Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”

Tóm tắt Nguyễn Thị Kiêm là một nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Bà được xem là “nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”. Tác phẩm của bà nằm chính ở những ý tưởng đột phá về nhận thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự xuất hiện vô tiền khoáng hậu trên diễn đàn thơ Cũ – thơ Mới và những bài báo rồi sẽ trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử giai đoạn trước 1945 ở Việt Nam. Qua các bài diễn thuyết và các bài báo (gồm cả thể loại phóng sự ngắn, phê bình nghệ thuật) của nữ sĩ Manh Manh, có thể thấy tư duy phân tích khoa học sắc bén, triệt để là phong cách căn cốt của bà. Đó là “tài văn”, tài năng về văn chương nhìn từ góc độ nhận thức tiến trình văn chương trong quan hệ với nền quốc học, tâm thế “duy tân” và khả năng đúc rút, nắm bắt tinh nhạy những bài học thực tế, gọn ghẽ về cuộc “cách mạng” thơ ca.

pdf11 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016 13 Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới” Nguyen Thi Kiem – “The new figure, the new emotion, the new literature” TS. Lê Thị Thanh Tâm Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội Ph.D. Le Thi Thanh Tam University of Social Sciences and Humanities – National Univeristy Ha Noi Tóm tắt Nguyễn Thị Kiêm là một nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Bà được xem là “nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”. Tác phẩm của bà nằm chính ở những ý tưởng đột phá về nhận thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự xuất hiện vô tiền khoáng hậu trên diễn đàn thơ Cũ – thơ Mới và những bài báo rồi sẽ trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử giai đoạn trước 1945 ở Việt Nam. Qua các bài diễn thuyết và các bài báo (gồm cả thể loại phóng sự ngắn, phê bình nghệ thuật) của nữ sĩ Manh Manh, có thể thấy tư duy phân tích khoa học sắc bén, triệt để là phong cách căn cốt của bà. Đó là “tài văn”, tài năng về văn chương nhìn từ góc độ nhận thức tiến trình văn chương trong quan hệ với nền quốc học, tâm thế “duy tân” và khả năng đúc rút, nắm bắt tinh nhạy những bài học thực tế, gọn ghẽ về cuộc “cách mạng” thơ ca. Từ khóa: Nguyễn Thị Kiêm, diễn đàn thơ Mới – thơ Cũ, nữ quyền Abstract Nguyen Thi Kiem is the special figure of the period of modernization of Vietnamese literature at the beginning of 20 th century. She was to be “the new figure, the new emotion, the new literature”. Her works show breakthrough idea of literary appreciation, the understanding of feminism. And her pre war articles (before 1945) are precious materials of Viet nam literary. She appeared as an orator at New – Old poetry community. Through her speeches and articles (including newspaper-reports and artistic criticals), we are able to realize that the sharp and absolute scientific thinking is her essential style. It is talent of literature of her from the point of view to be aware of the literary process in the relation with the national culture, state of renovation and ability of consolidation as well as the capacity to quickly grasp many realistic lessons of the revolution of poetry. Keywords: Nguyen Thi Kiem, New – Old poetry community, feminism 1. Tiểu sử Từ sau năm 1930, có một uy tín mới không nằm trong danh sách những tên tuổi làm quản lí, chủ bút hay viết sách, xuất bản mà trở thành một cá tính độc nhất vô nhị, một chân dung dĩnh ngộ làm văn học không lẫn vào đâu, đó là trường hợp Nguyễn Thị Kiêm. Tác phẩm của bà nằm 14 chính ở những ý tưởng đột phá về nhận thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự xuất hiện vô tiền khoáng hậu trên diễn đàn thơ Cũ - thơ Mới và những bài báo rồi sẽ trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử giai đoạn trước 1945 ở Việt Nam. Nguyễn Thị Kiêm (có khi được ghi là Nguyễn Thị Kim trên Phụ nữ Tân văn) sinh ngày 3 tháng 1 năm 1914 tại Sài Gòn; quê gốc của bà ở Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Thân phụ là ông Nguyễn Đình Trị (tức Huyện Trị), ông Hội đồng nổi danh đất Gò Công. Bà là một trí thức trưởng thành từ môi trường giáo dục và văn đàn Gia Định, trung tâm xứ Nam Bộ. Bà từng là nữ sinh của trường Nữ học Sài Gòn, sau đổi thành trường Nữ Gia Long, hay còn gọi là trường Nữ sinh Áo Tím (nay là trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai). Tốt nghiệp bằng thành chung (Trung học Đệ Nhất cấp), bà bắt đầu làm báo từ năm 1932 với nhiều bút danh khác như: Nguyễn Thị Manh Manh, Manh Manh, Mym, Nguyễn Văn Mym, Lệ Thủy (hoặc kí tắt là L.T) Bà tham gia viết bài cho các báo: Công luận, Việt Nam, Nữ lưu, Tuần lễ Nay, Sống Đặc biệt, bà là cây bút chủ lực của Phụ nữ Tân văn. Ban biên tập Phụ nữ Tân văn từng viết về “một thiếu niên nữ sĩ trong bộ biên tập của bổn báo” như sau: “Ngày nay trong Nam ngoài Bắc, ai cũng biết tên nữ-sĩ Nguyễn Thị Kim. Các độc giả yêu quý của Phụ-nữ Tân- văn chắc đều vui lòng thưởng những bài thơ lối mới ký biệt-hiệu Nguyễn Thị Manh Manh: nhân-vật mới, tình-tứ mới, văn- chương mới! E xúc-phạm đến lòng khiêm-nhượng của người bạn đồng-sự thiếu-niên, chúng tôi chỉ nói qua về công trước tác của nhà văn sĩ tuổi trẻ mà nghề văn già” (Phụ nữ Tân văn số 197 ngày 27-4-1933). Thực tế, sự già dặn bất ngờ của bà trong nhận thức về văn học, về giá trị người phụ nữ cũng như về các vấn đề văn hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX cho thấy lời giới thiệu trân trọng và quả quyết của Phụ nữ Tân văn về nhân vật thiếu niên “kì lạ” trên (tuổi trẻ - văn già) là có cơ sở và đúng đắn. Năm 1932, sự kiện bà diễn thuyết để bảo vệ Thơ mới đã gây chấn động văn đàn thời đó, ảnh hưởng sâu sắc đến bước đi đầu tiên của phong trào Thơ mới. Năm 1936, bà tham gia phong trào Đông Dương đại hội. Bà cũng là người rất tích cực trong việc tuyên truyền, tổ chức thực hiện hội Dục Anh và Nữ lưu học hội. Năm 1937, bà kết hôn với ông Trương Văn Em, bút hiệu Lư Khê, là nhà giáo, nhà báo (lễ cưới được tổ chức vào ngày 11-11-1937 tức ngày mồng 1 tháng 10 năm Đinh Sửu). Vì hoàn cảnh riêng rất bi đát (bà mất khả năng sinh nở, con gái Minou bị liệt và qua đời sau đó), bà chấp nhận cho chồng đi bước nữa. Năm 1950, Nguyễn Thị Kiêm sang Pháp định cư. Năm 2005, có thông tin bà đã mất ở một trại dưỡng lão ở Paris, thọ 91 tuổi (?). Tuy nhiên, năm 2006, theo thông tin chúng tôi tiếp cận được ở Đồng Tháp, Kiên Giang (nhà ông Trương Minh Đạt, em trai của chồng bà Kiêm - Lư Khê), bà vẫn đang yếu bệnh trong một trại dưỡng lão Pháp. Hiện chúng tôi chưa thể có bằng chứng chính xác về thông tin bà sống như thế nào từ năm 1956 cho đến thời điểm bà ốm mất. 2. Sự nghiệp Sự nghiệp văn học của Nguyễn Thị Kiêm tập trung ở 3 mảng: diễn thuyết, sáng tác thơ văn, làm báo. Trong đó, mảng diễn thuyết có thể xem là sự nghiệp ấn tượng và 15 không lặp lại ở bất kì ai trong dòng văn chương nữ lưu Nam Bộ. Ảnh hưởng diễn thuyết của bà không chỉ gói gọn ở vùng Gia Định mà còn lan rộng ra Huế, Hà Nội, nơi mà cử tọa đến nghe đông đến nỗi “chật nứt khán phòng”, mỗi lần diễn thuyết có đến 5,6 nghìn người. Sức hấp dẫn của nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh toát ra từ đề tài nóng, cách nói táo bạo, phong thái trí thức đĩnh đạc và sự thông tuệ, chắc chắn hiếm có của một “thiếu niên” am hiểu văn hóa. Sự có mặt của Nguyễn Thị Kiêm trong văn học sử được đo đếm bằng khoảng chục bài thơ được viết theo lối “thơ mới” từ giai đoạn “trứng nước” và nhiều bài báo mà sự thông minh về tư duy bằng chữ quốc ngữ đáng cho người thời nay có cảm hứng nghiên cứu, thẩm nhận và tôn vinh. Dưới đây là phần thống kê chi tiết nhất có thể về sự nghiệp trước tác và “lập thuyết” của bà: 2.1. Diễn thuyết - Bài diễn thuyết “Vấn đề nữ lưu và văn học” đăng trên Phụ nữ Tân văn số 131 ngày 26-5-1932 - “Bài diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm về lối thơ mới” ở Hội Khuyến học Sài Gòn ngày 26-71933, sau đăng lại trên Phụ nữ tân văn số 131 ngày 26-5-1933 - Bài diễn thuyết “Dư luận nam giới đối với phụ nữ tân tiến” tại hội trường Quảng Trị, Huế, ngày 8-5-1934 - Bài diễn thuyết “Một ngày của một người đàn bà tân tiến” tại Hội Khai trí tiến đức, Hà Nội ngày 8-9-1933 - Bài diễn thuyết “Có nên tự do kết hôn không?” tại Nam Định ngày 3-11-1934 - Bài diễn thuyết “Có nên bỏ chế độ đa thê không?” tại Hải Phòng ngày 29-11- 1934 (Theo Nguyễn Kim Anh (chủ biên), Thơ văn nữ Nam Bộ thế kỷ XX, NXB Thành phố Hồ Chí Minh), 2002). 2.2. Bài báo - “Hai ngày ở thánh thất Cao Đài”, Nguyễn Thị Manh Manh, Phụ nữ Tân văn số 176 ngày 10-11-1932, số 177 ngày 17- 11-1932, số 178 ngày 24-11-1932. - “Hai ngày ở thánh thất Cao Đài”, Nguyễn Thị Manh Manh, Phụ nữ Tân văn số đặc biệt Xuân 1933, ra ngày 19-1-1933 - “Những cái dở của điệu hát cải lương ta”, Phụ nữ Tân văn số 230 ngày 4-1-1933. - “Các điệu hát Bắc kỳ”, Phụ nữ Tân văn số đặc biệt Xuân 1933, ra ngày 19-1-1933. - “Năm tết, Tết đến”, Nguyễn Thị Manh Manh, Phụ nữ Tân văn số 208, ngày 20-3-1933. - “Một cảnh vật, hai tâm hồn”, Phụ nữ Tân văn số 196, ngày 20-4-1933. - “Nhân vật buổi “kinh tế””, Nguyễn V-Mym, Phụ nữ Tân văn số 197, ngày 27- 4-1933. - “Các điệu hát Bắc kỳ”, Phụ nữ Tân văn số 205, ngày 22-6-1933. - “Chuyện ngoài đường”, Mym, Phụ nữ Tân văn số 208, ngày 20-7-1933. - “Đấu xảo nữ công”, Nguyễn Thị Manh Manh, Phụ nữ Tân văn số 208, ngày 20-7-1933. - “Một giờ phỏng vấn đội trưởng hội Phụ nữ Cái vồn”, Nguyễn Thị Kiêm, Phụ nữ Tân văn số 210, 1933. - “Mấy con số đáng ghê sợ”, Nguyễn Thị Kim, Phụ nữ Tân văn số 215, ngày 7- 9-1933. - “Viếng một cái sầu thành: nhà thương Bạc Hà”, Phụ nữ Tân văn số 212, ngày 17- 8-1933. - “Phê bình kịch “Bạn và vợ””, Nguyễn Thị Manh Manh, Phụ nữ Tân văn số 213, ngày 24-8-1933. - “Phụ nữ với hôn nhơn”, Nguyễn Thị Kiêm, Phụ nữ Tân văn số 221 ngày 19-10- 1933. 16 - “Nói chuyện với ông Giáo-sư Leuret Le Ferron”, Phụ nữ Tân văn số 250, ngày 12-7-1934. - “Đi mót tư tưởng ngoài đồng ruộng”, Phụ nữ Tân văn số 254, ngày 16-8-1934. - “Niêm phong cái gói tam tùng lại”, Phụ nữ Tân văn số 255, ngày 23-8-1934. - “Điệu hát cải lương ta”, Nguyễn Thị Kiêm, Phụ nữ Tân văn số 231 ngày 11-1- 1934, số 232 ngày 18-1-1934. - “Dưới chơn Đèo Cả”, Phụ nữ Tân văn số 252 ngày 2 – 8 – 1934. - “Bói dầu tuồng hội chợ”, Nguyễn Thị Kiêm, Tuần lễ Nay, ngày 12-1-1948. - “Miễn lễ”, Nguyễn Thị Kiêm, Tuần lễ Nay, ngày 12-1-1940. 2.3. Thơ - “Viếng phòng vắng”, Phụ nữ Tân văn số đặc biệt Xuân 1933, ra ngày 19-1-1933. - “Lá rụng”, Phụ nữ Tân văn số 193, ngày 30-3-1933. - “Sa đà”, Phụ nữ Tân văn số 194, ngày 6-4-1933. - “Vịnh hội chợ đêm Pháp – Việt”, Phụ nữ Tân văn số 195, ngày 13-4-1933. - “Tặng “Văn học tuần san””, Phụ nữ Tân văn số 195, ngày 13-4-1933. - “Hai cô thiếu nữ”, Phụ nữ Tân văn số 204, ngày 15-6-1933. - “Canh tàn”, Phụ nữ Tân văn số 213, ngày 24-8-1933. - “Bức thơ gửi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới”, Phụ nữ Tân văn số 228, ngày 14-12-1933. - “Bà La Fugie nhà thám hiểm và họa sĩ”, Phụ nữ Tân văn số 239, ngày 26-4-1934. - “Đêm khuya qua Xuân Lộc”, Phụ nữ Tân văn số 264, ngày 25-10-1934. 3. Những quan niệm cơ bản của Nguyễn Thị Kiêm về văn chương, văn học 3.1. Quan niệm phụ nữ với văn chương Quan niệm phụ nữ với văn chương của Nguyễn Thị Kiêm nằm trong bối cảnh tác động của toàn xã hội về các vấn đề: quốc học, nữ quyền, báo chí quốc ngữ, sự nhạy cảm với cái mới trên mọi lĩnh vực cũng như bối cảnh hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Trong “tuyên ngôn” đã được phát ra với toàn thể quốc dân năm 1929, Phụ nữ Tân văn viết: “Ngày hôm nay, Phụ Nữ Tân Văn ra đời, là non sông thêm một tay thợ điểm tô, xã-hội thêm một người lo công việc, trên trường văn trận bút, thêm một đội binh đàn-bà, mà trong bạn buồng khuê cửa các chúng ta, cũng có một cơ-quan để cùng nhau phấn đấu với đời đây!() Phải làm sao cho người đờn-bà cũng có học-vấn rộng rãi, trí thức mở mang, có thể hiểu biết được phận-sự mình là một bà nội-tướng thì mới có ích lợi cho đời được.” (Phụ nữ Tân văn số 1 năm 1929). Với tinh thần đó, người thiếu niên chưa đầy 20 tuổi Nguyễn Thị Kiêm đã hoạt động nhiều hơn vai trò của một nhà báo. Trong ba “công nghiệp” của Phụ nữ Tân văn: - Tổ chức Hội Dục Anh - Tổ chức một cuộc hội chợ Phụ nữ - Tổ chức Nữ lưu học hội thì Nguyễn Thị Kiêm đều đóng vai trò quan trọng và ghi dấu ấn khá rõ. Bà tham gia tổ chức Hội chợ Phụ nữ để gây quỹ cho Hội Dục Anh, tổ chức kêu gọi thành lập Nữ lưu học hội. Bà còn được cho là người đã “tung truyền đơn” trong phong trào Đông Dương đại hội tại nhà hát Tây để truyền bá dân nguyện. Ban biên tập Phụ nữ Tân văn hoàn toàn đặt niềm tin vào bà trong “chiến dịch” đánh thức tinh thần phụ nữ và làm dấy lên một trào lưu “nhận thức nữ quyền” nhằm khắc sâu một tinh thần mới, giá trị sống mới có ích cho quốc dân. Với bài diễn thuyết “Nữ lưu với văn 17 học” (sau đăng trên Phụ nữ Tân văn số 131 ngày 26-5-1932), nữ sĩ Manh Manh trở thành một trong số những người không chỉ hoạt động văn học như một minh chứng về việc “phụ nữ làm văn học” mà còn làm phong phú thêm cho một nền lý luận văn học giới ở buổi đầu vàng thau. Nguyên do chính của việc nữ sĩ tuyên truyền về vai trò của nữ lưu với văn học xuất phát từ việc kêu gọi hình thành Nữ lưu Học hội với sứ mệnh “đàn bà là có mật thiết quan hệ đến văn chương nước nhà” (2). Chuỗi lập luận của bà đi từ triết học đến khoa học về giới rồi dẫn vào tâm lý học nghệ thuật. Đó là lối suy nghĩ, tiếp cận trước những vấn đề mang tính trừu tượng rất khác biệt của nữ sĩ Manh Manh. “Theo lẽ sinh lý, thì đàn bà thường nặng về phần hồn mà nhẹ về phần trí, cảm tình thì sâu mà tư tưởng thì hẹp nên trong văn học thường sở trường về lối tả cảnh, đạo tình mà ít hay về lối khách quan, triết lý”. Từ nền tảng chung này, bà phân tích rằng “đàn bà vốn nặng về chủ quan” nên có đủ quan tâm vào cái thế giới nhân loại bao la mà đàn ông vốn ưa khách quan có phần bỏ quên. Nghĩa là, theo bà, năng lực đi vào thế giới của cảm giác, “tâm giới mênh mông” của phụ nữ là một thế mạnh, một loại “biệt tài” được phát lộ trực tiếp và gián tiếp dưới nhiều hình thức. Điều này vẫn rất đúng. Phát hiện quan trọng và thú vị của Nguyễn Thị Kiêm là nhấn mạnh khả năng “tạo cảm hứng viết cho đàn ông” như một hình thái tham dự sáng tạo của phụ nữ thay vì chỉ nói về cách mà phụ nữ tạo ra tác phẩm. Bà cho rằng “văn học được phát đạt vô cùng” là do cái phần thôi thúc của tâm hồn nữ giới đối với các “văn nhân tao sĩ” vốn là đàn ông kia. Điều này cũng rất đúng. Bà lập luận: “về phương diện văn học mà nói, thì cái phong trào nầy (tức phong trào nam hóa, đàn bà “mưu lấy quyền lợi bình đẳng ở xã hội” - L.T.T.T nhấn mạnh) chính là một cái triệu chứng về sự tấn hóa của nữ lưu ở trên đường văn học”. Như vậy, bà cấp cho mối quan hệ giữa nữ giới với văn học một nguồn gốc “sang trọng” từ cuộc cách mạng về nữ quyền, xu thế tất yếu trên thế giới. Bà giải thích một cách ngộ nghĩnh, thú vị, phần nào “sâu cay” về sự hiện diện của Nữ lưu Học hội ở xứ Nam ta như sau: “Đối với những cái thiên tài xuất chúng, Nữ lưu Học hội có thể không là cần thiết; đối với những kẻ dung tục chí ngu, Nữ lưu Học hội có thể cho là đồ thừa. Nhưng đối với những người như chúng tôi đây: ngu mà muốn học cho khôn, dốt mà muốn học cho giỏi, không biết mỹ thuật mà muốn yêu mến mỹ thuật, không biết văn chương mà muốn cảm mến văn chương, thì Nữ lưu Học hội thiệt là cần ích cho chúng tôi lắm”. Rất khéo léo khi lập luận trong diễn thuyết, bà không sa vào món lý luận trừu tượng mặc dù cũng đủ lý luận để khiến thính giả khỏi tranh cãi nhiều. Bà còn dẫn cả kinh Phật rất đúng lúc: “Tự giác nhi giác tha”; bà giải thích: “Người đàn bà cũng có cái tinh thần cần phải tự giác để chiếu sáng ra ở chung quanh mình, cho gia đình mình được êm đềm phong phú, cho xã hội được rực rỡ quang minh”. Vậy là đưa cả triết học tôn giáo vào cuộc. Tóm lại, cách hiểu của nữ sĩ Manh Manh về nữ lưu và văn học là rất nhất quán bao gồm các phương diện: triết học, giới tính, tâm lý, văn học, bản năng làm văn chương của phụ nữ và định mệnh lịch sử của phụ nữ ở thời khắc mưu cầu cuộc cách mạng về nữ quyền, tri thức và tiến hóa về tinh thần. 18 3.2. Quan niệm cách tân văn học - lý do tất yếu Thơ mới sẽ sống Vai trò hệ trọng của Nguyễn Thị Kiêm đối với sự khai mở của Thơ mới năm 1932 là không thể bàn cãi. Rất đáng chú ý là cách hiểu thơ mới cũng như sự hùng hồn, quyết liệt của bà trước sự hiện diện của thơ mới rõ ràng xuất phát từ ý thức, tư tưởng nhất quán toàn diện về một cái mới tất yếu mà thơ mới chỉ là một ví dụ đặc sắc. Bà hoàn toàn nhuần nhị về “chiến lược cái mới” cho mọi cắt nghĩa về giới, về xã hội, văn chương và cụ thể hơn nữa là thơ. Vì thế, những bài diễn thuyết của bà đều hấp dẫn như nhau, vì chúng thuộc cùng một hệ thống tư duy về một cái mới đang hiện diện, cần có mặt, cái mới có giá trị, mặc dù các chủ đề có thể khác nhau. Đó mới thực sự là một đẳng cấp tư duy – điều hiếm có ở một người phụ nữ chưa tròn 20 tuổi. Chuỗi lập luận lần này của bà như sau: Thơ là gì? → Làm thơ là gì? → Không gian thụ hưởng thơ truyền thống như thế nào (bao gồm cái truyền thống thuộc về dân tộc và cái truyền thống của chung phương Đông, chủ yếu là Trung Quốc)? → Không gian thơ truyền thống đó đã làm chật hẹp điều gì? → Vậy người ta phải vùng vẫy khỏi cái chật hẹp ấy như thế nào (trường hợp Phan Khôi và Tình già, Lưu Trọng Lư và Trên đường đời)? Đoạn “chiếu nghỉ” trên nấc thang đến cái mới của bà dừng lại ở câu cảm thán có tính phản đề: “Đây là tôi bày một ý kiến cho các thi sĩ (une proposition) chớ không phải nói ông Lưu Trọng Lư bắt chước theo thơ Pháp mà các ngài hòng la lên: Bỏ thơ Tàu lại vớ thơ Tây!” Đoạn phản đề này rất thâm thúy. Nữ sĩ “chặn” được cả cách phản biện (định kiến) của phe thơ cũ bởi khả năng họ sẽ: biến câu chuyện cũ - mới thành câu chuyện Tây - Tàu, biến nhu cầu thiết tha cách tân thơ thành câu chuyện “phá đám” của loại thơ ngọng nghịu không đủ lệ luật, đánh đổi câu chuyện nghiêm trọng về nền thơ hiện đại bằng cách phê bình những bài thơ mới thất bại. Cách tư duy ngụy biện và “đánh lạc hướng” của phe thủ cựu trước những biến đổi quá lớn (nói như Hoài Thành, “cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay”) rất dễ trở thành hòn đá tảng ngăn lại dòng thác canh tân đang cuồn cuộn đến. Bởi câu chuyện cũ và mới là cuộc đối thoại vượt ra khỏi rất nhiều khả năng nghĩ và tư duy của người Việt lúc đó. Nếu biến nó thành chuyện ảnh hưởng Tây hay Tàu thì đó lại là một chủ đề tầm thường quanh quẩn và không hề có gốc rễ. Nguyễn Thị Kiêm hoàn toàn hiểu rõ điều này và dùng khoa học để tranh luận. Với mỗi bài thơ mới được dẫn chứng, bà đều khéo dùng cách nói cũ để bàn về sự hình thành cái mới: “Một khúc có 6 câu. Câu thứ 1 và 5, 6 thì mỗi câu có 4 chữ. Câu 2, 3, 4, mỗi câu có 3 chữ. Vận thì câu 1, 2, 3, 6 ăn nhịp với nhau; 4, 5 vần với nhau”. Cách nói này rất cũ. Cũng có thể bà không cố tình nói cách cũ mà cái tình thế tư duy và tình thế xã hội lúc bấy giờ khiến người ta đương nhiên nói thế. Ở góc độ nào đó, cách nói cũ mới lẫn lộn này cũng là một “chỉ số” đo được phần nào tâm thế và não trạng đối với cái mới của con người đương thời. Từ quan điểm mới mẻ và chắc chắn, nữ sĩ còn nhấn mạnh phê bình thơ Hồ Văn Hảo như một giá trị thơ mới (viết về cuộc đời thật). Nhận xét về bài Con nhà thất nghiệp của Hồ Văn Hảo (Phụ Nữ Tân Văn số 208 ngày 20-7-1933), nữ sĩ cho rằng “người ta cho là chẳng phải thơ, chỉ vì chẳng phải than thân trách phận, tả cảnh 19 hoa tàn nguyệt xế, suối chảy chim ngâm, mà là một cảnh thiết thật, một cảnh khổ có thật trong đời: người thất nghiệp Có lẽ trong thơ văn, người cu li ở trần quần vắn là một động vật không có gì lãng mạn chăng? Có lẽ cái bi kịch của một người nghèo khó phải đi ăn trộm “hụt”, chúng hay được la 'ăn trộm' rồi anh chạy trốn, bi kịch ấy không gì lạ đáng để ý chăng?". Ý tưởng sắc sảo này của Nguyễn Thị Manh Manh từ thời điểm nhạy cảm phôi thai phong trào Thơ mới đã làm sáng thêm giá trị của đời thơ Hồ Văn Hảo, người mà về sau, ngoài Đông Hồ dường như không có ai hiểu và trân trọng. Cái mới của nhà thơ Hồ Văn Hảo nằm ở chỗ: tiên cảm về tính chân thực và sự dấn thân của thơ ca hiện đại, sự chủ động của cái tôi và sự dứt khoát với quá khứ ngâm ngợi từ chương. Riêng ở bài Con nhà thất nghiệp, tuy lời lẽ chưa phải là một áng thơ tuyệt tác nhưng ý tưởng và cách nói mới đó rất xứng đáng được xem là một mẫu hình quan trọng của thơ mới, nhất là ở chặng đầu phôi thai. Dường như thơ mới trên bước đường “lưu lạc” của nó đã bị x
Tài liệu liên quan