Nhân cách Nguyễn Công Trứ, nhìn từ quan điểm bản thể luận

Nguyễn Công Trứ là một nhân vật lịch sử văn hóa khá độc đáo so với truyền thống Nho gia Việt Nam. Từ rất sớm, giới nghiên cứu đã nhận ra điều mà họ gọi là “tương phản”, “mâu thuẫn” ở Nguyễn Công Trứ và cố gắng tìm cách mô tả, cắt nghĩa, đánh giá. Tuy nhiên, phương pháp nhận diện và đánh giá này hiện vẫn còn là vấn đề phải tiếp tục xem xét, thảo luận. Phần lớn các mô tả về nhân cách Nguyễn Công Trứ cho đến nay thường lấy các học thuyết triết học- đạo đức Nho- Đạo- Phật làm hệ qui chiếu để phân tích, lý giải. Nhìn từ bất cứ một học thuyết nào, ta cũng dễ thấy Nguyễn Công Trứ không hề là đệ tử thuần thành. Kích thước của tư tưởng và tâm hồn ông rất khó đo đạc bằng các khuôn học thuyết có sẵn, với việc dẫn dụng các loại kinh điển. Trong khi không ít tác giả văn học cố gắng tạo cho mình một khuôn mặt phù hợp với các khuôn mẫu kinh điển thì với Nguyễn Công Trứ, tất cả các khuôn mẫu đều vừa rộng lại vừa hẹp. Dùng các khuôn khổ tư tưởng triết học đạo đức có sẵn để nhận diện Nguyễn luôn khiến chúng ta ngạc nhiên, khó hiểu. Nhưng nếu chúng ta cố gắng sử dụng các nguồn tài liệu thực tế, ví dụ nguồn thông tin đến từ Đại Nam thực lục để dựng lại chân dung nhân cách Nguyễn Công Trứ, có thể kết quả lại khác đi. Mặt khác, các mô tả xưa nay về Nguyễn Công Trứ thường chủ yếu dựa vào sáng tác Nôm của ông, đặc biệt là thơ hát nói mà không có giới thuyết nào về kiểu tư liệu nghiên cứu này. Nhưng ta phải lưu ý rằng, đối với người xưa, bộ phận sáng tác chữ Nôm và bộ phận sáng tác chữ Hán có giá trị bộc lộ tư tưởng khác nhau. Những thể loại thơ ca chữ Nôm trong đó có hát nói, chỉ là phần văn chơi, hay là tục văn học, khác với bộ phận thơ chữ Hán và thơ Đường luật, kể cả Đường luật Nôm, được coi như phương tiện thể hiện tư tưởng có tính chính thức, quan phương. Đối với Nguyễn Công Trứ, việc ông sáng tác chủ yếu bằng thể thơ hát nói có tính cách như một kiểu đối phó với cấm kỵ, nằm ngoài vùng kiểm soát của tư tưởng đạo đức thẩm mĩ chính thống. Do đó, phân tích các sáng tác thuộc mảng này cần hết sức chú ý đến vai trò riêng của chúng. Nếu một sáng tác, như thơ Đường luật bằng chữ Hán (hay Nôm) - cách thể hiện tư tưởng chính thống, lại có tính cách tuyên chiến với tư tưởng đạo đức thẩm mỹ Nho gia thì sáng tác ấy hẳn phải được đánh giá khác so với một sáng tác để chơi, tức là một sáng tác đã được khoác mặt nạ “văn chơi” có điều kiện phát biểu tư tưởng phi chính thống thuận lợi hơn (không ai trách cứ hay “chấp” những sáng tác chơi, sáng tác để cho ả đào hát hoặc đòi hỏi chúng phải nghiêm trang, đạo mạo như một bài thơ Đường luật). Nhưng mặt khác, việc sử dụng một cách hệ thống, có ý thức các thể loại “văn chơi” lại cần được xem như là một chỉ báo quan trọng về tư tưởng đạo đức- thẩm mỹ của tác giả.

docx10 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2067 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân cách Nguyễn Công Trứ, nhìn từ quan điểm bản thể luận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhân cách Nguyễn Công Trứ, nhìn từ quan điểm bản thể luận PGS.TS. Trần Nho Thìn Khoa Văn học, ĐH KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội  Nguyễn Công Trứ là một nhân vật lịch sử văn hóa khá độc đáo so với truyền thống Nho gia Việt Nam. Từ rất sớm, giới nghiên cứu đã nhận ra điều mà họ gọi là “tương phản”, “mâu thuẫn” ở Nguyễn Công Trứ và cố gắng tìm cách mô tả, cắt nghĩa, đánh giá. Tuy nhiên, phương pháp nhận diện và đánh giá này hiện vẫn còn là vấn đề phải tiếp tục xem xét, thảo luận.  Phần lớn các mô tả về nhân cách Nguyễn Công Trứ cho đến nay thường lấy các học thuyết triết học- đạo đức Nho- Đạo- Phật làm hệ qui chiếu để phân tích, lý giải. Nhìn từ bất cứ một học thuyết nào, ta cũng dễ thấy Nguyễn Công Trứ không hề là đệ tử thuần thành. Kích thước của tư tưởng và tâm hồn ông rất khó đo đạc bằng các khuôn học thuyết có sẵn, với việc dẫn dụng các loại kinh điển. Trong khi không ít tác giả văn học cố gắng tạo cho mình một khuôn mặt phù hợp với các khuôn mẫu kinh điển thì với Nguyễn Công Trứ, tất cả các khuôn mẫu đều vừa rộng lại vừa hẹp. Dùng các khuôn khổ tư tưởng triết học đạo đức có sẵn để nhận diện Nguyễn luôn khiến chúng ta ngạc nhiên, khó hiểu. Nhưng nếu chúng ta cố gắng sử dụng các nguồn tài liệu thực tế, ví dụ nguồn thông tin đến từ Đại Nam thực lục để dựng lại chân dung nhân cách Nguyễn Công Trứ, có thể kết quả lại khác đi.  Mặt khác, các mô tả xưa nay về Nguyễn Công Trứ thường chủ yếu dựa vào sáng tác Nôm của ông, đặc biệt là thơ hát nói mà không có giới thuyết nào về kiểu tư liệu nghiên cứu này. Nhưng ta phải lưu ý rằng, đối với người xưa, bộ phận sáng tác chữ Nôm và bộ phận sáng tác chữ Hán có giá trị bộc lộ tư tưởng khác nhau. Những thể loại thơ ca chữ Nôm trong đó có hát nói, chỉ là phần văn chơi, hay là tục văn học, khác với bộ phận thơ chữ Hán và thơ Đường luật, kể cả Đường luật Nôm, được coi như phương tiện thể hiện tư tưởng có tính chính thức, quan phương. Đối với Nguyễn Công Trứ, việc ông sáng tác chủ yếu bằng thể thơ hát nói có tính cách như một kiểu đối phó với cấm kỵ, nằm ngoài vùng kiểm soát của tư tưởng đạo đức thẩm mĩ chính thống. Do đó, phân tích các sáng tác thuộc mảng này cần hết sức chú ý đến vai trò riêng của chúng. Nếu một sáng tác, như thơ Đường luật bằng chữ Hán (hay Nôm) - cách thể hiện tư tưởng chính thống, lại có tính cách tuyên chiến với tư tưởng đạo đức thẩm mỹ Nho gia thì sáng tác ấy hẳn phải được đánh giá khác so với một sáng tác để chơi, tức là một sáng tác đã được khoác mặt nạ “văn chơi” có điều kiện phát biểu tư tưởng phi chính thống thuận lợi hơn (không ai trách cứ hay “chấp” những sáng tác chơi, sáng tác để cho ả đào hát hoặc đòi hỏi chúng phải nghiêm trang, đạo mạo như một bài thơ Đường luật). Nhưng mặt khác, việc sử dụng một cách hệ thống, có ý thức các thể loại “văn chơi” lại cần được xem như là một chỉ báo quan trọng về tư tưởng đạo đức- thẩm mỹ của tác giả.  * Lê Thước là người đầu tiên (năm 1928) nhận thấy mâu thuẫn có vẻ khó hiểu của Nguyễn Công Trứ. Theo ông, đây là nhân vật lịch sử thuộc hàng ngũ vĩ nhân, loại anh hùng hào kiệt. Đã là người xuất chúng, siêu phàm thì hành vi, ngôn luận đều khác thường, nhìn họ bằng con mắt thế tục không thể hiểu được. “Xưa nay những kẻ anh hùng hào kiệt đã có cái tài “xuất chúng” thì thường hay có cái khí “siêu nhân”. Công đâu ăn lẫn với gà, rồng đâu ở vùng nước cạn, đã là người hào kiệt thì quả không chịu lẩn quất trong cái khuôn sáo người thường. Có lẽ cũng vì thế nên trong sự hành vi của cụ Nguyễn Công Trứ, nhiều khi hình như lạ mắt trái tai, mà trong văn chương của cụ cũng lắm khi trái với cái tục kiến của người đời. Tức như ở chùa mà có ả đầu đi theo, thân làm việc đời mà miệng lại thích ngâm vịnh cái cảnh nhàn, khiến người đời sau, xem sử cụ, đọc văn cụ, không sao khám phá được cái tâm sự của cụ” (tr. 493)(1).  Nhà thơ Lưu Trọng Lư (1939) đã nêu rõ đặc điểm của Nguyễn Công Trứ như là người có khả năng “điều hòa” những nhân tố trái ngược. “Thật là một sự điều hòa kì diệu của những cái tương phản nhau: sự điều hòa của mộng với thực, cái ngông cuồng của một kẻ lãng tử, với cái nề nếp của một nho sinh, và cuối cùng là sự điều hòa của thơ văn với Khổng giáo. Nguyễn Du muốn là bạn hoàn toàn của thơ văn đã phải lảng Nho mà theo Phật… Nguyễn Công Trứ vẫn ở trong cái phong khí khắc khổ của Nho mà vẫn khoáng dật thích thảng như một đồ đệ của Lão - Trang. Tiên sinh vừa hành binh, trị nước, vừa ngâm hoa vịnh nguyệt mà cái này không hại đến cái kia” (tr.494). Nhà thơ lãng mạn này cảm thấy luyến tiếc một kiểu nhân cách sống như thế: “Cái thời buổi của những nhà nho tuy vẫn nhọc nhằn cặm cụi với nhân sinh, nhưng cũng là kẻ “bốc giời”, phung phí mà không tiếc tay, những kho tàng của vũ trụ, những kẻ biết sống mà cũng biết chơi, biết làm trọn nghĩa vụ và cũng biết vỗ cái đùi non mà dốc hớp rượu cuối cùng (…). Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như Đức Trọng Ni, ra đời hiền vui như thầy Trang Tử. Không phải chỉ là một thi nhân đáng lưu truyền hậu thế, mà là một quan niệm về nhân sinh đáng truyền bá ra giữa một cuộc đời Âu Tây chật vật” (tr.495). Dẫu sao thì Lưu Trọng Lư đã dùng mô hình Nho gia và Lão Trang để đọc Nguyễn Công Trứ.  Vũ Đình Trác - qua một luận văn Tiến sĩ - chủ trương mở rộng tìm trong các mẫu hình ứng xử của triết gia Trung Hoa những cội nguồn dẫn đến quan niệm sống khác thường của Nguyễn Công Trứ. Trong luận án của ông, ta gặp nhiều học thuyết, nhiều tên tuổi các nhân vật văn hóa trong lịch sử Trung Quốc, ví dụ: “một đàng ông đóng vai trò một nhà Nho đạo mạo với đủ phần trí thức và minh triết, đàng khác ông lại sống đầy đủ nếp sống của một con người tình cảm. Ông không chủ trương khắc khổ như Hàn Phi Tử, mà cũng không theo đường lối phóng tình hay duy tình như Dương Chu. Ông tự phản tỉnh và đi vào đường lối của Tuân Tử hay đường lối của Trung Dung: phát dục cho trúng tiết” (tr.789). Về đời sống tình cảm của Nguyễn Công Trứ, Vũ Đình Trác cũng cố gắng liên hệ với một câu trong sách Trung Dung: “Nhưng đặc biệt là nó khiến ta gợi nhớ tới bầu không khí của sách Trung Dung, khi Thánh nhân viết:“Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ, cập kì chí giả sát hồ thiên địa” = Đạo quân tử mở mối từ vợ chồng, hiểu tới cực đỉnh, sẽ thấu hội cái lí của trời đất muôn vật”. Ông cũng cố gắng liên hệ với phạm trù Lễ của Nho gia: “Tôi cho rằng: Lễ chính là chỗ tương tham của Tình và Lí, Nguyễn Công Trứ đã giữ trọn Lễ vậy” (tr.795). Theo ông, bản chất của phong cách Nguyễn Công Trứ là chấp kỳ lưỡng đoan như tinh thần của Trung Dung. Nói đơn giản, Nguyễn Công Trứ theo triết lý quân bình và triết lý toàn diện, không bao giờ quá khích, không cực đoan.  Nguyễn Lộc (1978) cũng nhận thấy tính chất mâu thuẫn của con người Nguyễn Công Trứ qua thơ văn ông, trong đó có sự tồn tại song song cả Nho và Phật: “Thơ văn Nguyễn Công Trứ bao hàm một nội dung khá phức tạp, kết tinh một trạng thái ý thức của thời đại: vừa ca tụng con người hoạt động, lại vừa ca tụng lối sống hưởng lạc, cầu nhàn; vừa ca tụng Nho giáo lại vừa ca tụng Đạo giáo; vừa lạc quan tin tưởng lại vừa bi quan thất vọng; vừa tự khẳng định mình lại vừa phủ định mình, v.v… Nguyễn Công Trứ là một khối mâu thuẫn lớn” (tr.660). Dường như Trương Chính lại cho cách bình luận tương tự như trên là không thích hợp. Ông yêu cầu nên thấy được sự biến động thay đổi trong tư tưởng của Nguyễn Công Trứ: “Có nhiều người nghiên cứu thơ Nguyễn Công Trứ thấy nội dung khá phức tạp, vừa lạc quan tin tưởng, lại vừa bi quan thất vọng, vừa ca tụng con người hoạt động, lại vừa cầu nhàn, vừa đề cao Nho giáo lại vừa ca tụng Đạo giáo, vừa chê những người theo đạo Phật là “không quân thần phụ tử”, lại vừa ca tụng đạo Phật là trên trời dưới đất không gì bằng, vừa tự khẳng định mình lại vừa tự phủ định mình, v.v... thì cho Nguyễn Công Trứ là một “khối mâu thuẫn lớn”. Như vậy là tách bài ra mà xét, tách thơ và con người làm thơ. Chứ nhìn bao quát, sẽ thấy ngay đó là sự diễn biến từ cực nọ sang cực kia, một sự diễn biến có nguyên nhân rõ ràng, và sự diễn biến ấy là một bằng chứng đanh thép về sự suy sụp của chế độ phong kiến dưới triều Nguyễn bắt đầu từ nửa thế kỉ XIX, đến nửa cuối thế kỉ XIX thì không còn cơ khôi phục lại được nữa” (tr.759). Dẫu là xem xét tư tưởng Nguyễn Công Trứ trong quá trình vận động thì điểm nhìn của Trương Chính vẫn là từ các hệ thống tư tưởng triết học- đạo đức.  Phân tích văn bản thi văn Nguyễn Công Trứ, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu có thể là người đầu tiên đã lưu ý, không có căn cứ để gọi tên tư tưởng Nguyễn Công Trứ là Nho hay là Lão Trang: “Nguyễn Công Trứ là nhà nho nhưng ông không hoàn toàn nho. Ông bàn đến xuất xử, hành tàng như nhà nho nhưng ông có nhiều đam mê, có nhiều dục vọng, muốn có cái thú vui của người lập nên sự nghiệp lừng lẫy mà cũng muốn có cả những thú vui của người nhàn dật mê cảnh núi sông giăng gió. Ông muốn làm “trượng phu kềnh” chứ không phải “đại trượng phu”. Đối với ông, cái gì cũng chưa đủ. Hiếu tĩnh vị năng vong thuỷ thạch, Duy nhàn phi thị học thần tiên. Ông muốn tự sắp xếp cuộc đời hành xong thì tàng, hành để tàng hưởng mọi vui thú. Ông có nhiều ham muốn và sống hết mình. Đó là chỗ ông không thể chịu được sự kiềm chế, sự uốn nắn của Nho giáo. Khát khao tự do làm ông gần Trang Tử. Nhưng thực ra Trang Tử cũng không thành la bàn cho ông đi trong cuộc đời. Là Nho, ông không thể sống theo tài tình, buông thả hành lạc mà là Trang thì lại không thể “vô danh”, “vô công”, “vô kỉ” sống nhàn tuân theo tự nhiên. Sống theo tài theo tình tức là theo cá nhân chính là chỗ mới của ông, không hẳn là Nho mà cũng không hẳn là Trang. Nho hay Trang cũng đều chưa nghĩ đến một con người như vậy có quyền tồn tại trong cuộc sống” (tr.844). Nghĩa là rất khó dùng mẫu hình nhân cách Nho hay Trang để định danh Nguyễn Công Trứ: nhà nghiên cứu định danh cho mẫu hình nhân cách này là nhà nho tài tử. Nói cách khác, mẫu người tài tử này là một dạng thức đặc biệt của con người cá nhân, được xác định bằng “tài” và “tình”. Trong một xã hội đòi hỏi con người yên phận, “Nguyễn Công Trứ muốn phá khuôn khổ và sống tuỳ thích. Ông bước vào mảnh đất của chủ nghĩa cá nhân và ông xây dựng sự tự do cho mình trên mảnh đất ấy” (tr.912).  Cũng một quan điểm tương tự, Trần Ngọc Vương khẳng định tính chất “đa trị” của nhân cách Nguyễn Công Trứ: “Xét cho cùng, đối với người tài tử, tư tưởng Lão Trang hay Phật giáo là những thế năng sống và trong nhiều trường hợp, là những chặng đời chứ không phải là điểm hội tụ, nơi tìm đến cuối cùng. Đã tự giải thoát để trở nên những nghệ sĩ đích thực, cho nên như đối với bất kì nghệ sĩ đích thực nào khác ở mọi thời đại và mọi phương trời, không một triết thuyết nào thỏa mãn bản năng hướng ngoại, cảm quan đời sống đa trị của họ” (tr.865). Cũng phải ghi nhận có nhiều điểm chung trong tất cả các nghiên cứu xưa nay về Nguyễn Công Trứ. Sự đa chiều, cá tính mạnh mẽ khoáng đạt không thể khuôn vào mọi khuôn mẫu có sẵn, chất cá nhân đậm nét, tính tự nhiên trong ứng xử… là những nét đặc trưng của Nguyễn Công Trứ mà hầu hết các “Nguyễn Công Trứ học” đều chẳng hẹn mà gặp gỡ. Nhưng còn có một số cách cắt nghĩa khác nhau về sự độc đáo trong mô hình nhân cách Nguyễn Công Trứ. Không dừng lại ở sự mô tả thuần túy, Trương Tửu (1943) đã vận dụng phép biện chứng duy vật để cắt nghĩa những gì mà giới nghiên cứu từng hình dung là mâu thuẫn, là đặc điểm của anh hùng, hào kiệt. Theo ông, con người là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử- xã hội, nó vận động, biến đổi theo sự biến đổi của lịch sử xã hội. Hành động và quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ là sản phẩm của xã hội. Quan niệm “hành lạc” và “tang bồng hồ thỉ” chính là bắt nguồn từ thái độ chống lại bọn phú hộ giàu có khi ấy đã thành một tầng lớp xã hội do ngoại thương phát đạt. Chống lại bọn phú hộ tất dẫn đến chống lại đồng tiền. Trương Tửu viết: “Quan niệm “cầm kì thi tửu” là một quan niệm tài tử… Người phú hộ chỉ say có một thứ: sự làm việc, chỉ mê có một vật: tiền bạc. Hai quan niệm xung đột nhau như nước với lửa. Cho nên, muốn chống phú hộ, Nguyễn Công Trứ đã dùng đến triết lí hành lạc của phường tài tử. Ông đã ca tụng rượu, đàn, thơ, cờ, giăng, gió. Hơn nữa, ông đã sống đầy đủ, sống nghênh ngang triết lí tài tử, suốt một kiếp người” (tr.524-525). Sự sống bằng giác quan - một nhu cầu của thời đại - đã được tài tử Nguyễn Công Trứ biểu hiện ra ở sự hành lạc mê man tế nhị. Mà trong các cách hành lạc, chỉ có hát ả đào là kích thích đủ các thứ giác quan đang thèm sống. Chỉ có lối chơi ấy là thỏa mãn được con người một cách cầu kì, quý tộc. Sống bằng giác quan, bằng tình dục, bằng các thứ vật chất bác tạp, nhưng vẫn giữ được tính cách quý tộc không lẫn với các đẳng cấp xã hội khác, đó là tất cả nguyện vọng hành lạc của Nguyễn Công Trứ. Và chỉ có sự hát ả đào là giúp ông đạt được ý muốn ấy. Bởi vậy nên Nguyễn Công Trứ thích ả đào, yêu cô đào, lấy cô đào, nhớ cô đào “đối mặt hoa mà cầm, mà kì, mà tửu, mà thi”, mà tận hưởng cuộc sống của giác quan. Ông đã dám ngang nhiên bênh vực sự hát ả đào” (tr.530). Trương Tửu cũng giải thích nguyên nhân của hoạt động xã hội của Nguyễn Công Trứ bằng tinh thần chống bọn “phú hộ” này. Hành lạc chỉ là cách chống tiêu cực, chính nhập thế mới là cách chiến đấu chống phú hộ tích cực. “Phú hộ ra làm quan là để kiếm lợi và đè nén. Còn nho sĩ (Nguyễn Công Trứ) ra làm quan là để thực hiện một lí tưởng, thỏa mãn một chí khí” (tr.534). Từ đây dẫn đến chí nam nhi. Đó là nguồn gốc của hai hành vi tưởng như mâu thuẫn là hành đạo và hành lạc. Từ đây, Trương Tửu khái quát về kiểu nhân cách Nguyễn Công Trứ: “Tính chất ấy là một tính chất hiếu thắng vậy. Người có tính chất ấy là người nuôi một quan niệm cực đoan về nhân sinh: không sống thì thôi đã sống phải “có danh với non sông”, không thi thì thôi đã thi thì phải “miếng khoa giáp ăn xanh phường sĩ tử”, không lập sự nghiệp thì thôi, đã lập thì phải “ba vạn anh hùng đè xuống dưới”. Đó là một người lúc nào cũng muốn làm hơn người, làm khác người, làm những cái lạ mà thiên hạ không ai làm được” (tr.618).  Trần Ngọc Vương cắt nghĩa chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ như là tia hồi quang - sự tiếp biến - của “người anh hùng thời loạn” trong hoàn cảnh chế độ chuyên chế nhà Nguyễn. Vậy là có hai cách cắt nghĩa Nguyễn Công Trứ: một cách dựa vào các yếu tố Nho- Phật- Đạo và một cách dựa vào hiện thực lịch sử chính trị, văn hóa, xã hội. Nhưng trong mỗi hướng cắt nghĩa đó, lại có những quan điểm khác nhau, đưa đến kết quả khác nhau. Một số nhà nghiên cứu ở miền Bắc trước đây (trước 1975) trên lập trường giai cấp thường phê phán “chí nam nhi” của Nguyễn Công Trứ là xa lạ với quần chúng, là biểu hiện “anh hùng cá nhân”, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân (ý nói ông trấn áp các cuộc “khởi nghĩa nông dân”). Nhưng không ít người lại cho mẫu hình nhân cách của Nguyễn Công Trứ là mẫu mực, đạo sống của ông là lý tưởng cho nhân cách Việt Nam.  Vậy nên cắt nghĩa như thế nào để tiệm cận sự thực lịch sử về nhân cách Nguyễn Công Trứ?  * Chúng tôi đã có dịp nói rằng, hầu như không có một tác gia văn học nào thời trung đại lại được chính sử nhắc đến nhiều như Nguyễn Công Trứ trong Đại Nam thực lục. Theo khảo sát của Đinh Văn Niêm, ở Đại Nam thực lục Nguyễn Công Trứ xuất hiện với 261 sự kiện. Nghiên cứu kỹ các sự kiện này, cùng với sự khảo sát văn bản thơ văn Nguyễn Công Trứ có thể cho chúng ta những ánh sáng mới để lý giải mô hình nhân cách Nguyễn Công Trứ.  Nguyễn Công Trứ xuất thân quan văn. Đại Nam thực lục cho ta biết Nguyễn Công Trứ rất giỏi về chữ nghĩa. Chưa rõ vì sao ông đỗ đạt muộn, song trong kỳ thi năm 1819, ông được Giám thí trường thi Hoàng Kim Hoán đánh giá là người khoa mục xuất sắc. Đến tháng 5-1824 ông được bổ làm Thự Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Hai lần, từng làm Chánh chủ khảo trường thi (1840 - Hà Nội, 1847 - Nam Định). Đó là những chức trách thuộc phạm vi của quan văn. Ông cũng từng được bổ nhiệm Hữu Thị lang Bộ Lễ tháng 7-1827- một chức vụ của quan văn. Vậy có thể nghĩ, ông cũng thuộc loại người học giỏi, thiên kinh vạn quyển. Nhưng ông lại hầu như không thể hiện mình trong hoạt động của quan văn. Ông không thành danh trên đường khoa cử, cũng không trổ tài thơ văn như các nhà nho khác, sáng tác để lại thi tập cho con cháu - nói theo nghĩa là sáng tác thi tập Hán văn, một loại sáng tác có tính chất chính thống, dẫu cho tiềm năng trong ông đáng kính nể. Hoạt động xã hội nhiều mặt của ông, chưa kể sáng tác văn thơ bằng chữ Nôm là chủ yếu, khiến chúng ta phải suy nghĩ:  1) các chức trách ông đảm nhiệm trong thời gian dài không có liên quan gì đến văn chương mà ông đã dùi mài, nhưng có ấn tượng mạnh nhất, thành công nhất lại thuộc ngạch võ quan: những nơi khó khăn nhất, phức tạp nhất cả nước hồi ấy về quân sự đều thấy có mặt ông (vùng núi phía Bắc với các cuộc nổi loạn, điển hình là của Nông Văn Vân; các cuộc xâm nhập quấy rối của hải tặc người Hoa ở vùng biển Đông Bắc; thổ phỉ ở Thanh Hóa; vùng biên giới Trấn Tây và Cămpuchia). Tuy có lần bị phạt hay giáng cấp, nhưng tháng 5-1835, nhân đạo quân của ông phục giết được Nông Văn Vân, được vua cho về Kinh ăn mừng, vua ban thưởng nghi thức trọng thể “ôm gối vua”, chính tay vua rót rượu ban cho và dụ: “Nay nghĩ Trứ xuất thân từ quan văn, thế mà ngày ngày làm được việc quân, đến nay đã 3 năm, không quản ngại khó nhọc, kể cũng đáng khen. Vậy chuẩn cho một người con được tập ấm làm Hiệu uý vệ Cẩm y”. Tháng 7/1835, được giữ chức Thượng thư Bộ Binh! Đến năm 1838, Minh Mạng cho dựng “bia võ công” để ghi công những người có nhiều công lao trong quân lữ nhất, 20 người trong đó có Nguyễn Công Trứ được đề nghị ghi tên vào bia này, con của họ được tập ấm.  2) Các hoạt động đa dạng trong lĩnh vực kinh tế: khai hoang, trị thủy (đê sông Hồng); đấu tranh với tệ cường hào ở nông thôn; kiến nghị về quĩ xã thương (dự trữ gạo), về việc cấp tiền dưỡng liêm để chống tham nhũng… cũng được Nguyễn Công Trứ thực hiện đầy tinh thần trách nhiệm, có hiệu quả, dù có những kiến nghị không được vua và đình thần ủng hộ.  Trong mọi lĩnh vực hoạt động, ông đều tỏ rõ sự tinh nhạy, khả năng phát hiện và giải quyết các vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Việc giải quyết những vấn đề này rất xa lạ với công thức “vì dân” hay “đi ngược với lợi ích của dân” mà nhiều nhà nghiên cứu hiện đại từng vận quan điểm giai cấp chật hẹp để đánh giá ông, cũng rất xa lạ với khuôn khổ quan niệm phổ biến của nhà Nho về tu kỷ trị nhân, nội thánh ngoại vương. Có lẽ ngoại trừ bài đối sách trong kỳ thi Hương năm 1819 - kỳ thi ông đã đỗ đầu - là ông có vận dụng kiến thức sách vở nhà Nho (bàn về lòng ái dân, huệ dân, tí dân của bậc vương giả trong lịch sử). Ngoài ra, các diễn ngôn có màu sắc sách vở hầu như không bắt gặp trong thơ văn, trong các bản tấu của ông. Ông liên tục đưa ra các bản tấu, kiến nghị phân tích và nêu hướng giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, thực tế của nước ta trong nửa đầu thế kỷ XIX. Năm 1827, nhân việc có công dẹp loạn Phan Bá Vành, ông được Minh Mạng cho phép có bản tấu nào thì được niêm phong gửi thẳng lên vua. Chẳng hạn, cái tệ hại của bọn cường hào được ông phát hiện rất sắc sảo nhờ ông đi sát thực tế nông thôn. Tháng 9-1827, ông tấu: “Từ trước đến nay, những người bàn việc đều đổ lỗi cho quan lại mà không biết phần nhiều là tại hào cường. Cái hại quan lại là 1, 2 phần 10, cái hại cường hào đến 8, 9 phần 10, bởi vì quan lại là chẳng qua kiếm lợi nhỏ ở giấy tờ, đòi tiền ngoài lệ ở thuế khoá, cái hại gần và nhỏ, việc đã phát lộ, thì giáng cách ngay, rồi cũng biết hối. Còn cái hại hào cường, nó làm con người ta thành mồ côi, vợ người ta thành goá bụa, giết cả tính mạng của người ta, hết cả gia tài của người ta, mà việc không lộ, cho nên cứ công nhiên không kiêng sợ gì. Chỗ nào chúng cũng cùng nhau anh chị, chuyên lợi làm giàu, dối cợt quan lại, để thoả lòng riêng. Có công điền công thổ thì chúng thường thường bày việc thuê mướn làm béo mình, những dân nghèo cùng không kêu vào đâu được. Giáo hoá không thấm xuống dưới, đức trạch không đến khắp nơi, chưa hẳn là không bởi đó. Thậm chí còn ẩn lậu đinh điền, ruộng đến nghìn mẫu không nộp thuế, chỉ đầy túi của hào cường, đinh đến trăm suất không đăng sổ chỉ phục dịch riêng cho hào cường. Nay xin trích lấy một vài người đưa ra pháp luật và bãi lệ thuê mướn ruộng đất công” (chỗ in ngả do chúng tôi nhấn mạnh). Phải lăn lộn tr