Tóm tắt
Thăng Long - Hà Nội có vị trí địa lý và điều kiện thiên nhiên đặc biệt, có nền văn hóa lâu đời, nhiều
làng nghề sản xuất thủ công truyền thống. Ngược dòng thời gian, dưới thời Lý - Trần, Thăng Long là
nơi hội tụ các làng nghề từ khắp mọi miền đất nước đổ về với 13 trại, 61 phường; bước sang thời Lê -
Nguyễn, Thăng Long có 36 phố phường. Những người thợ tài hoa đã mang theo cả gia đình, bạn bè họ
hàng làng xóm lên hành nghề, xây dựng nhà rồi lập phố. Ngày nay, làng nghề/phố nghề Thăng Long
- Hà Nội vẫn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân Hà Nội.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 286 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận diện làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31Số 26 - Tháng 12 - 2018
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1. Sự hình thành làng nghề/phố nghề Thăng
Long - Hà Nội qua khảo cứu tư liệu lịch sử và
những nghiên cứu đương đại
Làng nghề như một gương mặt khác của làng xã nông nghiệp, nó là một bộ phận không thể tách rời và phát triển
song hành cùng với làng xã của người Việt. Sự
ra đời của làng nghề xuất phát từ sự ra đời và
phát triển của các nghề thủ công cùng với tầng
lớp thợ thủ công.
Trong cuốn Sơ khảo lịch sử phát triển thủ
công nghiệp Việt Nam xuất bản năm 1957, tác
giả Phan Gia Bền đã đưa ra khái niệm về thợ
thủ công (thủ công nghiệp cá thể) “là những
người có tiêu chuẩn căn bản sau đây: 1/ Lao
động của họ là chính, có thể có những người
vừa sản xuất hàng hoá để bán, vừa bán sức
lao động đi làm thuê cho người khác; có thể
dùng công nhân trong gia đình để cùng sản
xuất; có thể mướn thêm công nhân (thợ bạn
hoặc thợ học nghề) nhưng chỉ để giúp họ sản
xuất, đại bộ phận thì giờ của thợ thủ công là để
làm công việc sản xuất đó. 2/ Sản phẩm của họ
chủ yếu để bán ra thị trường (không phải làm
để dùng cho bản thân hay cho gia đình, cũng
không phải để làm giúp cho người khác trong
xóm làng trực tiếp tiêu dùng) và đó là nguồn
sống chính của họ” (1, tr.24-25).
Về khái niệm nghề thủ công, Phan Gia Bền
cho rằng: Nghề thủ công gắn liền với nông
nghiệp. Nghề thủ công ở Việt Nam phần lớn
là nghề phụ của nông dân, được làm vào thời
gian rảnh rỗi, hay nói cách khác, nghề thủ công
tại các làng nghề không tách khỏi nông nghiệp,
chưa trở thành nghề độc lập (1, tr.20, 38-40).
Tác giả Nguyễn Huy Phúc viết về thủ công
nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945 đã đưa ra
khái niệm tiểu thủ công nghiệp thời cận đại: “...
bao gồm toàn bộ nền sản xuất các mặt hàng
tiêu dùng phi nông nghiệp truyền thống hoặc
mới du nhập do người Việt Nam tiến hành ở
nông thôn, ở các làng chuyên nghề và các đô
thị, thị trấn, không loại trừ một bộ phận sản xuất
của tư sản công nghiệp nhỏ dân tộc” (3, tr.25).
NHẬN DIỆN LÀNG NGHỀ, PHỐ NGHỀ
THĂNG LONG - HÀ NỘI
ĐINH CÔNG TUẤN
Tóm tắt
Thăng Long - Hà Nội có vị trí địa lý và điều kiện thiên nhiên đặc biệt, có nền văn hóa lâu đời, nhiều
làng nghề sản xuất thủ công truyền thống. Ngược dòng thời gian, dưới thời Lý - Trần, Thăng Long là
nơi hội tụ các làng nghề từ khắp mọi miền đất nước đổ về với 13 trại, 61 phường; bước sang thời Lê -
Nguyễn, Thăng Long có 36 phố phường. Những người thợ tài hoa đã mang theo cả gia đình, bạn bè họ
hàng làng xóm lên hành nghề, xây dựng nhà rồi lập phố. Ngày nay, làng nghề/phố nghề Thăng Long
- Hà Nội vẫn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân Hà Nội.
Từ khóa: Làng nghề, phố nghề, Thăng Long - Hà Nội
Abstract
Thang Long - Hanoi has a special geographical location and natural conditions, with a long-
standing culture, many traditional craft villages. Back to ancient time, under Ly and Tran dynasties,
Thang Long is the convergence of craft villages from all over the country, with 13 camps and 61 wards;
to the Le and Nguyen dynasties, Thang Long had 36 streets. The talented craftsmen brought their
families, neighbors and relatives there to work, built houses and made streets. Today, the handicraft
villages / streets of Thang Long - Hanoi still plays an important role in the life of Hanoi people.
Keywords: Craft villages, craft streets, Thang Long – Hanoi
Số 26 - Tháng 12 - 201832
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Tác giả Dương Bá Vượng đưa ra định nghĩa
về làng nghề như sau: “Làng nghề là một thiết
chế gồm hai bộ phận cấu thành là “làng” và
“nghề”... là làng ở nông thôn có một (hoặc một
số) nghề thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi
nông nghiệp và kinh doanh độc lập...”. Tác giả
này dựa vào tính chất và số lượng nghề để phân
loại làng nghề: Làng một nghề, làng nhiều
nghề, làng nghề truyền thống, làng nghề mới:
“làng nghề truyền thống là những làng nghề
xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử và còn tồn tại
cho đến ngày nay, là những làng nghề đã tồn
tại hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm”
(6, tr.10-15).
Về khái niệm làng nghề, GS. Trần Quốc
Vượng, trong cuốn Văn hóa Việt Nam tìm tòi và
suy ngẫm, đã đưa ra định nghĩa khá đầy đủ như
sau: Theo chúng tôi hiểu gọi là một làng nghề
(như làng gốm Bát Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng,
Hương Canh,... làng đồng (Bưởi, Vó, Hè Nôm,
Thiệu Lý, Phước Kiều...), làng giấy vùng Bưởi,
Dương Ổ,... làng rèn sắt Canh Diễn, Phù Dực, Đa
Hội v.v.) là làng ấy, tuy vẫn có trồng trọt theo lối
tiểu nông và chăn nuôi nhỏ (lợn, gà,...), cũng có
một số nghề phụ khác (đan lát, làm tương, làm
đậu phụ,...) song đã nổi trội một nghề cổ truyền,
tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên
nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ
cấu tổ chức), có ông trùm, có phó cả,... cùng
một số thợ và phó nhỏ, đã làm chuyên tâm có
quy trình công nghệ nhất định, “sinh ư nghệ, tử
ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống
chủ yếu được bằng nghề và sản xuất ra các mặt
hàng thủ công; những mặt hàng này có tính
mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa có
quan hệ tiếp thị (marketing) với một thị trường
là vùng rộng xung quanh và với cả thị trường
đô thị, thủ đô (Kẻ Chợ, Huế, Sài Gòn,...) và tiến
tới mở rộng ra cả nước rồi xuất khẩu ra nước
ngoài (7, tr.372).
Tên gọi Hà Nội được xác lập vào năm Minh
Mạng thứ 11, nhưng vùng đất này đã được hình
thành từ rất lâu đời, dựa trên cơ sở tự nhiên của
vùng đất ngã ba sông Hồng, là trung tâm của
vùng châu thổ sông Hồng. Thế kỷ XV, những
người làm chung một nghề ở các làng quê đã
di cư đến khu vực này và tập trung lại, lập ra các
phường riêng - 36 phường, phía trong phường
là nơi sản xuất còn mặt phố là nơi kinh doanh
buôn bán. Nhưng trước đó, vào năm 1230, nhà
Trần đã hoạch định lại, chia Thăng Long thành
61 phường (8, tr.63).
Theo Đại Nam nhất thống chí, “Hà Nội là
kinh đô xưa, nguyên trước có 36 phố phường,
nay ở quanh phía Đông Nam tỉnh thành có
21 phố, nhà ngói như bát úp, tụ họp các mặt
hàng, nhân vật cũng phồn thịnh” (2, tr.189).
Trong cuốn Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam (1858
- 1945), tác giả Vũ Huy Thúc đã trích dẫn một
học giả người Pháp viết về sự buôn bán hàng
tiểu thủ công ở Hà Nội như sau: “Cứ 6 ngày có
một phiên chợ tại Hà Nội, người buôn bán và
thợ thủ công ở thôn quê kéo về, người bán tơ
lụa thì vào phố Hàng Đào, thợ đan kéo vào phố
Hàng Đồng, thợ làm nón vào phố Hàng Nón...”
(3). Trong cuốn Làng nghề, phố nghề Thăng
Long - Hà Nội của GS. Trần Quốc Vượng và PGS.
TS. Đỗ Thị Hảo đã ghi rằng: “Người dân buôn
bán ở khu vực 36 phố phường xưa khi lên kinh
đô lập nghiệp đã rước Thành hoàng làng nơi
quê gốc lên kinh đô, lập ra hệ thống đình - đền
- chùa ở các phường phố” (8, tr.79).
Với vị trí địa lý giao thương thuận lợi, hay
nhu cầu của thị trường trong hoàn cảnh lịch sử
nhất định, nghề phụ trong nông nghiệp đã trở
thành nguồn thu nhập chủ yếu của người dân,
một số làng đã trở thành làng nghề mang tính
chuyên biệt và khi hội tụ ở kinh đô Thăng Long,
các làng nghề đã tạo lập những phố nghề.
2. Một số làng nghề/phố nghề tiêu biểu ở
Thăng Long - Hà Nội
* Phố Hàng Bạc và nghề kim hoàn: Hàng Bạc
là một con phố nằm ở quận Hoàn Kiếm, thuộc
không gian của khu phố cổ Hà Nội. Trước năm
1945, phố Hàng Bạc có ba nghề khác nhau đó
là nghề đúc bạc nén, nghề kim hoàn và nghề
đổi tiền. Có thể coi Hàng Bạc là nơi tập trung
những người thợ tinh xảo về kỹ thuật chế tác
đồ vàng bạc của đất kinh kỳ. Trong truyền
thống, thợ thủ công đều xuất thân từ ba làng
nghề vàng bạc nổi tiếng ở miền Bắc Việt Nam,
đó là Định Công (Hà Nội), Đồng Xâm (Thái Bình)
và đến cuối thế kỷ XV một số người làng Châu
Khê (Hải Dương) cũng kéo nhau ra mở xưởng
đúc tiền, làm cho phường vàng bạc càng trở
nên nhộn nhịp.
Ở kinh đô Thăng Long trước đây, làng Định
Công Thượng là cơ sở phục vụ vàng bạc sớm
33Số 26 - Tháng 12 - 2018
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nhất cho kinh thành Thăng Long. Dân gian kể
lại rằng, vào cuối thế kỷ VI, ở làng Định Công
có ba anh em họ Trần là Trần Hòa, Trần Điện và
Trần Điền, do nghèo khổ dưới ách thống trị của
nhà Đường, anh em họ Trần phải tha phương
cầu thực tới một nước láng giềng, rồi từ đó
họ học được nghề kim hoàn. Khi trở về quê
hương, họ truyền nghề cho dân làng. Sau này,
làng Định Công có nghề truyền thống vàng
bạc phục vụ thị trường ở Thăng Long. Từ thế kỷ
XVIII, XIX, khi nền kinh tế Thăng Long - Hà Nội
ngày một phát triển cao, những nghệ nhân này
mới chuyển dần lên Thăng Long hành nghề ở
khu phố Hàng Bạc ngày nay.
Từ thế kỷ XV, khi ngành luyện kim ở nước
ta tiến bộ, nghề đúc bạc nén bước vào giai
đoạn mới, thoát thai từ làng Châu Khê (xã Thúc
Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương).
Dân gian kể lại rằng, dưới thời Lê Thánh Tông
(1460-1497), trong làng này có ông Lưu Xuân
Tín được vua cho phép lập nên một tràng đúc
bạc và tiền ở Thăng Long, sau đó làm tới chức
Thượng thư Bộ Lại, rồi được tôn làm thủy tổ của
nghề đúc bạc. Về sau, người làng ông ra Thăng
Long hành nghề ngày càng đông. Phố Hàng
Bạc được thành lập từ đó. Họ đã xây dựng nên
các tràng đúc bạc (nay là 58 phố Hàng Bạc) làm
nơi sản xuất. Hai ngôi đình: Thượng Đình (số
50 Hàng Bạc) và Kim Ngân Đình (số 42 Hàng
Bạc) là nơi giao nộp thành phẩm cho nhà nước
đương thời.
Theo thời gian, phố Hàng Bạc còn có thêm
một số nghệ nhân người làng Đồng Xâm (xã
Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình)
đến đây làm ăn sinh sống, với sở trường chạm
trổ những đồ vật lớn bằng bạc như hộp trầu,
chén bát đĩa, đỉnh, lư đèn,
Ngày nay, với đồ nghề thủ công, người thợ
kim hoàn ở phố Hàng Bạc đã làm ra nhiều sản
phẩm vàng bạc tinh xảo, nhất là đồ trang sức.
Người thợ kim hoàn ở Hàng Bạc thường chạm
khắc trên đồ vàng bạc theo các mẫu trang
trí nhất định, trong đó, “tứ linh” (long, ly, quy,
phượng) là mẫu phổ biến nhất. Riêng hình
tượng long (rồng) đã được bàn tay khéo léo
của nghệ nhân thể hiện với nhiều chủ đề khác
nhau: long hàm thọ (long ngậm chữ thọ), lưỡng
long tranh châu (hai con rồng tranh viên ngọc),
lưỡng long chầu nguyệt (hai con rồng chầu
mặt trăng) cùng với các mẫu trang trí khác như:
bát vật (tám con vật), bát bảo (tám vật quý), bát
quả (tám loại trái cây), cũng được chạm khắc
tinh xảo trên đĩa, mâm bằng vàng, bạc. Trên các
đồ vàng, bạc, có thể thấy người thợ kim hoàn
chạm trổ hình ảnh con người, hoặc các loại cây,
hoa mà theo quan niệm phương Đông thì đó là
tượng trưng cho những phẩm chất cao quý của
người quân tử: tùng, trúc, cúc, mai,
Ngày nay, có thể thấy nghề buôn bán trao
đổi vàng bạc không chỉ còn tập trung ở phố
Hàng Bạc mà trên nhiều phố khác, cũng rải rác
có các cửa hiệu buôn bán vàng, nhưng Hàng
Bạc vẫn là nơi tập trung những người thợ kim
hoàn tinh xảo với truyền thống chế tác đồ
vàng, bạc.
* Làng đúc đồng Ngũ Xã: Từ xưa, người dân
Thăng Long đã biết đến câu: “Lĩnh hoa Yên Thái,
đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng
Ngũ Xã”. Ngũ Xã vốn là một làng nằm bên bờ
hồ Trúc Bạch, phía tây của Thăng Long - Hà Nội.
Sử sách ghi lại rằng, vào khoảng thời Lê (1428
- 1527), dân 5 làng Đông Mai, Châu Mỹ, Long
Thượng, Điện Tiền và Đào Viên (mà tên Nôm là
các làng Hè, Rồng, Dí Thượng, Dí Hạ,) thuộc
huyện Văn Lâm (Hưng Yên) và Thuận Thành
(Bắc Ninh), vốn có nghề đúc đồng đã về kinh
thành để lập trường đúc tiền và đồ thờ. Tại đây,
họ đã sinh cơ lập nghiệp và tạo dựng làng mới
trên đất Thăng Long nên mới lấy tên Ngũ Xã để
ghi nhớ 5 làng quê gốc của mình. Về sau, những
người thợ thủ công ở Ngũ Xã tổ chức thành
phường nghề riêng, gọi là phường đúc đồng
Ngũ Xã, nay là phố Ngũ Xã nằm ở phía đông hồ
Trúc Bạch, thuộc quận Ba Đình. Trước đây, nghề
đúc đồng Ngũ Xã đã được coi là một trong bốn
nghề tinh hoa bậc cao của Thăng Long. Hiện
nay, làng nghề vẫn còn tồn tại và là nơi sản
sinh ra nhiều sản phẩm đẹp thể hiện tài hoa
của người thợ nghề vùng đất kinh kỳ. Ngoài sự
thông minh sáng tạo, cái nhìn chuẩn xác, bàn
tay khéo léo, người thợ thủ công Ngũ Xã còn
có bí quyết nghề nghiệp và kinh nghiệm lâu
đời. Sản phẩm đồ đồng Ngũ Xã nổi tiếng khắp
nơi, trong đó nổi bật là pho tượng Phật Di Đà
ở chùa Thần Quang tại làng Ngũ Xã ngày nay.
Đây là một tác phẩm nghệ thuật bằng chất liệu
đồng rất độc đáo và tinh tế. Bên cạnh đó, thợ
đúc đồng Ngũ Xã còn tạo ra nhiều tác phẩm
Số 26 - Tháng 12 - 201834
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
khác rất nổi tiếng như: Pho tượng đồng Trấn
Vũ hay còn gọi là tượng Huyền Thiên Trấn Vũ
ở đền Quán Thánh, chuông chùa Một Cột (Hà
Nội). Ngoài ra, những đồ thờ bằng đồng như
lư hương, chân đèn, hạc, vạc, được nhiều nơi
trong cả nước đánh giá cao. Trải qua thời gian
lịch sử, đến nay, làng đúc đồng Ngũ Xã có các
gia đình làm nghề đúc đồng với những mặt
hàng thủ công mỹ nghệ như: Lư đồng, mâm
đồng, chuông đồng, với kích thước nhỏ,
trong đó một phần phục vụ nhu cầu mua hàng
lưu niệm của du khách nước ngoài khi đến với
Thủ đô Hà Nội.
* Làng giấy Yên (An) Thái: Nằm ở phía tây
Hà Nội, làng này còn có tên là làng Bưởi. Theo
các tài liệu còn lưu lại đến ngày nay, nghề làm
giấy đã có ở nước ta từ lâu đời. Năm 284, một
thương nhân La Mã đã mua của Giao Chỉ hàng
vạn tờ giấy Mật Hương, một loại giấy thơm, để
dâng lên vua Tấn Võ Đế. Một học giả người Hoa
là Kê Hàm cũng đã xác nhận giấy Mật Hương
của Giao Chỉ làm bằng gỗ trầm thơm, màu
trắng, có vân vảy cá, thả vào nước không nát.
Cho đến khi nhà nước Đại Việt ra đời và định
đô ở Thăng Long thì nghề này ở làng Yên Thái
đã phát triển mạnh. Giấy dó Yên Thái đã từng là
mặt hàng triều cống cho triều đình nhà Tống
dưới đời vua Lý Cao Tông (1176 - 1210). Trong
sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết năm 1435
đã nói đến nghề làm giấy của làng này. Ngay
từ thời đó, người thợ thủ công ở đây đã làm ra
những loại giấy đặc biệt cho triều đình phong
kiến như giấy thị (để viết chỉ thị), giấy lệnh
(để ghi mệnh lệnh), giấy sắc (để ban sắc chỉ).
Những sản phẩm chủ yếu của Yên Thái là giấy
bản để in sách hoặc để viết chữ Nho (bằng bút
lông, mực tầu) và giấy dó (để in tranh dân gian).
Giấy dó Yên Thái có đặc tính xốp nhẹ, bền dai,
không nhòe khi viết, vẽ. Nó ít bị mối mọt hoặc
giòn, gẫy, ẩm, nát. Giấy dó Yên Thái có giai đoạn
đã được xuất khẩu sang nhiều nước. Thời Pháp
thuộc, các họa sĩ Pháp đã sử dụng giấy dó khổ
lớn để vẽ tranh bằng mực Tàu theo phương
pháp tranh cổ điển phương Đông. Bên cạnh
đó, một vài bảo tàng châu Âu cũng đã dùng
giấy dó để lót bồi phía sau tranh vẽ. Với đặc tính
chống ẩm rất cao, giấy dó giúp cho tác phẩm
nghệ thuật không bị ẩm mốc. Tuy nhiên, trong
thời gian gần đây, trước sự lấn át mạnh mẽ của
công nghệ làm giấy, nghề làm giấy ở Yên Thái
đã bị mai một và hiện không còn gia đình nào
làm nghề này.
* Tranh Hàng Trống: Tranh Hàng Trống là
một trong những dòng tranh dân gian Việt
Nam được làm chủ yếu tại phố Hàng Nón,
Hàng Trống của Thăng Long xưa. Tranh Hàng
Trống có hai dòng chính là tranh thờ và tranh
Tết, nhưng chủ yếu vẫn là tranh thờ dùng trong
sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo bản địa tại các
đền, phủ của Đạo giáo như: tranh thờ của Đạo
Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Dầy, Nam Định),
tranh Tứ Phủ công đồng, bà Chúa Thượng Ngàn,
Mẫu Thoải, Ngũ Hổ, Ông Hoàng cưỡi cá, cưỡi
ngựa, cưỡi rắn, ông Hoàng Mười, bà Chúa Ba,
Đức Thánh Trần, Tranh Tết gồm tranh chúc
phúc, tứ quý, Các nhà nghiên cứu văn hóa
và nghệ thuật học đều cho rằng, dòng tranh
Hàng Trống xuất hiện từ khoảng 400 năm trước
đây và chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư
tưởng, văn hoá, tôn giáo của các vùng miền, cư
dân, là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa
Phật giáo, Nho giáo, giữa loại hình tượng thờ,
điêu khắc ở đình, chùa với những nét đẹp trong
sinh hoạt văn hoá dân gian. Hiện nay, tại Hà Nội
còn duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên và
con trai của ông (hiện đang sinh sống số nhà
22A phố Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm) còn làm
nghề tranh truyền thống. Ông Lê Đình Nghiên
thuộc thế hệ thứ ba của một gia đình vốn có
truyền thống làm nghề tranh ở làng Bình Vọng,
Thường Tín (Hà Tây cũ) nhưng đã lên lập nghiệp
ở phố Hàng Trống (Hà Nội). Cụ Lê Xuân Quế,
ông nội nghệ nhân Lê Đình Nghiên, khi xưa đã
làm nghề tranh, cha của nghệ nhân Nghiên là
cụ Lê Đình Liệu tiếp nối, đến ông Nghiên, cả
nhà có 7 anh chị em nhưng chỉ có một mình
ông theo được nghề tranh gia truyền.
* Làng gốm Bát Tràng: Bát Tràng là một làng
nghề nổi tiếng có lịch sử làm nghề gốm hơn
500 năm. Ngôi làng nằm bên tả ngạn sông
Hồng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10km,
trước đây thuộc tỉnh Bắc Ninh nay thuộc huyện
Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Làng gốm Bát
Tràng từ lâu đã nổi tiếng với sản phẩm gốm
mang tên chính ngôi làng này. Sản phẩm của
làng gốm Bát Tràng, từ khi ra đời, đã được các
bậc vương giả quyền quý ở kinh thành Thăng
Long cho đến nông phu chân lấm tay bùn ở
thôn quê đều ưa chuộng. Không những thế,
35Số 26 - Tháng 12 - 2018
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nhiều đồ gia dụng thường ngày ở Bát Tràng
còn vượt qua biên giới đất Việt. Từ thế kỷ XV, đồ
gốm Bát Tràng có mặt trong lễ vật triều cống
cho các hoàng đế Trung Hoa - nơi có truyền
thống làm gốm sứ từ hàng ngàn năm trước và
nổi tiếng khắp thế giới. Từ đó về sau, thời đại
nào, dù suy hay thịnh, thì làng gốm Bát Tràng
vẫn khẳng định giá trị hàng hoá của mình,
nghề gốm vẫn trụ vững và vượt qua mọi thử
thách. Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng được xuất
khẩu sang nhiều nước trên thế giới như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Mỹ và các nước trong khối EU.
Nhiều sản phẩm gốm cổ Bát Tràng đang được
lưu trữ tại một số viện bảo tàng lớn trên thế
giới. Bát Tràng hiện nay không chỉ là một làng
nghề sản xuất thuần tuý, với nhiều công trình
tín ngưỡng, văn hoá cùng sản phẩm gốm nổi
tiếng, ngôi làng còn trở thành một điểm đến
du lịch hấp dẫn của Thành phố Hà Nội.
3. Sự dịch chuyển không gian làng nghề/
phố nghề Thăng Long - Hà Nội
Các phố nghề ở Thăng Long - Hà Nội hình
thành do cư dân của một số làng ở các vùng lân
cận, những người thợ thủ công tài hoa mang
nghề đặc sắc từ quê hương lên kinh thành làm
ăn, sinh sống. Việc hình thành và phát triển các
phố nghề ở Thăng Long - Hà Nội đã tạo sự biến
đổi văn hóa từ làng nghề sang phố nghề một
cách mạnh mẽ. Đó là sự biến đổi quan niệm về
nghề nghiệp, do việc mở cửa hàng ở các phố
nghề ngày càng nhiều, sản phẩm bán được
nhiều, thúc đẩy sự phát triển của nghề ở các
làng nghề nên người làm nghề đã tập trung
vào sản xuất sản phẩm mang tính chuyên môn
hóa cao. Sau khi lên phố bán hàng, người thợ
thủ công đã tạo lập ra các phường, hội liên kết
với nhau và hình thành ra các mối quan hệ xã
hội đan xen: chủ và khách, chủ và thợ, chủ và
chủ... Mặt khác do cuộc sống tất bật, hối hả
của phố nghề nên quan hệ truyền thống như:
Láng giềng, huyết thống dòng họ, gia đình
cũng có sự thay đổi nhất định... Văn hóa ứng xử
của người thợ từ làng ra phố đã thay đổi theo
chiều hướng mở, vừa mang tính truyền thống
của làng quê, vừa mang tính hiện đại của phố
phường.
Có thể nhận thấy, trong lịch sử phát triển,
làng nghề/phố nghề Thăng Long - Hà Nội đã
có đóng góp to lớn vào sự phát triển toàn diện
kinh đô, đặc biệt là kinh tế, nhờ có các phố
nghề vừa sản xuất vừa buôn bán đã thúc đẩy
nền kinh tế Thăng Long, từ chỗ phát triển tự
phát đến phát triển tự giác, có kế hoạch. Phố
nghề Thăng Long - Hà Nội không chỉ góp phần
quan trọng trong sự phát triển kinh tế mà còn
để lại những di sản văn hóa có giá trị, tiêu biểu
là các công trình kiến trúc nhà ở dân dụng, đền
chùa, đình miếu... Kiểu kiến trúc phổ biến ở
các phố nghề là những dãy nhà xây theo kiểu
chồng diêm san sát nhau, vừa là nhà ở, lại vừa là
cửa hiệu bán hàng, lòng hẹp và sâu vào trong,
chia làm nhiều phòng rộng, mỗi phòng được
ngăn cách với nhau bởi một khoảng sân. Đây
là kiểu kiến trúc nhà ở đặc trưng của phố nghề
Thăng Long vẫn