Nhại (parody) trong văn xuôi sinh thái viết về nông thôn Việt Nam đương đại

TÓM TẮT Văn học Việt Nam sau Đổi mới 1986 xuất hiện một khuynh hướng viết mang đến một cái nhìn khác về nông thôn: phản lãng mạn. Một trong những hướng nghiên cứu của phê bình sinh thái là chất vấn những diễn ngôn viết về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên như văn học điền viên, mục đồng, thôn dã, lãng mạn.v.v. Chúng tôi nhận thấy giọng giễu nhại trở thành chủ đạo với những hợp âm của hoài nghi, cật vấn, trào lộng, mỉa mai. Trong văn xuôi sinh thái, nhại còn như một thể loại được các nhà văn sinh thái thể hiện để đưa ra những phản tư, để phản tỉnh con người trước các vấn đề môi sinh. Thông qua nhại văn chương mục đồng, lối viết lãng mạn chứng tỏ rằng văn học sinh thái Việt Nam vẫn bắt nhịp với những xu hướng toàn cầu bằng những hình thức mới mẻ, cách tân, hiện đại.

pdf13 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhại (parody) trong văn xuôi sinh thái viết về nông thôn Việt Nam đương đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 69 (03/2020) No. 69 (03/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: 15 NHẠI (PARODY) TRONG VĂN XUÔI SINH THÁI VIẾT VỀ NÔNG THÔN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI Parody in ecological prose about contemporary rural Vietnam TS. Trần Thị Ánh Nguyệt Trường Đại học Duy Tân TÓM TẮT Văn học Việt Nam sau Đổi mới 1986 xuất hiện một khuynh hướng viết mang đến một cái nhìn khác về nông thôn: phản lãng mạn. Một trong những hướng nghiên cứu của phê bình sinh thái là chất vấn những diễn ngôn viết về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên như văn học điền viên, mục đồng, thôn dã, lãng mạn.v.v. Chúng tôi nhận thấy giọng giễu nhại trở thành chủ đạo với những hợp âm của hoài nghi, cật vấn, trào lộng, mỉa mai. Trong văn xuôi sinh thái, nhại còn như một thể loại được các nhà văn sinh thái thể hiện để đưa ra những phản tư, để phản tỉnh con người trước các vấn đề môi sinh. Thông qua nhại văn chương mục đồng, lối viết lãng mạn chứng tỏ rằng văn học sinh thái Việt Nam vẫn bắt nhịp với những xu hướng toàn cầu bằng những hình thức mới mẻ, cách tân, hiện đại. Từ khóa: nhại, phê bình sinh thái, phản lãng mạn, văn học sinh thái Việt Nam ABSTRACT In Vietnamese literature after Innovation 1986, there is a trend of writing which offers a different look at the rural region: anti-romanticism. One of the research directions of ecological criticism is to question the discourses on the relationship between man and nature such as peasant literature, shepherds, countryside, romance.v.v. The parody voice becomes dominant with the chords of skepticism, questions, splendor, and sarcasm. In ecological prose, parody is used as a genre by ecological writers to provide people with reflections on environmental issues. Through parody of shepherds, romantic writing, it is proved that Vietnamese ecological literature still catches up with global trends in new, innovative and modern forms. Keywords: parody, ecocriticism, anti-romanticism, Vietnamese ecoliterature 1. Dẫn nhập Nhại (Parody) là một hình thức xuất hiện từ cổ đại tới nay (từ parodia trong tiếng Hi Lạp cổ đại) và nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Nhại được hiểu là sự cố ý bắt chước phong cách với mục đích gây cười. Nhại biểu hiện đa dạng cả trong âm nhạc, hội họa, văn học, điện ảnh.v.v. M. Bakhtin (1895 – 1975) là người thay đổi nghiên cứu ngữ văn của thế kỉ XX bằng những tư tưởng phong phú và độc đáo. Trong đó, có những nghiên cứu chuyên sâu về nhại. Cốt lõi trong hệ thống tư tưởng của M. Bakhtin là nguyên lí đối thoại (dialogizm). Đối thoại tạo nên giá trị của văn chương mà biểu hiện rõ rệt nhất ở tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết, bản chất độc thoại của các thể loại khác dần bị lật đổ thông qua Email: trananhnguyet5@yahoo.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 16 thủ pháp đa dạng và nhại là một biện pháp có nhiều ý nghĩa để thể hiện tính đa giọng đó. Theo Bakhtin, nhại là một kiểu carnaval hóa. Trong Sáng tác của Francois Rabelais và văn hóa trào tiếu dân gian, ông cho rằng có sự thâm nhập của văn hóa dân gian vào quyền uy “bên cạnh lễ bái trang nghiêm là (về mặt tổ chức và điệu thức) còn có các nghi lễ trào tếu, báng bổ và thóa mạ thần linh, bên cạnh những huyền thoại trang nghiêm còn có những huyền thoại trào tếu và chửi rủa, bên cạnh những anh hùng còn có những hình tượng song trùng giễu nhại lại chúng” (M. Bakhtin, 2003, tr.165), điều này khiến nhại có tính lưỡng trị, vừa phủ định vừa tái sinh. Trong Những vấn đề thi pháp của Dostoyevsky, ông cho rằng nhại là nhân tố không thể thiếu trong mọi loại hình canaval hóa “phỏng nhại gắn chặt với sự thụ cảm canaval về thế giới. Phỏng nhại hóa là tạo ra sự đồng dạng bị hạ bệ, đó cũng là “thế giới lộn ngược”. Vì vậy, phỏng nhại mang tính lưỡng tính” (M. Bakhtin, 1998, tr.139). Ông phân tích lịch sử của phỏng nhại và cho rằng cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất thế giới Donquixote của Xervantex “mang nhiều tính canaval nhất của văn học thế giới” (M. Bakhtin, 1998, tr.140). Khơi nguồn từ lí thuyết của M. Bakhtin, Nguyễn Thị Tịnh Thy cũng nhận thấy tính chất giải cấu trúc của phê bình sinh thái (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2013, tr.25). Phê bình sinh thái truy tìm căn nguyên lí do khiến cho trái đất lâm vào tình trạng suy thoái hiện nay. Các nhà phê bình sinh thái cho rằng chính tư tưởng “duy nhân” thống trị là căn nguyên của mọi thảm họa môi trường. Phê phán mặt trái của tư tưởng “nhân loại là trung tâm” là đặc điểm trọng tâm của khuynh hướng văn học này. Nguyễn Thị Bình trong chuyên luận Văn xuôi Việt Nam sau 1975 (Nguyễn Thị Bình, 2012) cho rằng nhại là thủ pháp, giọng điệu chính của văn xuôi đương đại. La Khắc Hòa khám phá những ý nghĩa của nhại làm nên nét riêng của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài trong bài viết Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài (Lã Nguyên, 2011). Lê Huy Bắc nhận ra thủ pháp nhại đặc sắc “Bậc hiền triết – con chó xồm” hay “nhại” (parody) của Nguyễn Huy Thiệp (Lê Huy Bắc, 2012). Luận án tiến sĩ Parody/ Nhại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại của Phạm Thị Thu (Phạm Thị Thu, 2016) đã giúp người đọc có một cái nhìn bao quát về nhại trên phương diện lí thuyết và phân tích những hiệu quả của nhại trong văn chương và khẳng định nhại xuất hiện phổ biến trong văn học Việt Nam sau năm 1986. Bài viết này của chúng tôi tìm hiểu nhại trên phương diện hình thức giễu nhại gắn với tiếng cười châm biếm và tinh thần hoài nghi, đồng thời xem nhại như là một thể loại mà nghệ thuật sinh thái thể nghiệm về ý thức phản tư trong thời đại khủng hoảng môi trường. 2. Giọng giễu nhại với những hợp âm của mỉa mai, hoài nghi Nhại trước hết được xem là sự cố ý bắt chước một cách hài hước để châm biếm. Nguyễn Huy Thiệp được coi là tác giả tiêu biểu cho giọng điệu giễu nhại hoài nghi. Ông hoài nghi giáo dục, phỉ báng văn minh “Dạy cho trẻ con toàn thứ láo khoét” (lời ông giáo Hội, Chăn trâu cắt cỏ), “học vấn có điều nguy hiểm là khiến người ta có ảo tưởng thay đổi bản thân và hoàn cảnh là điều vốn dĩ không bao giờ làm được” (lời thầy giáo Doanh, Những người muôn năm cũ) vì đó là những điều khiến cho con người trở nên hám lợi, nguồn gốc của tham TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 17 vọng, quyền lực, dối trá, hư hỏng. Như vậy, điều đó cũng khiến cho con người rời xa bản tính tự nhiên tốt đẹp. Thương nhớ đồng quê, Chăn trâu cắt cỏ, Sống dễ lắm, Những người muôn năm cũ của Nguyễn Huy Thiệp đi ra ngoài diễn ngôn lãng mạn, từ bỏ cách nhìn thẩm mĩ hóa thôn dã. Nông thôn đã vĩnh viễn mất đi bình an, nhân vật chia tay cái thanh thản của những ảo tưởng truyền thống, đối diện với đói nghèo, vất vả, bất an, buồn chán.v.v. Thiềm, một giáo viên tự nguyện lên miền núi dạy học nhìn cảnh vật đúng như trong văn chương điền viên mô tả “Khi chiều về, tiếng mõ trâu lốc cốc khua vang ở dưới chân núi xa xôi, lẫn lộn với khói lam chiều” nhưng trước khung cảnh ấy, anh chỉ cảm thấy “cuộc sống ở xóm núi trôi đi đơn điệu, buồn tẻ” (Những người muôn năm cũ); Ông Trụ, một cán bộ giữ trạm thủy văn nhìn sương phủ trên sông Đà bằng cách giễu về những hình ảnh đã thành cổ điển của thơ sơn thủy: “Làn sương khói lảng vảng lướt trên mặt sông chờn vờn như ma quỷ nhập làm hoa cả mắt. Đây là thứ sương khói mà trong thơ Đường Bạch Cư Dị gọi là “yên ba sầu sát nhân” (Như sương như khói bay). Ngay cả cách đặt tên truyện: “giả sơn thủy” (Như sương như khói bay), “giả mục đồng” (Chăn trâu cắt cỏ), “nhại lãng mạn” (Những người muôn năm cũ), Nguyễn Huy Thiệp phản biện lại thói quen về một không gian thôn dã mĩ lệ, thanh thản để nhận thức về một thực tại tẻ nhạt, nỗi cô độc không nơi nương náu của tâm thức hiện đại. Tiếp nối cách giễu nhại của Nguyễn Huy Thiệp, có thể kể đến Đoàn Lê. Chốn sơn khê đâu còn là nơi ở ẩn, chỗ lánh đời “dùng bếp dầu, bếp than tổ ong để cướp thời gian, hỏi bói đâu ra làn khói thơ mộng bảng lảng vương vít trên mái rạ? Và lũ trẻ trâu chọi ở đây nghịch hơn lũ giặc dẫu cho ăn kẹo cũng đố thổi được sáo. Đòi khê với chả cháy cơ!”. Những sự thật trần trụi của xóm Chùa được Đoàn Lê viết bằng một giọng mỉa mai, giễu cợt và chua chát A tourisme xóm Chùa, Thành Hoàng làng xổ số, Nghĩa địa xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, Người khách đêm giao thừa, Sex, Đất xóm Chùa, Xóm Chùa thời ung thư đã nhận chân xã hội Việt Nam đương đại bằng niềm âu lo khắc khoải khi đối diện với đô thị hóa. Người nông dân li hương ngay chính trên mảnh đất của mình. Đất đai sản xuất trở thành các khu công nghiệp. Mất đất sản xuất, người nông dân trở nên bơ vơ, trở thành tha nhân trên mảnh ruộng quê hương. Nhiều căn bệnh ung thư phát sinh vì khu công nghiệp xây dựng trong khu vực dân cư. Chưa kể, khi giải tỏa, đất như một tài sản có giá trị kinh tế dẫn tới cha con, vợ chồng, anh em tranh giành, đối xử tàn nhẫn, đâm chém lẫn nhau, không nhìn mặt nhau. Làn sóng “mưa Âu gió Mĩ” làm đổi thay xã hội nông nghiệp cổ truyền ngày xưa từng được Vũ Trọng Phụng viết thành một chuỗi cười dài trong cuốn tiểu thuyết xuất sắc Số Đỏ thì nay trong các tác phẩm của mình, Đoàn Lê đã phản ánh thực tế làn sóng lấy chồng ngoại quốc biến đổi các cô thôn nữ trở thành những Tú Bà thời hiện đại. Trong Trinh tiết xóm Chùa, bà cho thấy hậu quả của đường dây mại dâm quốc tế dưới vỏ bọc lấy chồng ngoại quốc, du lịch sinh thái là khi thanh niên xóm Chùa “khám nghĩa vụ quân sự mới phát hiện có đến phân nửa thanh niên dương tính với HIV”. Sau 1986, xã hội đi vào quỹ đạo phát triển kinh tế, bắt đầu tăng tốc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đó kéo theo sự đổi thay của nhịp điệu cuộc sống, phong tục, xã hội. Trước những biến đổi ấy, nghệ sĩ ưu tư phản kháng trước tình trạng thương mại hóa ngày càng cao, phản ứng lại với những ô hợp đô thị, rất nhiều tác SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 18 giả đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong thời đại kinh tế thị trường phát triển mạnh. Tinh thần ấy được thể hiện qua hệ thống ngôn ngữ thị dân nhiều kiểu loại như ở hội hè carnaval. Nhiều tổ hợp từ suồng sã của đời sống hiện đại, tiếng lóng văng tục vỉa hè “Thế nhưng con Khờ dám đung đưa háng với bộ váy xẻ ngược xẻ xuôi, để lộ đến tận khúc đùi nõn nà, đập cửa sổ ô tô đánh sầm, rồi điềm nhiên lắc mông đi vào làng () Cha con đĩ, thôn triều phục nó coi chẳng khác gì cửa hàng Karaôkê nhà nó à!”, “tiên nhân nó! Nó cho mỗi người một tờ tiền âm phủ đây này”, “nhát tao cho “năm hìu” đánh con đề số không bảy” (Trinh tiết xóm Chùa), Dự án “ngon” thế, không “ăn” được thì chết cho xong (Đất xóm Chùa); chêm xen từ nước ngoài “Mặt trận cấm chỉ việc để những tệ nạn xã hội bồng bế nhau về đất xóm Chùa “ăn theo” cái tua-rít-sì-mờ” (A tourisme xóm Chùa), “và để giúp thánh thần của mẹ, con xin cung cấp mọi thông tin về chất beta endorphin ma túy nội sinh lẫn ma túy ngoại sinh, điểm cảm thụ tập trung MUY trong tế bào thần kinh, vân vân và vân vân” (Mẹ, con và thánh thần); thậm chí cách đặt tên nhân vật cũng đầy hàm ý mai mỉa “Nay Khờ lấy tên họ Tàu, gọi là cô Lầy Lầy, chả biết lầy lội đẹp hơn khờ khạo chỗ nào”, Sĩ Thái sư, Lão Tí Nghệch (Trinh tiết xóm Chùa).v.v. Tính carnaval hóa qua ngôn ngữ chợ búa, hổ lốn, suồng sã lột tả sống động tính đa tạp của không gian nông thôn hiện tại đã tiêu tán theo cơn gió đô thị hóa và ảnh hưởng của áp lực kinh tế thị trường. Tính chất lưỡng trị vừa trang nghiêm vừa cười cợt, vừa nghiêm túc vừa buồn cười của hình thức canaval đã hạ bệ những gì tưởng như trang nghiêm, mực thước thành ra phóng túng, đôi khi thô tục để phản ánh cuộc sống ngổn ngang, đa diện, phồn tạp. Đoàn Lê đã chạm đến những vấn đề thời sự đương đại của nền kinh tế thị trường bằng một phong cách hiện đại với giọng giễu nhại, lạnh lùng, chua chát, sắc cạnh có phần đanh đá, chao chát. Giễu nhại do đó là tiếng cười đầy xót xa để chia tay những ảo tưởng về đời sống của tác phẩm viết về thôn dã. Đi qua đồng chiều (Sương Nguyệt Minh) giễu nhại lại hành trình trở về nông thôn trong văn học truyền thống. Thăng là một chàng thanh niên Việt Kiều từ Úc về quê thăm người bác họ. Nhưng không như kì vọng của bố, về quê để nhận ra gốc gác, để học những bài học thôn quê, hành trình của Thăng không hề làm nhân vật chính thay đổi mà chỉ làm sâu sắc hơn chênh lệch giữa nông thôn và thành thị. Câu nói cửa miệng của Thăng “Người nhà quê hay nhỉ?” trước cảnh vật, sinh hoạt nơi thôn dã là cái nhìn của kẻ khác, đứng từ vị thế của người bên ngoài. Vẻ đẹp thôn dã của cô gái nông thôn được miêu tả cũng tước khỏi cái nhìn lãng mạn, chỉ còn là một sự mỉa mai: “Bạn chị xinh nhỉ. Người eo tuyệt vời. Con gái nhà quê, eo đẹp thế là sự lạ. Cái mũi dọc dừa. Mắt như mắt nai. Xinh lắm! Nhưng mà tù hãm, đôi mắt đang báo hiệu một sự tù đọng”. Cái Hương hỏi: “Thăng nhìn thấy mắt nai ở đâu, đi săn thấy ở rừng à?” “Không. Em thấy ở trong vườn bách thú.” “Thế ra Thăng bảo bạn chị như con nai đẹp bị nhốt trong vườn bách thú, hở?”. Thậm chí, mái tóc gội đầu thơm hương bưởi được ca ngợi trong văn thơ lãng mạn cũng chỉ được cảm nhận bằng một thái độ thờ ơ, hiếu kì. Vậy nên, hành trình của Thăng không phải là một hành trình lí tưởng trở về thôn dã để trưởng thành mà hành trình của một kẻ thành phố kênh kiệu, hời hợt về nông thôn với những định kiến về một vùng nông thôn dã man, tăm tối và TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 19 thất học mông muội lạc hậu cần khai hóa. Giọng điệu giễu nhại với đặc trưng hình thức tổng hợp của cả hai tính chất tự phản tỉnh và liên văn bản trở thành đặc trưng nổi bật của văn xuôi sinh thái sau năm 1975. Giễu nhại là cách để gây ra hiệu ứng ngược. Nó mang hai nghĩa. Hai nghĩa đó đối chọi nhau, tranh cãi nhau. Điều đó, giúp thoát khỏi tính độc thoại của sử thi, đạt đến tính đối thoại đầy tinh thần hiện đại. Vậy, việc sử dụng hình thức nhại khiến đối thoại trở nên mạnh mẽ, giọng điệu, do vậy trở nên đa âm, đa thanh. Giễu nhại khiến người đọc nhận ra cái “bất ổn” ở đáy sâu của hiện thực đời sống. Thực chất, giễu nhại thể hiện một thái độ hoài nghi sâu sắc. Tác giả nhận ra cần phải kiến lập một điều gì khác với cái đổ vỡ của mối quan hệ trong hiện tại nhưng có lẽ chưa thấy nên tấn công vào cái tồn tại hiện hữu bằng thái độ phỏng nhại, mỉa mai những giá trị cũ. Niềm khắc khoải của Nguyễn Huy Thiệp, Sương Nguyệt Minh, Đoàn Lê... là cách phản ứng lại với thực tại cay đắng, u ám, cuộc sống kĩ trị đang xâm chiếm và ngự trị. Chính áp lực của xã hội thị trường, cộng hưởng với dư âm chiến tranh đã khiến con người đang cảm thấy bất an, mất mát và hoài nghi. 3. Phản lãng mạn - Nhại như một thể loại Ở một cấp độ khác, như quan điểm của Hutcheon “Nhại có thể là một thể loại hơn là một kĩ thuật” (Dẫn theo Phạm Thị Thu, 2016, tr 16). Hình thức này có thể thấy rõ ở nghệ thuật sinh thái (eco-art) với những tác phẩm tác động mạnh mẽ vào giác quan để tỉnh thức về những tác động của con người lên môi sinh. Nhiều nghệ sĩ sinh thái đã nói lên niềm ưu tư với khủng hoảng sinh thái thời hiện đại bằng lối thể hiện “nhại” lại các mô thức truyền thống. Trần Tiến dù hóm hỉnh, pha chút giễu cợt cũng thể hiện âu lo về sự xâm lấn của các sản phẩm văn hóa đô thị với nông thôn (Lambada quê ta). Một loạt tranh biếm họa trên báo Tuổi trẻ cười về hiện tượng cá chết trên biển miền Trung, hay cách chế giễu việc phá rừng phòng hộ để xây dựng sân gofl phục vụ cho cuộc thi hoa hậu Trái đất đã tấn công một cách trực diện vào sự bất hợp lí trong cách đối xử với môi trường. Jeff Hong mượn hai nhân vật hoạt hình nổi tiếng của Disney (Hoa Mộc Lan bịt khẩu trang đi dạo giữa đường phố đầy bụi, Nàng tiên cá nổi lên giữa vùng biển đầy vết dầu loang) để đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ về thảm họa sinh thái (Theo Đậu Dung, 2019). Những họa phẩm đầy chất nghịch dị của họa sĩ Lê Minh Phong (Hóc, Tiếng hót cuối cùng, Sông này không phải là sông, Cha tôi, Ăn một tiếng hót) là những ám gợi sâu xa cho những ý niệm về môi trường mà hội họa, một loại hình nghệ thuật vừa mang tính trực giác vừa giàu ý vị triết lí với những liên tưởng triết học mang đến cho độc giả. Nếu như tính trực giác của nghệ thuật sinh thái mang đến những thông điệp mạnh mẽ, trực diện thì nhại trong văn học đưa đến những liên tưởng, tưởng tượng đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ. Nhại khiến văn học có khả năng du nhập vào nó nhiều hình thức ngôn ngữ. Nhại không chỉ dừng lại ở nhái phong cách của một tác giả, sử dụng giọng châm biếm, hoài nghi mà còn nhại thể loại “Thể loại là một nguyên tắc giao tiếp giữa tác giả và người đọc, khi làm chiến lược này biến dạng sẽ tạo ra nhại thể loại” (Phạm Thị Thu, 2016, tr 104). Ví dụ Don Quijote của Cervantes là một tác phẩm nhại thể loại tiểu thuyết hiệp sĩ xuất sắc được ưa chuộng của Tây Âu thời trung đại, chế giễu những tàn dư của lí tưởng hiệp sĩ phiêu lưu đã trở SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 20 nên lỗi thời, cứng nhắc và tầm thường. Văn học Việt Nam sau đổi mới đã chứng kiến nhiều tác phẩm nhại của Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Thuận, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Huy Thiệp, Đoàn Lê khiến cho nhại trở thành một phương thức rộng rãi. Tuy nhiên, viết về nông thôn, văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại xuất hiện những hình thức nhại làm biến dạng những thể loại mục đồng, điền viên hay lãng mạn với ý hướng phản mục đồng, giải huyền thoại, phản lãng mạn.v.v. Viết về nông thôn, văn học truyền thống thường nghiêng về lí tưởng hóa, thẩm mĩ hóa là nơi yên bình để lánh trú hay chốn chân quê hiền hòa mà khi thất vọng về thế sự (trong thơ điền viên) hay mệt mỏi chốn phồn hoa (trong văn học lãng mạn) khiến con người muốn trở về. Nhưng đã có những cách viết xuất hiện sự hoài nghi diễn ngôn lãng mạn về nông thôn. Phản đề về khuynh hướng lí tưởng hóa, lãng mạn hóa nông thôn, vùng hẻo lánh, Henry David Thoreau cho rằng “văn học đồng quê thực chất chỉ là sự khắc họa về thôn quê của những người ngồi trong cánh cửa sổ phòng khách để nhìn ra” (H. D. Thoreau, 2016, tr 15). Terry Gifford dựa vào mô hình 3 lớp của kịch đồng quê: đồng quê (pastoral), phản đồng quê (anti-pastoral) và hậu đồng quê (post-pastoral) để nhìn lại về văn học đồng quê. Ông cho rằng thực chất của cái nhìn về nông thôn trong văn học thôn dã truyền thống chủ yếu là đã lí tưởng hóa, che đậy đời sống khó khăn vất vả. Gifford cho rằng truyền thống văn học đồng quê chỉ là “những kiến tạo lí tưởng hóa, làm sai lệch đời sống nông thôn thông qua việc che đậy cuộc sống lao động thực tế và đời sống khó khăn vất vả chốn thôn quê” (Terry Gifford, 1999, tr 84-85). Giễu nhại văn chương mục đồng là sự chất vấn về cách nhìn có phần lí tưởng hóa về không gian thôn quê đẹp đẽ, nhàn tản, yên bình. Trong Chăn trâu cắt cỏ (Nguyễn Huy Thiệp), trước hết, tên truyện dễ khiến người đọc liên tưởng đến hình tượng đẹp đẽ về thôn dã thanh bình: Mục đồng thổi sáo trâu về hết/ Cò trắng từng đôi lượn xuống đồng (Thiên Trường vãn vọng, Trần Nhân Tông), kì thực, Nguyễn Huy Thiệp đang giễu lại nó. Thứ hai là “phản lãng mạn” qua việc tránh miêu tả cảm xúc: “Năng không nghĩ ngợi, không xét đoán”, “Năng thấy lòng mình trống rỗng”. Thứ ba là “chống mĩ hóa”: đối diện với cảnh vật “Năng không biết ở đây cảnh đẹp hay không đẹp”. Không cảm xúc như là một phản ứng với truyền thống văn chương thôn dã để bước vào địa hạt gồ ghề của đời sống với hiện thực t