TÓM TẮT
Văn học Việt Nam sau Đổi mới 1986 xuất hiện một khuynh hướng viết mang đến một cái nhìn khác về
nông thôn: phản lãng mạn. Một trong những hướng nghiên cứu của phê bình sinh thái là chất vấn những
diễn ngôn viết về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên như văn học điền viên, mục đồng, thôn dã,
lãng mạn.v.v. Chúng tôi nhận thấy giọng giễu nhại trở thành chủ đạo với những hợp âm của hoài nghi,
cật vấn, trào lộng, mỉa mai. Trong văn xuôi sinh thái, nhại còn như một thể loại được các nhà văn sinh
thái thể hiện để đưa ra những phản tư, để phản tỉnh con người trước các vấn đề môi sinh. Thông qua
nhại văn chương mục đồng, lối viết lãng mạn chứng tỏ rằng văn học sinh thái Việt Nam vẫn bắt nhịp
với những xu hướng toàn cầu bằng những hình thức mới mẻ, cách tân, hiện đại.
13 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhại (parody) trong văn xuôi sinh thái viết về nông thôn Việt Nam đương đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 69 (03/2020) No. 69 (03/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
15
NHẠI (PARODY) TRONG VĂN XUÔI SINH THÁI
VIẾT VỀ NÔNG THÔN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Parody in ecological prose about contemporary rural Vietnam
TS. Trần Thị Ánh Nguyệt
Trường Đại học Duy Tân
TÓM TẮT
Văn học Việt Nam sau Đổi mới 1986 xuất hiện một khuynh hướng viết mang đến một cái nhìn khác về
nông thôn: phản lãng mạn. Một trong những hướng nghiên cứu của phê bình sinh thái là chất vấn những
diễn ngôn viết về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên như văn học điền viên, mục đồng, thôn dã,
lãng mạn.v.v. Chúng tôi nhận thấy giọng giễu nhại trở thành chủ đạo với những hợp âm của hoài nghi,
cật vấn, trào lộng, mỉa mai. Trong văn xuôi sinh thái, nhại còn như một thể loại được các nhà văn sinh
thái thể hiện để đưa ra những phản tư, để phản tỉnh con người trước các vấn đề môi sinh. Thông qua
nhại văn chương mục đồng, lối viết lãng mạn chứng tỏ rằng văn học sinh thái Việt Nam vẫn bắt nhịp
với những xu hướng toàn cầu bằng những hình thức mới mẻ, cách tân, hiện đại.
Từ khóa: nhại, phê bình sinh thái, phản lãng mạn, văn học sinh thái Việt Nam
ABSTRACT
In Vietnamese literature after Innovation 1986, there is a trend of writing which offers a different look
at the rural region: anti-romanticism. One of the research directions of ecological criticism is to question
the discourses on the relationship between man and nature such as peasant literature, shepherds,
countryside, romance.v.v. The parody voice becomes dominant with the chords of skepticism,
questions, splendor, and sarcasm. In ecological prose, parody is used as a genre by ecological writers to
provide people with reflections on environmental issues. Through parody of shepherds, romantic
writing, it is proved that Vietnamese ecological literature still catches up with global trends in new,
innovative and modern forms.
Keywords: parody, ecocriticism, anti-romanticism, Vietnamese ecoliterature
1. Dẫn nhập
Nhại (Parody) là một hình thức xuất hiện
từ cổ đại tới nay (từ parodia trong tiếng Hi
Lạp cổ đại) và nhận được nhiều sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu. Nhại được hiểu là sự
cố ý bắt chước phong cách với mục đích gây
cười. Nhại biểu hiện đa dạng cả trong âm
nhạc, hội họa, văn học, điện ảnh.v.v. M.
Bakhtin (1895 – 1975) là người thay đổi
nghiên cứu ngữ văn của thế kỉ XX bằng
những tư tưởng phong phú và độc đáo. Trong
đó, có những nghiên cứu chuyên sâu về nhại.
Cốt lõi trong hệ thống tư tưởng của M.
Bakhtin là nguyên lí đối thoại (dialogizm).
Đối thoại tạo nên giá trị của văn chương
mà biểu hiện rõ rệt nhất ở tiểu thuyết.
Trong tiểu thuyết, bản chất độc thoại của
các thể loại khác dần bị lật đổ thông qua
Email: trananhnguyet5@yahoo.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
16
thủ pháp đa dạng và nhại là một biện pháp
có nhiều ý nghĩa để thể hiện tính đa giọng
đó. Theo Bakhtin, nhại là một kiểu
carnaval hóa. Trong Sáng tác của Francois
Rabelais và văn hóa trào tiếu dân gian,
ông cho rằng có sự thâm nhập của văn hóa
dân gian vào quyền uy “bên cạnh lễ bái
trang nghiêm là (về mặt tổ chức và điệu
thức) còn có các nghi lễ trào tếu, báng bổ
và thóa mạ thần linh, bên cạnh những
huyền thoại trang nghiêm còn có những
huyền thoại trào tếu và chửi rủa, bên cạnh
những anh hùng còn có những hình tượng
song trùng giễu nhại lại chúng” (M.
Bakhtin, 2003, tr.165), điều này khiến nhại
có tính lưỡng trị, vừa phủ định vừa tái sinh.
Trong Những vấn đề thi pháp của
Dostoyevsky, ông cho rằng nhại là nhân tố
không thể thiếu trong mọi loại hình canaval
hóa “phỏng nhại gắn chặt với sự thụ cảm
canaval về thế giới. Phỏng nhại hóa là tạo
ra sự đồng dạng bị hạ bệ, đó cũng là “thế
giới lộn ngược”. Vì vậy, phỏng nhại mang
tính lưỡng tính” (M. Bakhtin, 1998,
tr.139). Ông phân tích lịch sử của phỏng
nhại và cho rằng cuốn tiểu thuyết vĩ đại
nhất thế giới Donquixote của Xervantex
“mang nhiều tính canaval nhất của văn học
thế giới” (M. Bakhtin, 1998, tr.140).
Khơi nguồn từ lí thuyết của M.
Bakhtin, Nguyễn Thị Tịnh Thy cũng nhận
thấy tính chất giải cấu trúc của phê bình
sinh thái (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2013,
tr.25). Phê bình sinh thái truy tìm căn nguyên
lí do khiến cho trái đất lâm vào tình trạng suy
thoái hiện nay. Các nhà phê bình sinh thái cho
rằng chính tư tưởng “duy nhân” thống trị là
căn nguyên của mọi thảm họa môi trường.
Phê phán mặt trái của tư tưởng “nhân loại là
trung tâm” là đặc điểm trọng tâm của khuynh
hướng văn học này. Nguyễn Thị Bình trong
chuyên luận Văn xuôi Việt Nam sau 1975
(Nguyễn Thị Bình, 2012) cho rằng nhại là
thủ pháp, giọng điệu chính của văn xuôi
đương đại. La Khắc Hòa khám phá những
ý nghĩa của nhại làm nên nét riêng của
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài trong
bài viết Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu
hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị
Hoài (Lã Nguyên, 2011). Lê Huy Bắc nhận
ra thủ pháp nhại đặc sắc “Bậc hiền triết –
con chó xồm” hay “nhại” (parody) của
Nguyễn Huy Thiệp (Lê Huy Bắc, 2012).
Luận án tiến sĩ Parody/ Nhại trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại của Phạm Thị
Thu (Phạm Thị Thu, 2016) đã giúp người
đọc có một cái nhìn bao quát về nhại trên
phương diện lí thuyết và phân tích những
hiệu quả của nhại trong văn chương và
khẳng định nhại xuất hiện phổ biến trong
văn học Việt Nam sau năm 1986. Bài viết
này của chúng tôi tìm hiểu nhại trên
phương diện hình thức giễu nhại gắn với
tiếng cười châm biếm và tinh thần hoài
nghi, đồng thời xem nhại như là một thể
loại mà nghệ thuật sinh thái thể nghiệm về
ý thức phản tư trong thời đại khủng hoảng
môi trường.
2. Giọng giễu nhại với những hợp
âm của mỉa mai, hoài nghi
Nhại trước hết được xem là sự cố ý bắt
chước một cách hài hước để châm biếm.
Nguyễn Huy Thiệp được coi là tác giả tiêu
biểu cho giọng điệu giễu nhại hoài nghi.
Ông hoài nghi giáo dục, phỉ báng văn minh
“Dạy cho trẻ con toàn thứ láo khoét” (lời
ông giáo Hội, Chăn trâu cắt cỏ), “học vấn
có điều nguy hiểm là khiến người ta có ảo
tưởng thay đổi bản thân và hoàn cảnh là
điều vốn dĩ không bao giờ làm được” (lời
thầy giáo Doanh, Những người muôn năm
cũ) vì đó là những điều khiến cho con
người trở nên hám lợi, nguồn gốc của tham
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
17
vọng, quyền lực, dối trá, hư hỏng. Như vậy,
điều đó cũng khiến cho con người rời xa
bản tính tự nhiên tốt đẹp. Thương nhớ đồng
quê, Chăn trâu cắt cỏ, Sống dễ lắm, Những
người muôn năm cũ của Nguyễn Huy
Thiệp đi ra ngoài diễn ngôn lãng mạn, từ bỏ
cách nhìn thẩm mĩ hóa thôn dã. Nông thôn
đã vĩnh viễn mất đi bình an, nhân vật chia
tay cái thanh thản của những ảo tưởng
truyền thống, đối diện với đói nghèo, vất vả,
bất an, buồn chán.v.v. Thiềm, một giáo viên
tự nguyện lên miền núi dạy học nhìn cảnh
vật đúng như trong văn chương điền viên
mô tả “Khi chiều về, tiếng mõ trâu lốc cốc
khua vang ở dưới chân núi xa xôi, lẫn lộn
với khói lam chiều” nhưng trước khung
cảnh ấy, anh chỉ cảm thấy “cuộc sống ở
xóm núi trôi đi đơn điệu, buồn tẻ” (Những
người muôn năm cũ); Ông Trụ, một cán bộ
giữ trạm thủy văn nhìn sương phủ trên sông
Đà bằng cách giễu về những hình ảnh đã
thành cổ điển của thơ sơn thủy: “Làn sương
khói lảng vảng lướt trên mặt sông chờn vờn
như ma quỷ nhập làm hoa cả mắt. Đây là
thứ sương khói mà trong thơ Đường Bạch
Cư Dị gọi là “yên ba sầu sát nhân” (Như
sương như khói bay). Ngay cả cách đặt tên
truyện: “giả sơn thủy” (Như sương như khói
bay), “giả mục đồng” (Chăn trâu cắt cỏ),
“nhại lãng mạn” (Những người muôn năm
cũ), Nguyễn Huy Thiệp phản biện lại thói
quen về một không gian thôn dã mĩ lệ,
thanh thản để nhận thức về một thực tại tẻ
nhạt, nỗi cô độc không nơi nương náu của
tâm thức hiện đại.
Tiếp nối cách giễu nhại của Nguyễn
Huy Thiệp, có thể kể đến Đoàn Lê. Chốn
sơn khê đâu còn là nơi ở ẩn, chỗ lánh đời
“dùng bếp dầu, bếp than tổ ong để cướp thời
gian, hỏi bói đâu ra làn khói thơ mộng bảng
lảng vương vít trên mái rạ? Và lũ trẻ trâu
chọi ở đây nghịch hơn lũ giặc dẫu cho ăn
kẹo cũng đố thổi được sáo. Đòi khê với chả
cháy cơ!”. Những sự thật trần trụi của xóm
Chùa được Đoàn Lê viết bằng một giọng
mỉa mai, giễu cợt và chua chát A tourisme
xóm Chùa, Thành Hoàng làng xổ số, Nghĩa
địa xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, Người
khách đêm giao thừa, Sex, Đất xóm Chùa,
Xóm Chùa thời ung thư đã nhận chân xã
hội Việt Nam đương đại bằng niềm âu lo
khắc khoải khi đối diện với đô thị hóa.
Người nông dân li hương ngay chính trên
mảnh đất của mình. Đất đai sản xuất trở
thành các khu công nghiệp. Mất đất sản
xuất, người nông dân trở nên bơ vơ, trở
thành tha nhân trên mảnh ruộng quê
hương. Nhiều căn bệnh ung thư phát sinh vì
khu công nghiệp xây dựng trong khu vực dân
cư. Chưa kể, khi giải tỏa, đất như một tài sản
có giá trị kinh tế dẫn tới cha con, vợ chồng,
anh em tranh giành, đối xử tàn nhẫn, đâm
chém lẫn nhau, không nhìn mặt nhau. Làn
sóng “mưa Âu gió Mĩ” làm đổi thay xã hội
nông nghiệp cổ truyền ngày xưa từng được
Vũ Trọng Phụng viết thành một chuỗi cười
dài trong cuốn tiểu thuyết xuất sắc Số Đỏ
thì nay trong các tác phẩm của mình, Đoàn
Lê đã phản ánh thực tế làn sóng lấy chồng
ngoại quốc biến đổi các cô thôn nữ trở
thành những Tú Bà thời hiện đại. Trong
Trinh tiết xóm Chùa, bà cho thấy hậu quả
của đường dây mại dâm quốc tế dưới vỏ bọc
lấy chồng ngoại quốc, du lịch sinh thái là khi
thanh niên xóm Chùa “khám nghĩa vụ quân
sự mới phát hiện có đến phân nửa thanh niên
dương tính với HIV”. Sau 1986, xã hội đi
vào quỹ đạo phát triển kinh tế, bắt đầu tăng
tốc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đó
kéo theo sự đổi thay của nhịp điệu cuộc
sống, phong tục, xã hội. Trước những biến
đổi ấy, nghệ sĩ ưu tư phản kháng trước tình
trạng thương mại hóa ngày càng cao, phản
ứng lại với những ô hợp đô thị, rất nhiều tác
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
18
giả đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên trong thời đại kinh tế thị
trường phát triển mạnh. Tinh thần ấy được
thể hiện qua hệ thống ngôn ngữ thị dân
nhiều kiểu loại như ở hội hè carnaval.
Nhiều tổ hợp từ suồng sã của đời sống hiện
đại, tiếng lóng văng tục vỉa hè “Thế nhưng
con Khờ dám đung đưa háng với bộ váy xẻ
ngược xẻ xuôi, để lộ đến tận khúc đùi nõn
nà, đập cửa sổ ô tô đánh sầm, rồi điềm
nhiên lắc mông đi vào làng () Cha con
đĩ, thôn triều phục nó coi chẳng khác gì
cửa hàng Karaôkê nhà nó à!”, “tiên nhân
nó! Nó cho mỗi người một tờ tiền âm phủ
đây này”, “nhát tao cho “năm hìu” đánh
con đề số không bảy” (Trinh tiết xóm
Chùa), Dự án “ngon” thế, không “ăn” được
thì chết cho xong (Đất xóm Chùa); chêm
xen từ nước ngoài “Mặt trận cấm chỉ việc
để những tệ nạn xã hội bồng bế nhau về đất
xóm Chùa “ăn theo” cái tua-rít-sì-mờ” (A
tourisme xóm Chùa), “và để giúp thánh
thần của mẹ, con xin cung cấp mọi thông
tin về chất beta endorphin ma túy nội sinh
lẫn ma túy ngoại sinh, điểm cảm thụ tập
trung MUY trong tế bào thần kinh, vân vân
và vân vân” (Mẹ, con và thánh thần); thậm
chí cách đặt tên nhân vật cũng đầy hàm ý
mai mỉa “Nay Khờ lấy tên họ Tàu, gọi là
cô Lầy Lầy, chả biết lầy lội đẹp hơn khờ
khạo chỗ nào”, Sĩ Thái sư, Lão Tí Nghệch
(Trinh tiết xóm Chùa).v.v. Tính carnaval
hóa qua ngôn ngữ chợ búa, hổ lốn, suồng
sã lột tả sống động tính đa tạp của không
gian nông thôn hiện tại đã tiêu tán theo cơn
gió đô thị hóa và ảnh hưởng của áp lực
kinh tế thị trường. Tính chất lưỡng trị vừa
trang nghiêm vừa cười cợt, vừa nghiêm túc
vừa buồn cười của hình thức canaval đã hạ
bệ những gì tưởng như trang nghiêm, mực
thước thành ra phóng túng, đôi khi thô tục
để phản ánh cuộc sống ngổn ngang, đa
diện, phồn tạp. Đoàn Lê đã chạm đến
những vấn đề thời sự đương đại của nền
kinh tế thị trường bằng một phong cách
hiện đại với giọng giễu nhại, lạnh lùng,
chua chát, sắc cạnh có phần đanh đá, chao
chát. Giễu nhại do đó là tiếng cười đầy xót
xa để chia tay những ảo tưởng về đời sống
của tác phẩm viết về thôn dã.
Đi qua đồng chiều (Sương Nguyệt
Minh) giễu nhại lại hành trình trở về nông
thôn trong văn học truyền thống. Thăng là
một chàng thanh niên Việt Kiều từ Úc về
quê thăm người bác họ. Nhưng không như
kì vọng của bố, về quê để nhận ra gốc gác,
để học những bài học thôn quê, hành trình
của Thăng không hề làm nhân vật chính
thay đổi mà chỉ làm sâu sắc hơn chênh lệch
giữa nông thôn và thành thị. Câu nói cửa
miệng của Thăng “Người nhà quê hay
nhỉ?” trước cảnh vật, sinh hoạt nơi thôn dã
là cái nhìn của kẻ khác, đứng từ vị thế của
người bên ngoài. Vẻ đẹp thôn dã của cô gái
nông thôn được miêu tả cũng tước khỏi cái
nhìn lãng mạn, chỉ còn là một sự mỉa mai:
“Bạn chị xinh nhỉ. Người eo tuyệt vời. Con
gái nhà quê, eo đẹp thế là sự lạ. Cái mũi
dọc dừa. Mắt như mắt nai. Xinh lắm!
Nhưng mà tù hãm, đôi mắt đang báo hiệu
một sự tù đọng”. Cái Hương hỏi: “Thăng
nhìn thấy mắt nai ở đâu, đi săn thấy ở rừng
à?” “Không. Em thấy ở trong vườn bách
thú.” “Thế ra Thăng bảo bạn chị như con
nai đẹp bị nhốt trong vườn bách thú, hở?”.
Thậm chí, mái tóc gội đầu thơm hương
bưởi được ca ngợi trong văn thơ lãng mạn
cũng chỉ được cảm nhận bằng một thái độ
thờ ơ, hiếu kì. Vậy nên, hành trình của
Thăng không phải là một hành trình lí
tưởng trở về thôn dã để trưởng thành mà
hành trình của một kẻ thành phố kênh kiệu,
hời hợt về nông thôn với những định kiến
về một vùng nông thôn dã man, tăm tối và
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
19
thất học mông muội lạc hậu cần khai hóa.
Giọng điệu giễu nhại với đặc trưng
hình thức tổng hợp của cả hai tính chất tự
phản tỉnh và liên văn bản trở thành đặc
trưng nổi bật của văn xuôi sinh thái sau
năm 1975. Giễu nhại là cách để gây ra hiệu
ứng ngược. Nó mang hai nghĩa. Hai nghĩa
đó đối chọi nhau, tranh cãi nhau. Điều đó,
giúp thoát khỏi tính độc thoại của sử thi,
đạt đến tính đối thoại đầy tinh thần hiện
đại. Vậy, việc sử dụng hình thức nhại
khiến đối thoại trở nên mạnh mẽ, giọng
điệu, do vậy trở nên đa âm, đa thanh. Giễu
nhại khiến người đọc nhận ra cái “bất ổn”
ở đáy sâu của hiện thực đời sống. Thực
chất, giễu nhại thể hiện một thái độ hoài
nghi sâu sắc. Tác giả nhận ra cần phải kiến
lập một điều gì khác với cái đổ vỡ của mối
quan hệ trong hiện tại nhưng có lẽ chưa
thấy nên tấn công vào cái tồn tại hiện hữu
bằng thái độ phỏng nhại, mỉa mai những
giá trị cũ. Niềm khắc khoải của Nguyễn
Huy Thiệp, Sương Nguyệt Minh, Đoàn
Lê... là cách phản ứng lại với thực tại cay
đắng, u ám, cuộc sống kĩ trị đang xâm
chiếm và ngự trị. Chính áp lực của xã hội
thị trường, cộng hưởng với dư âm chiến
tranh đã khiến con người đang cảm thấy
bất an, mất mát và hoài nghi.
3. Phản lãng mạn - Nhại như một thể
loại
Ở một cấp độ khác, như quan điểm của
Hutcheon “Nhại có thể là một thể loại hơn
là một kĩ thuật” (Dẫn theo Phạm Thị Thu,
2016, tr 16). Hình thức này có thể thấy rõ ở
nghệ thuật sinh thái (eco-art) với những tác
phẩm tác động mạnh mẽ vào giác quan để
tỉnh thức về những tác động của con người
lên môi sinh. Nhiều nghệ sĩ sinh thái đã nói
lên niềm ưu tư với khủng hoảng sinh thái
thời hiện đại bằng lối thể hiện “nhại” lại
các mô thức truyền thống. Trần Tiến dù
hóm hỉnh, pha chút giễu cợt cũng thể hiện
âu lo về sự xâm lấn của các sản phẩm văn
hóa đô thị với nông thôn (Lambada quê
ta). Một loạt tranh biếm họa trên báo Tuổi
trẻ cười về hiện tượng cá chết trên biển
miền Trung, hay cách chế giễu việc phá
rừng phòng hộ để xây dựng sân gofl phục
vụ cho cuộc thi hoa hậu Trái đất đã tấn
công một cách trực diện vào sự bất hợp lí
trong cách đối xử với môi trường. Jeff
Hong mượn hai nhân vật hoạt hình nổi
tiếng của Disney (Hoa Mộc Lan bịt khẩu
trang đi dạo giữa đường phố đầy bụi, Nàng
tiên cá nổi lên giữa vùng biển đầy vết dầu
loang) để đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ
về thảm họa sinh thái (Theo Đậu Dung,
2019). Những họa phẩm đầy chất nghịch dị
của họa sĩ Lê Minh Phong (Hóc, Tiếng hót
cuối cùng, Sông này không phải là sông,
Cha tôi, Ăn một tiếng hót) là những ám
gợi sâu xa cho những ý niệm về môi
trường mà hội họa, một loại hình nghệ
thuật vừa mang tính trực giác vừa giàu ý vị
triết lí với những liên tưởng triết học mang
đến cho độc giả. Nếu như tính trực giác của
nghệ thuật sinh thái mang đến những thông
điệp mạnh mẽ, trực diện thì nhại trong văn
học đưa đến những liên tưởng, tưởng tượng
đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ.
Nhại khiến văn học có khả năng du
nhập vào nó nhiều hình thức ngôn ngữ.
Nhại không chỉ dừng lại ở nhái phong cách
của một tác giả, sử dụng giọng châm biếm,
hoài nghi mà còn nhại thể loại “Thể loại là
một nguyên tắc giao tiếp giữa tác giả và
người đọc, khi làm chiến lược này biến
dạng sẽ tạo ra nhại thể loại” (Phạm Thị
Thu, 2016, tr 104). Ví dụ Don Quijote của
Cervantes là một tác phẩm nhại thể loại
tiểu thuyết hiệp sĩ xuất sắc được ưa chuộng
của Tây Âu thời trung đại, chế giễu những
tàn dư của lí tưởng hiệp sĩ phiêu lưu đã trở
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
20
nên lỗi thời, cứng nhắc và tầm thường. Văn
học Việt Nam sau đổi mới đã chứng kiến
nhiều tác phẩm nhại của Phạm Thị Hoài,
Hồ Anh Thái, Thuận, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Huy Thiệp,
Đoàn Lê khiến cho nhại trở thành một
phương thức rộng rãi. Tuy nhiên, viết về
nông thôn, văn xuôi sinh thái Việt Nam
đương đại xuất hiện những hình thức nhại
làm biến dạng những thể loại mục đồng,
điền viên hay lãng mạn với ý hướng phản
mục đồng, giải huyền thoại, phản lãng
mạn.v.v.
Viết về nông thôn, văn học truyền
thống thường nghiêng về lí tưởng hóa,
thẩm mĩ hóa là nơi yên bình để lánh trú hay
chốn chân quê hiền hòa mà khi thất vọng
về thế sự (trong thơ điền viên) hay mệt mỏi
chốn phồn hoa (trong văn học lãng mạn)
khiến con người muốn trở về. Nhưng đã có
những cách viết xuất hiện sự hoài nghi diễn
ngôn lãng mạn về nông thôn. Phản đề về
khuynh hướng lí tưởng hóa, lãng mạn hóa
nông thôn, vùng hẻo lánh, Henry David
Thoreau cho rằng “văn học đồng quê thực
chất chỉ là sự khắc họa về thôn quê của
những người ngồi trong cánh cửa sổ phòng
khách để nhìn ra” (H. D. Thoreau, 2016,
tr 15). Terry Gifford dựa vào mô hình 3 lớp
của kịch đồng quê: đồng quê (pastoral),
phản đồng quê (anti-pastoral) và hậu đồng
quê (post-pastoral) để nhìn lại về văn học
đồng quê. Ông cho rằng thực chất của cái
nhìn về nông thôn trong văn học thôn dã
truyền thống chủ yếu là đã lí tưởng hóa,
che đậy đời sống khó khăn vất vả. Gifford
cho rằng truyền thống văn học đồng quê
chỉ là “những kiến tạo lí tưởng hóa, làm sai
lệch đời sống nông thôn thông qua việc che
đậy cuộc sống lao động thực tế và đời sống
khó khăn vất vả chốn thôn quê” (Terry
Gifford, 1999, tr 84-85).
Giễu nhại văn chương mục đồng là sự
chất vấn về cách nhìn có phần lí tưởng hóa
về không gian thôn quê đẹp đẽ, nhàn tản,
yên bình. Trong Chăn trâu cắt cỏ (Nguyễn
Huy Thiệp), trước hết, tên truyện dễ khiến
người đọc liên tưởng đến hình tượng đẹp
đẽ về thôn dã thanh bình: Mục đồng thổi
sáo trâu về hết/ Cò trắng từng đôi lượn
xuống đồng (Thiên Trường vãn vọng, Trần
Nhân Tông), kì thực, Nguyễn Huy Thiệp
đang giễu lại nó. Thứ hai là “phản lãng
mạn” qua việc tránh miêu tả cảm xúc:
“Năng không nghĩ ngợi, không xét đoán”,
“Năng thấy lòng mình trống rỗng”. Thứ ba
là “chống mĩ hóa”: đối diện với cảnh vật
“Năng không biết ở đây cảnh đẹp hay
không đẹp”. Không cảm xúc như là một
phản ứng với truyền thống văn chương
thôn dã để bước vào địa hạt gồ ghề của đời
sống với hiện thực t