Tóm tắt
Công chúng nghệ thuật là những cá nhân, nhóm xã hội hoặc cộng đồng những người thưởng thức
các tác phẩm nghệ thuật. Họ thường được chia thành nhiều nhóm, theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp,
trình độ học vấn, vùng/miền, khả năng kinh tế Công chúng là cái đích để tác giả hướng tới mà sáng
tạo, là người quyết định sự tồn vong của tác phẩm nghệ thuật, thậm chí cả sự tồn vong của tác giả
với tư cách nghệ sĩ. Tuy nhiên, chỉ bộ phận công chúng nào chi tiền để thưởng thức nghệ thuật thì mới
có tác động định hướng phát triển nghệ thuật. Hiện nay ở Việt Nam, bộ phận công chúng chi phối thị
trường nghệ thuật là nhóm những người trẻ, có trình độ học vấn THPT hoặc đại học, là công chức nhà
nước hoặc chưa đi làm, và có mức sống trung bình. Tuy nhiên, năng lực cảm thụ nghệ thuật của nhóm
công chúng này hiện nay còn hạn chế.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận diện nhóm công chúng chi phối nghệ thuật Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 32 (Tháng 6 - 2020)58
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
NHẬN DIỆN NHÓM CÔNG CHÚNG
CHI PHỐI NGHỆ THUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
ĐINH THỊ VÂN CHI*
Tóm tắt
Công chúng nghệ thuật là những cá nhân, nhóm xã hội hoặc cộng đồng những người thưởng thức
các tác phẩm nghệ thuật. Họ thường được chia thành nhiều nhóm, theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp,
trình độ học vấn, vùng/miền, khả năng kinh tế Công chúng là cái đích để tác giả hướng tới mà sáng
tạo, là người quyết định sự tồn vong của tác phẩm nghệ thuật, thậm chí cả sự tồn vong của tác giả
với tư cách nghệ sĩ. Tuy nhiên, chỉ bộ phận công chúng nào chi tiền để thưởng thức nghệ thuật thì mới
có tác động định hướng phát triển nghệ thuật. Hiện nay ở Việt Nam, bộ phận công chúng chi phối thị
trường nghệ thuật là nhóm những người trẻ, có trình độ học vấn THPT hoặc đại học, là công chức nhà
nước hoặc chưa đi làm, và có mức sống trung bình. Tuy nhiên, năng lực cảm thụ nghệ thuật của nhóm
công chúng này hiện nay còn hạn chế.
Từ khóa: Công chúng nghệ thuật, khách hàng, thị trường nghệ thuật
Abstract
The public group of art is individuals, social groups or communities who enjoy artworks. They are
often divided into groups, by age, profession, educational level, region/local, economic capability...
Art public is the destination for the author to create, to be the one who determine the existence of art
works, even the author’s existence as an artist. However, only the part of the public who spends money
to enjoy art will have an impact on the direction of artistic development. In Vietnam today, the public
sector that dominates the art market is a group of young people who have a high school or university
education level, are civil servants or have not worked, and have an average living standard. However,
the ability to perceive art of this public group is currently limited.
Keywords: Public group of Art, customers, art market
1. Công chúng nghệ thuật
Công chúng nghệ thuật là những cá nhân, nhóm xã hội hoặc cộng đồng những người thưởng thức
các tác phẩm nghệ thuật. Với sân khấu, điện
ảnh, truyền hình - đó là khán giả; với hội họa,
nhiếp ảnh - đó là người xem; với âm nhạc - đó
là người nghe (thính giả); với xuất bản - đó là
người đọc (độc giả)
Công chúng thưởng thức nghệ thuật
từ khi ra đời cho tới khi trở về với đất mẹ.
Thậm chí khoa học “Thai giáo” ngày nay còn
khuyến khích các bà mẹ cho con của mình
tiếp cận với nghệ thuật ngay từ khi còn trong
bụng mẹ, nên ngay khi chưa ra đời, các thai
nhi đã được mẹ cho nghe nhạc, được cùng
mẹ ca hát, vui múa vận động Trong suốt
cuộc đời, mỗi người đều có những sở thích
nghệ thuật, có những hoạt động thưởng
thức nghệ thuật thường xuyên, như nghe
nhạc, xem TV, xem phim, đọc sách Cho tận
* PGS.TS, Khoa Gia đình và Công tác xã hội,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
59Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
đến khi đã qua đời, con người vẫn được đưa
tiễn khỏi cõi trần gian bằng những bản nhạc
tiếc thương, đau xót.
Phần lớn trong chúng ta, ai cũng là công
chúng của ít nhất một môn nghệ thuật nào
đó, còn thông thường sẽ là công chúng của
nhiều môn nghệ thuật cùng lúc. Ai ai cũng
là công chúng, nên công chúng nghệ thuật
rất đa dạng, rất khác biệt. Công chúng nghệ
thuật thường được chia thành nhiều nhóm,
theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp, trình độ học
vấn, vùng/miền, khả năng kinh tế Mỗi nhóm
công chúng sẽ có sở thích nghệ thuật khác
nhau, thị hiếu thẩm mỹ khác nhau, mục đích
thưởng thức khác nhau, v.v.
2. Mối quan hệ Tác giả - Tác phẩm - Công
chúng
Công chúng là một trong ba nhân tố quan
trọng, mang tính quyết định đời sống nghệ
thuật của một cộng đồng. Ba nhân tố Tác giả
- Tác phẩm - Công chúng nằm trong mối quan
hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau, tác động lẫn
nhau, hỗ trợ lẫn nhau một cách biện chứng,
tạo nên thế chân kiềng vững chắc, bảo đảm
sự tồn tại và sự vận hành của đời sống nghệ
thuật của xã hội. Có người gọi thế chân kiềng
Tác giả - Tác phẩm - Công chúng là “cái tam vị”
của nghệ thuật. Dù sử dụng thuật ngữ nào,
cách diễn tả nào, thì bản chất của vấn đề vẫn
là: Ba nhân tố này ngang bằng nhau về vai trò
trong việc tạo dựng nên đời sống nghệ thuật
của cộng đồng.
Tác giả, khi sáng tạo một tác phẩm, trước
hết là giải phóng nguồn năng lượng sáng tạo
nội tại, thăng hoa những cảm xúc nghệ thuật
trong tâm hồn, thể hiện những thông điệp và
gửi gắm những tình cảm của mình bằng ngôn
ngữ nghệ thuật. Bên cạnh đó, những nhu cầu
cuộc sống của tác giả tạo sự thúc bách, tác
động tới quá trình sáng tác, ghi dấu vào tác
phẩm, khiến cho nó vừa là sản phẩm của sự
sáng tạo, vừa là kết quả của những thúc bách
đời thường.
Nếu tác phẩm được công chúng đón nhận,
thì công chúng là người đáp ứng cả những
mơ ước bay bổng và những nhu cầu thực tại
của tác giả. Họ là người chia sẻ cảm xúc và tư
tưởng với tác giả, nuôi dưỡng tâm hồn tác giả;
sự yêu mến, ủng hộ của công chúng làm nên
danh tiếng cho tác giả; không những thế, công
chúng còn là người tạo thu nhập để nuôi sống
tác giả. Nghĩa là, được công chúng ủng hộ thì
tác giả đạt được tất cả.
Ngược lại, công chúng chờ đợi ở tác giả
những món ăn tinh thần đáp ứng nhu cầu của
họ. Nếu những món ăn - tác phẩm nghệ thuật
- có giá trị, có chất lượng, thì sẽ nuôi dưỡng
tâm hồn và cảm xúc của họ, truyền thụ cho
họ những tri thức mới mẻ, nâng tầm hiểu biết
nghệ thuật của họ, làm giàu năng lực thẩm mỹ
và điều chỉnh thị hiếu nghệ thuật của họ.
Mối quan hệ ràng buộc và tương hỗ chặt
chẽ này khiến cho Tác giả - Tác phẩm - Công
chúng trở thành bộ ba gắn bó khăng khít,
không thể tách rời. Công chúng là cái đích để
tác giả hướng tới mà sáng tạo; công chúng là
người quyết định sự tồn vong của tác phẩm
nghệ thuật, thậm chí cả sự tồn vong của tác
giả với tư cách nghệ sĩ.
Nhưng, bởi công chúng rất khác biệt theo
các nhóm xã hội, nên không thể có một công
chúng chung chung, hư ảo, mà sẽ là những
nhóm công chúng có những đặc điểm nhân
khẩu xã hội khác nhau, có sở thích và thị hiếu
khác nhau, có năng lực tiếp nhận nghệ thuật
khác nhau. Những nhóm công chúng đó có sự
yêu thích đối với những dạng tác giả và những
thể loại tác phẩm khác nhau. Đồng thời, mỗi
tác giả cũng có những công chúng “ruột”,
những fan hâm mộ của mình, những người
luôn chờ đợi các tác phẩm của họ. Tác giả sẽ
sáng tạo các tác phẩm dành cho công chúng
của mình. Bởi vậy có thể nói, tác giả nào thì
tác phẩm ấy và công chúng ấy. Ngược lại, công
chúng nào thì tác phẩm ấy và tác giả ấy. Không
thể có một tác giả (cũng như một tác phẩm)
Số 32 (Tháng 6 - 2020)60
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
vừa lòng tất cả mọi nhóm công chúng, được
tất cả công chúng ưa thích và đánh giá cao.
Bởi thế, tác giả sẽ sáng tác các tác phẩm
dành cho đối tượng công chúng của mình -
những người yêu thích và ủng hộ anh ta, sẵn
sàng chi tiền để thưởng thức các tác phẩm của
anh ta, chứ không thể sáng tác phục vụ mọi
đối tượng công chúng được. Mỗi tác giả sẽ đều
có công chúng mục tiêu mà mình nhắm tới.
Ở chiều ngược lại, tác giả sẽ lắng nghe công
chúng của mình, điều chỉnh các tác phẩm của
mình cho phù hợp với họ, thậm chí điều chỉnh
cả phong cách nghệ thuật của mình để công
chúng “ruột” hài lòng hơn. Hiện tượng này
được gọi là “chiều công chúng” hoặc “chiều
theo thị hiếu công chúng”.
Công chúng có tác động mạnh mẽ, đôi khi
là quyết định tới sức sáng tạo, xu hướng sáng
tạo, phong cách sáng tạo của tác giả. Nhưng
không phải tất cả mọi nhóm công chúng đều có
tác động như nhau, mà chỉ nhóm công chúng
nào chịu chi tiền để thưởng thức tác phẩm thì
mới có được sức mạnh chi phối đó. Còn những
nhóm công chúng (dù yêu thích tác giả và tác
phẩm) nhưng chỉ ngồi nhà thưởng thức miễn
phí qua truyền hình, qua mạng internet, thì
không có được vai trò quyết định đó. Như vậy,
bộ phận công chúng nào chi tiền để thưởng thức
nghệ thuật thì sẽ có tác động định hướng phát
triển nghệ thuật.
3. Công chúng - khách hàng của thị trường
nghệ thuật
Với vai trò như trên, công chúng được coi
là khách hàng của thị trường nghệ thuật. Điều
này được thấy rõ trong nền kinh tế thị trường,
bởi lẽ quan hệ tác giả - công chúng lúc này
không còn thuần túy là quan hệ giữa nghệ sĩ
và khán giả nữa, mà còn là mối quan hệ giữa
người cung cấp sản phẩm và người tiêu thụ
sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng là
thượng đế, vì thị trường ngày nay thiếu người
mua chứ không thiếu hàng hóa. Người sản
xuất cần khách hàng, tìm kiếm khách hàng,
chăm sóc khách hàng nhằm tiêu thụ được
hàng hóa của mình. Các doanh nghiệp xác
định khách hàng là nguồn vốn - một nguồn
vốn ảo về hình thái tồn tại, nhưng lại mang
tới những khoản doanh thu và lợi nhuận hoàn
toàn thật. Doanh nghiệp đặt cho mình mục
tiêu “đến với khách hàng”, “tạo ra khách hàng”,
nên luôn cố gắng làm vừa lòng khách hàng,
chiều theo ý thích của khách hàng, cung cấp
những sản phẩm mà khách hàng muốn mua.
Mối quan hệ này giữa người cung cấp sản
phẩm và người tiêu thụ sản phẩm của kinh tế
thị trường cũng hiển hiện trong mối quan hệ
giữa tác giả và công chúng. Ngày nay, nghệ
thuật đã tham gia vào thị trường, các tác phẩm
nghệ thuật đã được coi là hàng hóa tinh thần,
được trao đổi theo các quy luật của thị trường,
mà một trong số đó là quy luật cung - cầu.
Công chúng ngày nay chính là khách hàng tiêu
thụ các hàng hóa - tác phẩm nghệ thuật, bởi vì
trước khi thưởng thức các tác phẩm ấy với tư
cách công chúng thì họ đã chi tiền mua chúng
(sách báo, băng đĩa) hoặc mua vé (xem biểu
diễn) theo cách mua một hàng hóa. Một điều
đã trở thành phổ biến là tâm trạng thấp thỏm
của các diễn viên trước khi sân khấu mở màn,
là sự hồi hộp chờ thông tin từ phòng vé. Niềm
hưng phấn và hạnh phúc của diễn viên trên
sân khấu là khi được thấy khán phòng đông
chật khán giả. Cảm xúc ấy không chỉ thuần túy
mang tính tinh thần mà còn chứa đựng cả nỗi
lo cơm áo gạo tiền thường nhật. Đó chính là
cảm xúc của người cung cấp sản phẩm khi chờ
đợi người tiêu thụ sản phẩm của mình. Người
tiêu thụ sản phẩm càng hiếm, sự phụ thuộc
của người cung cấp sản phẩm đối với họ càng
cao, họ càng được chăm sóc, chiều chuộng.
Trong sự đa dạng hóa ngày càng tăng của
các sản phẩm nghệ thuật, nhất là các sản phẩm
ngoại nhập; với sự cạnh tranh ngày càng khốc
61Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
liệt của các phương tiện và hình thức giải trí
hiện đại, thị trường nghệ thuật Việt Nam, nhất
là các bộ môn nghệ thuật truyền thống, có xu
hướng bị thu hẹp thị phần, giảm sức thu hút
đối với công chúng. Trong nỗ lực tìm đến công
chúng, nhiều tác giả và công ty biểu diễn nghệ
thuật xác định công chúng là khách hàng và
hướng tới họ bằng cách cung cấp những sản
phẩm mà họ ưa thích, chờ đợi.
Thậm chí, đã xuất hiện xu hướng đề cao
công chúng không chỉ ở khía cạnh là khách
hàng tiêu thụ tác phẩm nghệ thuật, mà còn
coi họ như là tiêu chí đánh giá chất lượng
nghệ thuật của tác phẩm. Những tác phẩm
có lực lượng công chúng đông đảo thì được
xem là tác phẩm có chất lượng. Nổi lên những
hiện tượng “phim ăn khách”, “sách bán chạy”
tốn không ít giấy mực của giới truyền thông.
Thậm chí, xuất hiện cả những cuộc thi, mà
trong hệ thống giải có những giải do khán giả
bình chọn. Công chúng được nâng tầm từ vị
trí người thưởng thức nghệ thuật lên thành
người thẩm định nghệ thuật.
Tuy nhiên, tác phẩm nghệ thuật là hàng
hóa đặc biệt, vì bên cạnh giá trị được đo bằng
sức lao động của người sản xuất (tác giả) giống
như mọi hàng hóa vật chất khác, thì loại hàng
hóa tinh thần này còn chứa đựng những giá
trị nghệ thuật được chắt chiu từ tâm hồn của
tác giả, được thăng hoa từ cảm xúc của tác
giả, được phát tiết từ đam mê của tác giả,
được tạo hình hài từ tài năng của tác giả. Cái
cốt lõi, cái hồn cốt, điều kiện sống còn của
tác phẩm được tạo nên chính từ những giá trị
nghệ thuật ấy, chứ không phải từ cái khoảng
thời gian lao động 1 ngày hay 2 ngày. Thế nên,
nếu như với hàng hóa vật chất thông thường,
chỉ cần người mua có tiền và muốn sở hữu,
là họ có thể trở thành khách hàng, thì với tác
phẩm nghệ thuật, người thưởng thức cần có
một trình độ thẩm mỹ nhất định mới có thể
cảm thụ được. Người tiêu dùng tác phẩm mà
không có khả năng cảm thụ các giá trị nghệ
thuật, thì sẽ chỉ thuần túy là khách hàng mà
không thể là người thưởng thức, không thể là
công chúng đúng nghĩa.
Nghĩa là, công chúng chỉ là khách hàng ở
khía cạnh tiêu dùng vật chất (là người chi tiền
mua tác phẩm nghệ thuật), còn ở khía cạnh
tinh thần, công chúng cần phải có một năng
lực thẩm mỹ nhất định để thưởng thức tác
phẩm, và cũng cần có những xúc cảm thẩm
mỹ để hiểu được những điều tác giả muốn gửi
gắm trong tác phẩm. Nói khác đi, muốn trở
thành công chúng đúng nghĩa, thì cần phải
học cách cảm thụ nghệ thuật. Vậy nên, coi
công chúng là khách hàng của thị trường nghệ
thuật là một cách so sánh phiến diện, thiên về
khía cạnh tiêu dùng vật chất đối với tác phẩm.
Nếu muốn coi công chúng là khách hàng của
nghệ thuật thì đó phải là những khách hàng
đặc biệt - tương xứng với loại hàng hóa đặc
biệt mà họ thưởng thức, nâng họ lên thành
người thẩm định giá trị nghệ thuật của tác
phẩm thì lại càng sai lầm.
4. Nhận diện công chúng nghệ thuật Việt
Nam hiện nay
Ở phần này, công chúng được hiểu theo
nghĩa hẹp, là những người có chi tiền để thưởng
thức nghệ thuật. Họ bỏ tiền mua vé đi xem phim
ở rạp, xem ca nhạc/vở diễn ở nhà hát; hoặc bỏ
tiền mua truyện về đọc, mua đĩa về xem
Theo nghĩa đó, công chúng Việt Nam hiện
nay phần đông là giới trẻ, với độ tuổi từ 30 trở
xuống. Cuộc khảo sát về công chúng nghệ
thuật của chúng tôi tiến hành năm 2016 với 3
nhóm khách thể là khán giả điện ảnh, khán giả
sân khấu và độc giả xuất bản phẩm, cho kết quả
như sau: Trong tổng số 1.639 người trả lời phiếu
hỏi, với khán giả điện ảnh: độ tuổi từ 30 tuổi
trở xuống chiếm 73,8% (trong số 593 người trả
lời); với khán giả sân khấu: số này chiếm 57,7%
(trong số 490 người trả lời; với độc giả xuất bản
phẩm: 66,1% (trong số 556 người trả lời).
Số 32 (Tháng 6 - 2020)62
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Tương tự, một công bố của trang mạng
Q&Me, một trang chuyên về nghiên cứu thị
trường, cho biết “Nhóm những người từ 20 -
29 tuổi thường xem phim tại rạp nhiều nhất
trong các nhóm tuổi” [11]. Trong lĩnh vực ca
nhạc, nhà tổ chức biểu diễn (bầu show) Hoàng
Tiến cũng xác nhận khán giả trẻ là lực lượng
chính mua vé xem ca nhạc hiện nay [8]. Nghĩa
là, bộ phận công chúng có chi tiền để thưởng
thức các tác phẩm nghệ thuật ở Việt Nam hiện
nay đa phần là giới trẻ.
Về học vấn, kết quả khảo sát của chúng
tôi cho thấy: Trong tổng số 1.639 người trả
lời phiếu hỏi, với khán giả điện ảnh, trình độ
học vấn THPT và đại học chiếm tỷ lệ lần lượt
là 33,5% và 34,3%; với khán giả sân khấu, con
số tương ứng là 23,4% và 35,3%; còn với độc
giả xuất bản phẩm là 19,3% và 42,4%. Nghĩa là,
hầu hết công chúng chi tiền để thưởng thức
nghệ thuật là những người có trình độ hết
THPT hoặc hết đại học.
Về nghề nghiệp, cũng cuộc nghiên cứu
trên cho thấy, phần lớn công chúng là viên
chức nhà nước và học sinh sinh viên chưa đi
làm. Cụ thể, trong số những người chi tiền đi
xem phim, có 22,7% là viên chức nhà nước và
35,9% chưa đi làm; khán giả sân khấu có tương
ứng là 29,6% và 25,9%; còn các độc giả có tỷ lệ
tương ứng là 28,1% và 24,9%.
Về mức sống, cuộc nghiên cứu trên của
chúng tôi cũng cho kết quả: Hầu hết công
chúng tự đánh giá hoàn cảnh kinh tế của mình
ở mức trung bình. Cụ thể, có tới 72,8% công
chúng điện ảnh, 64,3% công chúng sân khấu
và 71,8 độc giả trả lời rằng họ có mức sống
trung bình. Điều này cũng có thể lý giải được,
bởi lẽ họ đều còn trẻ, nhiều người làm việc
ở các cơ quan nhà nước với mức lương thấp,
nhiều người khác còn chưa đi làm.
Như vậy, công chúng Việt Nam có chi tiền
để thưởng thức nghệ thuật hiện nay đa phần
là giới trẻ, trình độ học vấn hết THPT hoặc đại
học, là công chức nhà nước hoặc chưa đi làm,
và có mức sống trung bình.
Như đã phân tích ở trên, bộ phận công
chúng nào chi tiền để thưởng thức nghệ thuật
thì sẽ có tác động định hướng phát triển nghệ
thuật. Ở Việt Nam hiện nay, bộ phận công
chúng có khả năng chi phối sự phát triển của
nghệ thuật là nhóm những người trẻ, có trình
độ học vấn THPT hoặc đại học, là công chức
nhà nước hoặc chưa đi làm, và có mức sống
trung bình. Để phân biệt với tổng thể công
chúng nói chung, chúng tôi gọi họ là “nhóm
công chúng chi phối”. Đây là nhóm công
chúng quan trọng, đóng vai trò quyết định sự
phát triển, thậm chí cả sự tồn vong của nền
nghệ thuật nước nhà. Họ chi phối nghệ thuật
bằng tình yêu của mình, sự ủng hộ, sự cuồng
nhiệt với những tác phẩm và xu hướng mà họ
yêu thích. Họ cũng chi phối bằng sự thờ ơ, bỏ
qua, hoặc chê bai, chỉ trích những tác phẩm và
xu hướng nghệ thuật mà họ không ưa. Mà sự
yêu thích hay thờ ơ của họ đối với nghệ thuật
được quyết định bởi năng lực cảm thụ nghệ
thuật của họ.
5. Năng lực cảm thụ nghệ thuật của nhóm
công chúng chi phối tại Việt Nam hiện nay
Một hiện tượng quen thuộc trong đời sống
nghệ thuật những năm gần đây: Có những
bộ phim/vở diễn ra rạp cháy vé, người người
đổ xô đi xem, xuất hiện những bài bình luận,
tán dương, xếp hạng Trong khi đó, các nhà
chuyên môn thì buồn bã. Chẳng hạn, nghệ sĩ
Lê Bình, tác giả của nhiều kịch bản, tiểu phẩm
kịch nói, cho biết: “Khoảng 2 năm gần đây tôi
không đưa được tác phẩm cho sân khấu nào.
Các nơi cứ bảo tôi: “Anh viết đi, viết vui, nhí nhố
lên cho em!”. Thiệt, tôi không thể nào làm được.
Tiền thì ai cũng cần nhưng bảo viết thế tôi không
viết được. Bây giờ muốn viết, tôi cứ viết những
cái mà tôi quan tâm, trăn trở rồi... để đó. Hy vọng,
một ngày sẽ có những sân khấu chấp nhận làm
tác phẩm của mình một cách đàng hoàng” [12].
63Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Tương tự, ông Trần Trọng Dần, Giám đốc
Hãng phim CoCo Paris cho rằng, phần đông
khán giả đi xem phim là những người trẻ, họ
không có nhu cầu tiếp nhận bài học gì sâu xa.
Diễn viên - nhà sản xuất Mai Thu Huyền (Công
ty Tincom Media) cũng đồng tình: “Đa số khán
giả vào rạp không cần những phim có tính giáo
dục nặng nề, bài học sâu sắc mà chủ yếu muốn
xem phim giải trí nhẹ nhàng, hài hước. Họ xem
thấy đã mắt, nghe đã tai và cười đã miệng là
đủ rồi!” [7]. Đạo diễn Charlie Nguyễn nhiều
lần than rằng, ở Việt Nam, cứ làm phim theo
dòng hài hước, lãng mạn, ngôn tình thanh
xuân là có doanh thu. Giới trẻ là đối tượng
chính của rạp phim và họ chỉ cần những bộ
phim đơn giản, hài hước để giải trí, thế là đủ.
Rất nhiều bộ phim giàu tính nghệ thuật lại
bị chê bai vì khán giả không hiểu ngôn ngữ
nghệ thuật, ý đồ, thông điệp của đạo diễn. Bà
Ngô Ngọc Ngũ Long, Phó Chủ tịch Hội Điện
ảnh Tp. HCM, thì nhận xét thẳng thắn hơn:
“Sở thích của khán giả hiện nay nghiêng hẳn
về phim hài, càng nhảm họ càng thích. Họ đến
rạp theo các nhóm bạn bè, ảnh hưởng nhiều
bởi yếu tố truyền miệng và sự nổi tiếng của diễn
viên”, và “Đến chuyện tế nhị như hôi nách mà
cũng mang lên chọc cười thì không còn gì để
nói. Chọc cười thô thiển như vậy mà khán giả
vẫn cười rần rần mới sợ chứ!”. Hoặc, theo nhận
định của báo Văn học Sài Gòn online: “Ai cũng
có thể ngắm một bức tranh, nghe một ca khúc,
xem một bộ phim và bảo rằng mình thích
hay không thích. Nhưng để giải thích một cách
thuyết phục tác phẩm đó hay - dở chỗ nào, ý đồ
nghệ thuật là gì, vì sao nó là kiệt tác thì hơn
90% công chúng Việt hoặc sẽ lúng túng, hoặc
nhận xét cảm tính, hoặc lặp lại y chang những
gì các nhà phê bình định hướng, mà không có
nhận định riêng” [4].
Như vậy, có thể thấy rằng, công chúng chi
phối nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay chưa đủ
năng lực để cảm thụ các tác phẩm nghệ thuật.
Một