TÓM TẮT
Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện dân chủ, tôn trọng và bảo đảm trên thực tế quyền dân chủ và làm chủ của
nhân dân là vấn đề có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với Nhà nước mà chúng ta đang xây dựng để
trở thành Nhà nước pháp quyền, đối với việc tăng cường uy tín và mở rộng ảnh hưởng của Đảng
Cộng Sản cầm quyền trong xã hội mà còn là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết tập trung phân tích tầm quan trọng, ý nghĩa và sự
thúc đẩy lẫn nhau của mối quan hệ giữa dân chủ trong Đảng và dân chủ ngoài xã hội trong xây dựng
nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 327 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa dân chủ trong đảng và dân chủ ngoài xã hội trong xây dựng nền dân chủ và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
114
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
NHẬN THỨC VỀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA MỐI QUAN HỆ
GIỮA DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG VÀ DÂN CHỦ NGOÀI XÃ HỘI
TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Nguyễn Khánh Vân*
TÓM TẮT
Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện dân chủ, tôn trọng và bảo đảm trên thực tế quyền dân chủ và làm chủ của
nhân dân là vấn đề có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với Nhà nước mà chúng ta đang xây dựng để
trở thành Nhà nước pháp quyền, đối với việc tĕng cường uy tín và mở rộng ảnh hưởng của Đảng
Cộng Sản cầm quyền trong xã hội mà còn là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết tập trung phân tích tầm quan trọng, ý nghĩa và sự
thúc đẩy lẫn nhau của mối quan hệ giữa dân chủ trong Đảng và dân chủ ngoài xã hội trong xây dựng
nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ khóa: Dân chủ, Nhà nước pháp quyền, Việt Nam
AWARE OF THE IMPORTANCE OF THE RELATIONSHIP BETWEEN
DEMOCRACY IN THE PARTY AND DEMOCRACY OUT OF THE SOCIAL IN
BUILDING DEMOCRACY AND SOCIALIST LEGAL STATE IN VIETNAM
ABSTRACT
In terms of a single party ruling and building the Socialist State of Vietnam, the implementation
of democracy, respect and assurance of the real democratic and mastery of the people are the
essential matters not only for the government which we are building to become the State of Law, for
strengthening prestige and expanding the influence of the ruling Communist Party in society; but also
a factor determining the success of the innovation and socialist construction in Vietnam. The article
focuses on analyzing importance, the meaning and the mutual impetus of the relationship between
democracy in the Party and democracy outside the society in building democracy and the socialist
rule-of-law state in Vietnam.
Keywords: democracy, State of Law, rule-of-law state, Vietnam
* TS. GV. Đại học kinh tế, TP.Hồ Chí Minh. Email: khanhvan@ueh.edu.vn
Điện thoại : 0918.328.589
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Một đặc điểm quan trọng và nổi bật của hệ
thống chính trị nước ta trong thời kỳ Đổi mới là
chế độ chính trị nhất nguyên và một đảng duy
nhất cầm quyền, không đa nguyên, đa đảng,
càng không có đảng đối lập. Đặc điểm này
chẳng những thể hiện tính đặc thù của nền chính
trị nước ta so với chính thể tư sản ở nhiều nước
trên thế giới mà còn tác động trực tiếp tới việc
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới
115
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
hệ thống chính trị ở nước ta, nhất là trong điều
kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, mở
cửa và hội nhập quốc tế.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đã trải qua một
tiến trình hơn 30 nĕm. Dân chủ chẳng những là
mục tiêu mà còn là động lực của đổi mới. Trong
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của
Đổi mới mà Đảng và nhân dân ta đạt được có
thành tựu về dân chủ, về thực hiện dân chủ và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội XI của Đảng (1/2011) đã nhấn mạnh
đặc biệt tới dân chủ, coi dân chủ là giá trị hàng
đầu trong hệ mục tiêu của đổi mới, “dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, vĕn
minh”. Hệ mục tiêu này được Đảng ta khẳng
định là đặc trưng tổng quát của xã hội - xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Đại hội XI còn đạt được một bước tiến mới
trong nhận thức lý luận về dân chủ khi khẳng
định rằng, dân chủ phải được thể chế hóa, gắn
liền dân chủ với pháp luật, với kỷ luật, kỷ cương,
xã hội. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân là nhằm thực hiện dân chủ, đảm
bảo tôn trọng và phát huy quyền làm chủ thực
chất của nhân dân. Thực hiện dân chủ bằng sức
mạnh của nhà nước pháp quyền cũng là để thực
hiện những quyền cơ bản của con người (nhân
quyền) và của công dân (dân quyền), trong đó
bao gồm cả quyền kinh tế, quyền dân sự, quyền
chính trị - xã hội. Đó là quyền lao động, quyền
được có việc làm, quyền được học tập. Những
quyền ấy là thể hiện quyền được sống, quyền tự
do, quyền phát triển, được mưu cầu hạnh phúc
trong một xã hội dân chủ và con người làm chủ
như Hồ Chí Minh đã từng nói.
Dân chủ không chỉ là ý thức mà còn là nĕng
lực; ý thức về quyền và địa vị làm chủ, về nghĩa
vụ, trách nhiệm của người chủ xã hội và nhất là
nĕng lực thực hành dân chủ của mỗi người. Vì
thế, qua thực tiễn vận động dân chủ hóa trong
30 nĕm đổi mới, Đảng ta đã đề ra chủ trương và
quyết sách xây dựng xã hội dân chủ, ra sức đổi
mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ
thống chính trị các cấp, từ trung ương tới cơ sở,
nhất là ra sức xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng
cao hiệu lực quản lý Nhà nước đồng thời đổi
mới phương thức hoạt động của Mặt trận, của
các đoàn thể quần chúng đó là những đảm bảo
chính trị, pháp lý và xã hội để thực hiện dân chủ
thực chất, phát huy vai trò làm chủ thực chất của
người dân, khắc phục triệt để dân chủ hình thức
và tình trạng vi phạm quyền dân chủ, làm chủ
của người dân, nhất là ở cơ sở. Đây là bước tiến
trong nhận thức lý luận dân chủ và cũng là bước
tiến trong thực tiễn thực hành dân chủ ở nước ta.
Trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
và thực hành dân chủ, chúng ta phải thường
xuyên giải quyết mối quan hệ giữa dân chủ
trong Đảng và dân chủ ngoài xã hội sao cho đạt
được những yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, làm cho dân chủ trong Đảng góp
phần nâng cao nĕng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy vai trò tiên phong,
gương mẫu của cán bộ đảng viên và của các
tổ chức Đảng trong việc xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, thúc đẩy dân chủ trong xã hội
phát triển.
Thứ hai, làm cho dân chủ trong Đảng và dân
chủ ngoài xã hội phát triển sâu rộng, lành mạnh,
tạo ra môi trường xã hội, dư luận xã hội và áp
lực xã hội đủ mạnh để chống quan liêu, tham
nhũng, đề cao tính công khai, minh bạch, tĕng
cường trách nhiệm giải trình của cá nhân và tổ
chức được dân chủ ủy quyền để thực hiện quyền
lực của dân, vì mục đích phục vụ dân và bảo vệ
dân, không biến dân chủ thành “quan chủ” như
Hồ Chí Minh đã nói.
Thứ ba, thực hiện dân chủ trong Đảng và dân
chủ ngoài xã hội tác động và thúc đẩy lẫn nhau,
cùng hướng tới xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, củng cố vững chắc mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng với dân, giữa dân với Đảng. Đây là
116
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đảm bảo quan trọng nhất để Đảng giữ vững vai
trò lãnh đạo và cầm quyền, để chế độ bền vững,
nhân dân thực sự là chủ và làm chủ, Nhà nước
thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Như vậy, thực hiện dân chủ trong Đảng và
dân chủ ngoài xã hội đều vì mục tiêu dân chủ.
Đảng và dân cùng thực hành dân chủ sẽ tạo ra
động lực cho sự phát triển xã hội, nói như Hồ
Chí Minh, “thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là
chiếc chìa khóa vạn nĕng để giải quyết mọi khó
khĕn”. Trách nhiệm của Đảng, tính tiền phong
gương mẫu của cán bộ đảng viên cùng với tính
chủ động tích cực của quần chúng trong việc
thực hiện dân chủ, từ dân chủ trong Đảng đến
dân chủ ngoài xã hội sẽ làm cho dân chủ phát
triển, đoàn kết trong Đảng trong dân và đồng
thuận xã hội được tĕng cường. Đây là sức mạnh
chính trị và tinh thần đảm bảo cho kinh tế và
vĕn hóa phát triển, đưa sự nghiệp đổi mới tới
thắng lợi, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa tới thành công.
2. DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG THÚC ĐẨY
DÂN CHỦ NGOÀI XÃ HỘI
Đảng lãnh đạo và cầm quyền đối với Nhà
nước và xã hội nên vai trò của Đảng rất lớn và
trách nhiệm của Đảng rất nặng nề. Một Đảng
duy nhất lãnh đạo và cầm quyền như Đảng ta
thì vai trò của Đảng càng lớn và trách nhiệm của
Đảng càng nặng nề hơn. Đó là vai trò dẫn dắt cả
dân tộc và xã hội tiến hành đổi mới, thực hiện lý
tưởng và mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, cụ thể và trực tiếp hơn là thực hiện mục
tiêu của đổi mới với “Mười chữ vàng” tiêu biểu:
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, vĕn
minh”.
Muốn thực hiện được vai trò to lớn và trách
nhiệm nặng nề đó, Đảng phải trong sạch vững
mạnh và có trí tuệ khoa học sáng suốt, có bản
lĩnh chính trị vững vàng. Đó là điều kiện cần
chứ chưa đủ. Đảng phải luôn ngang tầm với
nhiệm vụ và thường xuyên liên hệ mật thiết với
nhân dân, gần dân để vì dân. Đảng tồn tại chỉ vì
dân, đấu tranh vì lợi quyền của dân, làm cho Tổ
quốc được độc lập, dân tộc được tự do và nhân
dân được hưởng hạnh phúc. Ba giá trị cốt lỗi
đó, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là khát vọng
thiêng liêng cả cuộc đời của Hồ Chí Minh, của
cả dân tộc, của mỗi người dân. Đảng có trọng
trách lãnh đạo toàn dân thực hiện.
Điều đó đòi hỏi Đảng phải ra sức thực hiện
và phát huy dân chủ trong Đảng và thúc đẩy dân
chủ ngoài xã hội phát triển để tạo ra sức mạnh,
tập hợp lực lượng, gây dựng phong trào sâu rộng
trong xã hội. Dân chủ trong Đảng phải thấm sâu
vào từng tổ chức Đảng ở cơ sở, từng cán bộ
đảng viên, trong các quan hệ giữa tổ chức với tổ
chức, giữa con người với con người trong toàn
Đảng. Có phát huy cao độ dân chủ thì mới phát
huy được nhiệt tình, sáng kiến, lòng hĕng hái và
ý thức trách nhiệm của mỗi người, nhờ đó, các
cơ quan lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy mới tập
hợp được đầy đủ thông tin, phân tích và đánh giá
đúng tình hình, để ra phương hướng và giải pháp
sát thực tế, đem lại kết quả, hiệu quả thiết thực,
hợp với lòng dân. Dân chủ trong Đảng phải làm
cho mọi Đảng viên có ý thức, có nhu cầu và có
trách nhiệm đối với mọi công việc của Đảng, bắt
đầu từ các chi bộ ở cơ sở, góp sức làm nên sức
mạnh của toàn Đảng.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm đến dân chủ trong
Đảng từ việc thảo luận, tranh luận trong sinh
hoạt Đảng. Mọi đảng viên phải được quyền và
thực hiện đúng quyền của mình, nói thẳng, nói
thật, nói hết ý kiến của mình về những vấn đề
mà tổ chức Đảng nêu ra, kể cả đóng góp ý kiến,
đề xuất sáng kiến, kiến nghị vào các chủ trương,
đường lối, Nghị quyết của Trung ương. Có tôn
trọng thảo luận dân chủ thì mới có cơ sở cho
những quyết định của tập trung được đúng đắn,
không quan liêu, không phạm khuyết điểm sai
lầm. Do đó, thực hiện dân chủ trong Đảng luôn
luôn phải chú ý tới mối quan hệ giữa đảng viên
với cấp ủy, giữa cá nhân với tập thể, giữa quyền
tự do cá nhân với những quy định của tổ chức,
117
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
của kỷ luật theo điều lệ Đảng. Đó chính là quan
hệ giữa dân chủ với tập trung, giữa tập thể lãnh
đạo với cá nhân phụ trách. Các nhà kinh điển,
từ Mác – Ĕng ghen đến Lênin đều nhấn mạnh
tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh
nhiều hơn vào dân chủ tập trung. Tuy cả hai cách
diễn đạt đó, tập trung dân chủ và dân chủ tập
trung đều giống nhau về bản chất nhưng cũng
có những điểm khác nhau về sắc thái và mức độ.
Điều quan trọng là ở chỗ, phải xử lý đúng đắn
mối quan hệ giữa dân chủ với tập trung, giữa tập
trung với dân chủ. Theo đúng nghĩa lành mạnh
của nó, dân chủ là cơ sở xuất phát, là mục đích
còn tập trung là phương thức, phương tiện, điều
kiện thực hiện nguyên tắc này. Đây là nguyên
tắc tổ chức, là nguyên tắc chính trị cốt tử của
Đảng. Nhờ đó, Đảng mới là một tổ chức cách
mạng, một Đảng chiến đấu, Đảng hành động,
muôn người như một người. Phá vỡ, từ bỏ tập
trung dân chủ như sai lầm của Goóc Ba Chốp và
Đảng Cộng Sản Liên Xô thời cải tổ đã dẫn đến
tình trạng nguy hiểm làm rối loạn tổ chức, biến
Đảng thành một câu lạc bộ bàn suông, không
hành động, kết cuộc là tan vỡ Đảng và cải tổ
thất bại.
Rút kinh nghiệm bài học phải trả giá đau đớn
đó, trong Đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
Đảng ta luôn chú trọng phát huy dân chủ một
cách có tổ chức, có lãnh đạo. Dân chủ và tập
trung phải đảm bảo tĕng cường sự thống nhất
về quan điểm, tư tưởng, ý chí, hành động trong
toàn Đảng. Về lý luận, không tách rời, đối lập
dân chủ với tập trung, cũng không tuyệt đối hóa
tập trung mà xem nhẹ hay phủ nhận dân chủ.
Cần tránh hai khuynh hướng sai lầm rất dễ xảy
ra làm biến dạng tập trung dân chủ, đó là tập
trung quan liêu và tự do vô chính phủ. Dân chủ
cần có tập trung nghĩa là dân chủ có lãnh đạo,
có định hướng, có sự cần thiết của cơ quan lãnh
đạo và người lãnh đạo.
Tập trung phải trên cơ sở của dân chủ, vì dân
chủ nghĩa là mỗi quyết định của lãnh đạo phải
thể hiện sự tôn trọng ý chí chung của tập thể,
phải phản ánh đúng nguyện vọng chính đáng
của tập thể đảng viên và quần chúng, không độc
đoán chuyên quyền. Trong tập thể lãnh đạo phải
thi hành đúng nguyên tắc, phải theo đúng thẩm
quyền và trách nhiệm, cũng không lợi dụng chức
quyền mà lộng quyền và lạm quyền.
Theo Lênin, thảo luận thì chung còn trách
nhiệm thì riêng, riêng tới từng người một.
Hồ Chí Minh nêu rõ, thảo luận tập thể, lãnh
đạo tập thể là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập
trung. Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ
trách là dân chủ tập trung.
Muốn cho dân chủ cũng như tập trung trở nên
đúng đắn, không bị biến dạng, cần rất nhiều điều
kiện. Những điều kiện chủ yếu là:
- Mỗi cán bộ đảng viên phải nâng cao học
vấn, học thức để có hiểu biết đúng - sai, bản
chất - hiện tượng, chân lý và sai lầm đồng thời
phải trau dồi vĕn hóa, nhất là vĕn hóa đạo đức,
vĕn hóa chính trị và vĕn hóa pháp luật. Biết lắng
nghe, không áp đặt người khác, biết tôn trọng ý
kiến của người khác, bình đẳng trong thảo luận,
tranh luận. Đó là trọng sự thật, chân lý và đạo lý
- những chuẩn mực của vĕn hóa dân chủ.
- Thống nhất về nguyên tắc, xuất phát từ
động cơ, mục đích chính đáng, vì lợi ích chung
của cách mạng, của Đảng, của nhân dân. Không
làm bất cứ điều gì phương hại tới sự nghiệp cách
mạng. Đó là sự trong sáng, vô tư, khách quan
mà Hồ Chí Minh gọi là phải quang minh chính
đại.
- Cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy phải
gương mẫu, phải đề cao trách nhiệm, có dũng
khí dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
- Phải công khai, minh bạch thông tin.
- Phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, nhất
là các ý kiến phê bình. Phải biết học dân, hỏi
dân, gần dân, hiểu dân và tin dân thì mới lãnh
đạo được dân. Đó là chỉ dẫn sâu sắc về cách
lãnh đạo dân chủ của Hồ Chí Minh.
- Một điều kiện rất quan trọng có tính pháp lý
- chính trị, thể hiện thành tính Đảng là, mỗi cán
118
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
bộ đảng viên trong Đảng, từ người lãnh đạo cao
nhất đến mỗi đảng viên bình thường, không giữ
chức vụ đều phải nghiêm chỉnh chấp hành điều
lệ Đảng, các quy định và các chế tài (19 điều
đảng viên không được làm) của Đảng. Không có
bất cứ một ngoại lệ nào. Kỷ luật Đảng là nghiêm
minh, không có vùng cấm. Trong điều kiện chỉ
có một Đảng, lại hoạt động trong khuôn khổ Nhà
nước pháp quyền mà pháp luật là tối thượng,
thì cán bộ đảng viên phải gương mẫu chấp hành
pháp luật. Đảng phải tôn trọng Nhà nước cũng
như Nhà nước phải hoạt động theo đúng quan
điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, thể chế
hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành luật
pháp và chính sách. Đảng phải hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật, mọi quyết định của Đảng
phải hợp hiến, hợp pháp, không để xảy ra tình
trạng vi hiến. Chỉ như vậy, Đảng mới củng cố
được uy tín và ảnh hưởng của mình. Về mặt
thực tiễn, dân chủ trong Đảng phải chú trọng
trên tất cả các mặt, các nội dung xây dựng Đảng,
phải khuyến khích phê bình, đề cao tự phê bình,
có tình có lý, thấu lý đạt tình, có tính đồng chí
thương yêu lẫn nhau, biết thành thật sửa chữa
khuyết điểm sai lầm. Phải xử lý đúng các nguyên
tắc thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng
cấp trên, toàn Đảng phục tùng Nghị quyết Đại
hội và lãnh đạo của Trung ương. Quyền bảo lưu
ý kiến phải được tôn trọng, không thành kiến,
định kiến với người có ý kiến khác. Đồng thời,
đề cao ý thức chấp hành Nghị quyết, không làm
trái Nghị quyết, không truyền bá quan điểm cá
nhân trái với Nghị quyết làm phương hại đến
sự thống nhất tư tưởng, ý chí, hành động trong
Đảng, làm suy yếu Đảng. Phải dân chủ không
chỉ trong sinh hoạt Đảng mà còn phải cải cách
chế độ bầu cử trong Đảng để chọn đúng người
Tài - Đức vào các cơ quan lãnh đạo, không hình
thức chủ nghĩa, xem xét kỷ luật trong Đảng phải
dân chủ và nghiêm minh. Những quyết định sai
lầm phải được sửa chữa công khai, phải ràng
buộc trách nhiệm đối với cá nhân và tập thể về
những quyết định sai lầm đó. Đặc biệt là phải áp
dụng chế độ chất vấn trong Đảng, giáo dục và
thực hiện vĕn hóa xin lỗi, vĕn hóa từ chức, giáo
dục đạo đức, danh dự, lòng tự trọng trong Đảng,
nhất là kiên quyết xử lý tham nhũng, thoái hóa,
biến chất trong Đảng theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI vừa qua. Phải thường
xuyên động viên và tạo mọi điều kiện để nhân
dân hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Mặt
trận và các đoàn thể của mình giám sát, tư vấn,
phản biện và kiểm tra Đảng, nhất là hành vi và
hoạt động của cán bộ đảng viên, công chức, viên
chức. Thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh, dựa
vào dân mà xây dựng Đảng, thực sự trọng dân
và trọng pháp là một nội dung quan trọng của
dân chủ trong Đảng.
Làm được như vậy, dân chủ trong Đảng sẽ
thúc đẩy dân chủ ngoài xã hội. Nhân dân thường
nhìn vào việc làm và cách ứng xử của cán bộ
đảng viên để cảm nhận và đánh giá về Đảng.
Do đó, toàn Đảng phải ra sức thực hành dân
chủ theo gương sáng của Hồ Chí Minh, theo
phương châm mà Người chỉ dẫn: Nói ít, làm
nhiều, lời nói đi đôi với việc làm, một tấm gương
sống còn quý hơn hàng trĕm bài diễn vĕn, làm
điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân, làm cho
dân tin, dân ủng hộ, dân giúp đỡ, dân yêu mến,
dân bảo vệ. Đó là kết quả và thước đo tin cậy
nhất về uy tín và ảnh hưởng của Đảng, về trình
độ dân chủ trong Đảng.
Trong thời gian vừa qua, tự phê bình và phê
bình trong Đảng đã bước đầu đem lại những
chuyển biến tích cực để chống suy thoái. Đảng
đã công khai xin lỗi dân về những khuyết điểm
sai lầm và quyết tâm sửa chữa. Quốc hội đã công
khai các kết quả đánh giá mức độ tín nhiệm các
chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn, trên tất
cả các phương tiện thông tin đại chúng.Trung
ương, trong các hội nghị gần đây đã thực hiện
hoạt động chất vấn. Đó là những bước tiến rõ
rệt về dân chủ. Từng bước một, niềm tin của dân
với Đảng đang được củng cố. Đó là bằng chứng
cho thấy tác dụng của dân chủ.
119
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
3. DÂN CHỦ NGOÀI XÃ HỘI VỪA PHẢN
ÁNH VỪA THÚC ĐẨY DÂN CHỦ TRONG
ĐẢNG, GÓP PHẦN XÂY DỰNG XÃ HỘI
DÂN CHỦ VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm
quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
còn đang xây dựng, hệ thống chính trị còn đang
phải nổ lực đổi mới, việc chú trọng phát huy
dân chủ của xã hội, đề cao tiếng nói dân chủ và
quyền làm chủ của người dân trở nên rất quan
trọng và cần thiết.
Như đã nói ở trên, dân chủ trong Đảng thúc
đẩy dân chủ ngoài xã hội, cũng như vậy, dân chủ
xã hội phụ thuộc, tùy thuộc một phần lớn từ dân
chủ trong Đảng. Song mặt khác, mỗi bước tiến
của dân chủ xã hội vừa phản ánh tác dụng, hiệu
ứng của dân chủ trong Đảng đồng thời lại thúc
đẩy, đòi hỏi dân chủ trong Đảng phải ngày càng
tốt hơn, thực chất hơn.
Dân chủ xã hội gắn liền với dân chủ của
người dân ở cơ sở, dân chủ ở từng địa phương,
dân chủ của mọi giai cấp, tầng lớp, của các giai
tầng, các nhóm xã hội, các dân tộc, các tôn giáo.
Đảng cầm quyền đưa ra các quyết định có
tầm chiến lược đối với sự phát triển của đất
nước, tới cuộc sống của người dân, tới tương
lai và triển vọng của cả dân tộc. Dân chủ trong
Đảng làm cho các quyết định đó trở nên đúng
đắn, không mắc sai lầm. vì vậy, Đảng cũng phải
lắng nghe, tiếp thu những ý kiến xây dựng của
dân. Nhà nước quản lý bằng pháp luật để thực
hiện những quyền và lợi ích của dân. Nhà nước
thực hiện các chính sách để phát triển sức dân.
Nhân dân làm chủ thông qua