NĐBH khi hợp đồng đáo hạn chỉ được đề 
cập tại Điều 2 của điều khoản hợp đồng 
chính còn tại điều khoản riêng I, Công ty 
Www.ThoLaw.Wordpress.Com 5
 Www.ThoLaw.Wordpress.Com 6
bảo hiểm chỉ trả STBH khi “NĐBH bị 
thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn” 
(phần III) và điều khoản riêng II khi 
“NĐBH bị phẫu thuật do bệnh tật hoặc tai 
nạn”(Điều 5 phần II). Nếu không bị rủi ro, 
tai nạn trong thời gian hợp đồng bảo hiểm 
thì khi đáo hạn, NĐBH không được nhận 
số tiền theo điều khoản riêng này. 
Thứ ba, việc ký kết Hợp đồng Bảo hiểm 
Nhân thọ giữa Công ty bảo hiểm PT và 
ông T., bà K. trước tiên được dựa trên cơ 
sở là Giấy yêu cầu bảo hiểm mà Ông, Bà 
đã tự kê khai. Ngay tại phần đầu của Giấy 
yêu cầu bảo hiểm này đã ghi: “Sau khi tìm 
hiểu Điều khoản, Biểu phí do Bộ Tài chính 
ban hành kèm theo Quyết định số …, tôi 
đồng ý tham gia bảo hiểm …và làm Giấy 
yêu cầu bảo hiểm này kê khai đầy đủ, 
trung thực các chi tiết sau đây”. Đồng thời 
tại Điểm 2 Phần II (Điều kiện bảo hiểm) 
của Giấy yêu cầu bảo hiểm Ông, Bà cũng 
ghi rõ: STBH của hợp đồng chính, STBH 
của điều khoản riêng I, STBH của điều 
khoản riêng II. Như vậy, ngay từ khi thể 
hiện nguyện vọng tham gia bảo hiểm, các 
điều kiện bảo hiểm đã được Ông, Bà phân 
định rõ ràng, các điều khoản của Hợp đồng 
chính và các điều khoản riêng I, II cũng đã 
được giải thích chi tiết và cụ thể. 
Với những lý do trên, mặc dù Điều 2 điểm 
2.1 của bản điều khoản Hợp đồng chính có 
ghi: “Đến ngày đáo hạn hợp đồng bảo 
hiểm, Công ty sẽ thanh toán cho người 
được bảo hiểm toàn bộ số tiền bảo hiểm đã 
cam kết tại Phụ lục 1- Mục III của Hợp 
đồng Bảo hiểm” nhưng vì quy định này 
chỉ nằm trong điều khoản hợp đồng chính 
(chứ không nằm trong điều khoản riêng I, 
II) nên “toàn bộ số tiền bảo hiểm” mà ông 
T. và bà K. viện dẫn phải được hiểu là toàn 
bộ và chỉ số tiền của hợp đồng chính 
(20.000.000 đồng) chứ không thể bao gồm 
cả STBH của các điều khoản riêng và cũng 
không thể coi điều khoản này là “không rõ 
ràng”. Việc giải thích hợp đồng nói chung 
và hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nói riêng 
không chỉ đơn thuần căn cứ vào câu chữ 
trong điều khoản, theo hướng có lợi cho 
người mua bảo hiểm mà phải giải thích 
theo nghĩa phù hợp nhất với ý chí đích 
thực của các bên khi giao kết hợp đồng, 
tính chất, toàn bộ nội dung của hợp đồng, 
và trong mối liên hệ với các điều khoản 
khác. 
Theo: Website Bảo Hiểm 
_________________ 
Bài post trên đây được sử dụng với mục 
đích chia sẻ thông tin, nghiên cứu trao 
đổi… Bài post không vì mục đích 
thương mại hay bất kỳ các hình thức 
sinh lời nào khác.!