Tóm tắt
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được tổ chức UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại vào ngày 01 - 12 - 2016, đến nay đã trải qua hai năm, do vậy, chúng tôi
nhận thấy cần có đánh giá quan điểm, thái độ, sự thay đổi trong nhận thức của các nhà nghiên cứu
trong nước thể hiện qua các sách, công trình, đề tài, bài viết đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành
có nội dung đề cập tới tín ngưỡng thờ Mẫu và đi đến nhận định rằng: Hành trình đến với danh hiệu và
hậu vinh danh di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại của tín ngưỡng này thể hiện quá trình
thay đổi tư duy quản lý văn hóa của các nhà quản lý, cũng như của các nhà khoa học về giá trị của di
sản văn hóa.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 366 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức xã hội về thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ sau hai năm được Unesco ghi danh nhìn từ các nghiên cứu khoa học trong nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11Số 28 - Tháng 6 - 2019
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
NHẬN THỨC XÃ HỘI VỀ THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG
THỜ MẪU TAM PHỦ SAU HAI NĂM ĐƯỢC UNESCO GHI DANH
NHÌN TỪ CÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG NƯỚC
PHẠM LAN OANH
Tóm tắt
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được tổ chức UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại vào ngày 01 - 12 - 2016, đến nay đã trải qua hai năm, do vậy, chúng tôi
nhận thấy cần có đánh giá quan điểm, thái độ, sự thay đổi trong nhận thức của các nhà nghiên cứu
trong nước thể hiện qua các sách, công trình, đề tài, bài viết đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành
có nội dung đề cập tới tín ngưỡng thờ Mẫu và đi đến nhận định rằng: Hành trình đến với danh hiệu và
hậu vinh danh di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại của tín ngưỡng này thể hiện quá trình
thay đổi tư duy quản lý văn hóa của các nhà quản lý, cũng như của các nhà khoa học về giá trị của di
sản văn hóa.
Từ khóa: Tín ngưỡng thờ Mẫu, Tam phủ, Tứ phủ, văn hóa phi vật thể
Abstract
The Vietnameses people’s belief of worshiping Mother Goddesses of Three Realms was recognized
by UNESCO as a representative intangible cultural heritage of humanity on December 1st, 2016. It has
been two years past, so we realize that it is necessary to assess the views, attitudes and changes in
the awareness of domestic researchers which expressed through books, works, projects, and articles
in specialized scientific journals with content referring to the belief of worshiping Mother Goddess and
come to find out that: The journey to the title and post-honor of this representative intangible cultural
heritage of humanity shows the process of changing in cultural management thinking of managers as
well as of scientists about the value of cultural heritage.
Keywords: Belief of worshiping Mother Goddesses, Three Realms, Four Realms, intangible culture.
1. Những công trình, bài viết liên quan
trong năm 2017, 2018
Nghiên cứu, sưu tầm về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam được chú ý từ thế kỷ XVI, nhưng được đặc biệt
quan tâm từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX trở lại
đây. Theo Thư mục các công trình nghiên cứu tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở châu thổ Bắc
Bộ, tính đến năm 2014, đã có 1.094 công trình,
bài tiểu luận về tín ngưỡng thờ Mẫu của người
Việt ở châu thổ Bắc Bộ được công bố1.
Trải qua hai năm được ghi danh là di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, với Tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, ở cả
phương diện nghiên cứu và phương diện thực
hành di sản đã có những động thái nối tiếp. Ở
phương diện thực hành, các sinh hoạt gắn với
di sản trở nên sôi nổi, phổ biến, rộng rãi hơn,
thể hiện qua các trình diễn sân khấu hóa cũng
như thực hành nghi lễ tại các di tích. Ở phương
diện nghiên cứu, trước tiên, các tài liệu là sách,
phải kể đến cuốn Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ
của người Việt, hành trình đến di sản nhân loại
[10], là sản phẩm quà tặng lưu niệm của tỉnh
Nam Định nhân dịp đón danh hiệu/bằng công
nhận di sản của UNESCO ghi danh di sản văn
Số 28 - Tháng 6 - 201912
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
hóa phi vật thể này. Cuốn sách gồm 3 phần:
Phần 1. Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại; Phần 2. Để được UNESCO vinh danh;
Phần 3. Để di sản mãi trường tồn và lan tỏa.
Trong cuốn sách này, những câu chuyện trước
và sau vinh danh di sản được giãi bày. Nói cách
khác, qua cuốn sách nhỏ (286 trang khổ 14,5
x 20,5 cm), những thông tin liên quan tới văn
bản hành chính, những bài nghiên cứu về tín
ngưỡng thờ Mẫu đầu thời kỳ Đổi mới tiêu biểu
được chọn giới thiệu (tuyển đăng lại), những
tấm lòng với tín ngưỡng thờ Mẫu và những nội
dung nhằm mục đích gìn giữ và phát huy giá
trị đích thực của tín ngưỡng mãi trường tồn
và lan tỏa được đề cập một cách cụ thể, tâm
huyết và khả thi. Có thể đánh giá, đây là cuốn
sách có giá trị khá toàn diện khi nội dung của
nó vừa thể hiện tính nghiên cứu, vừa thể hiện
tính thực tiễn gắn với quản lý di sản văn hóa
phi vật thể ở tầm nhân loại.
Cuốn sách Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ chốn
thiêng nơi cõi thực [1] là công trình giới thiệu
nét đặc sắc của tín ngưỡng với những hình
ảnh minh họa đẹp mắt, chân thực, gắn với
chốn linh thiêng là thần điện của tín ngưỡng
thờ Mẫu Tứ phủ và các lớp tín ngưỡng liên
quan (thờ Đức Thánh Trần, các vị Chúa Bà, Tứ
vị Hồng Nương); gắn với cõi thực tại là một số
nghi lễ và việc sửa soạn cụ thể trong thực hành
tín ngưỡng. Nhìn chung, đây là công trình
mang nội dung thực hành tại các đền, điện và
các giá hầu Mẫu Tứ phủ hơn nội dung nghiên
cứu chuyên sâu.
Năm 2018, PGS.TS. Nguyễn Thị Hiền công
bố đề tài cấp Bộ và in thành sách Quản lý
nhà nước và vai trò cộng đồng trong bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể [4].
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của công trình
không phải là tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng tính
gợi mở lý luận của công trình với vấn đề đang
quan tâm tương đối sâu sắc.
Tác giả Mai Thị Hạnh được Hội Văn nghệ dân
gian Việt Nam trao giải thưởng và hỗ trợ xuất
bản cuốn Bản hội trong Đạo Mẫu, tạo lập vốn
xã hội trong bối cảnh chuyển đổi. Công trình coi
bản hội Đạo Mẫu là một cộng đồng tôn giáo
và đề cập tới sự hình thành của bản hội, cơ cấu
tổ chức, thực hành nghi lễ, và đặc trưng của
bản hội Đạo Mẫu trên quan điểm lý thuyết về
vốn xã hội và tạo lập vốn xã hội trong bối cảnh
chuyển đổi. Tác giả cho rằng “Việc tạo lập vốn
xã hội của các thành viên bản hội lại phản ánh
những vấn đề của xã hội chuyển đổi đó là tính
động, tính đa chiều, phức tạp của quan hệ xã
hội và vốn xã hội. Điều quan trọng nữa là việc
tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội
chính là sự phản ánh trở lại và đóng vai trò
ngày càng lớn hơn đối với đời sống con người
trong xã hội đương đại của Đạo Mẫu nói riêng,
của tôn giáo tín ngưỡng nói chung” [3, tr.231].
Tiếp theo, các bài viết đăng trên tạp chí
khoa học chuyên ngành của một số nhà
nghiên cứu quan tâm đến nội dung này trong
năm 2017 và 2018, có thể kể đến GS.TS. Kiều
Thu Hoạch2 với bài Đối thoại với hát chầu văn
và lên đồng ở Việt Nam (Tạp chí Di sản văn hóa,
số 1/2017) và bài Nhận thức về nghi lễ lên đồng
qua một số thuật ngữ trên báo chí mấy năm
gần đây (Tạp chí Văn hóa học, số 1/2018). Qua
những bài viết trên, GS.TS. Kiều Thu Hoạch
đã trình bày tương đối chi tiết về Vu hích và
Shaman giáo của Trung Quốc, đối thoại với tác
giả các công trình Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng ở Việt Nam; Đạo Mẫu ở Việt Nam trên
tinh thần thẳng thắn, khoa học và nhận định
rằng nhược điểm của cụm công trình nêu trên
là vấn đề phương pháp luận, vấn đề tiếp cận
khoa học, nên việc khẳng định “Đạo Mẫu Việt
Nam là một tín ngưỡng nguyên thủy, e cũng
chưa có cơ sở” [5, tr.60] và quan điểm Tam phủ,
Tứ phủ thể hiện chưa nhất quán về lập luận và
dẫn chứng khoa học. Bên cạnh đó, bài viết còn
đề cập tới nội dung tổng quan về tín ngưỡng
thờ Mẫu và nghi thức lên đồng, nội dung của
Hát văn với những giá trị văn học và âm nhạc
[5, tr.61-64]. Ông cho rằng việc sử dụng tùy
tiện thuật ngữ là do các nhà nghiên cứu chưa
tiếp cận được những tư liệu thích đáng. Sau
thời điểm Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ được
ghi danh “ngót một năm, mà các cơ quan chức
năng, đứng đầu là Viện Văn hóa Nghệ thuật
quốc gia Việt Nam cùng Bộ chủ quản vẫn ngồi
im, chưa có động thái nào nhằm triển khai việc
nghiên cứu khoa học để hiểu đúng, hiểu sâu
về tín ngưỡng thờ Mẫu, từ đó mà bảo tồn, phát
huy như một hiện tượng văn hóa đặc sắc của
13Số 28 - Tháng 6 - 2019
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
người Việt. Đó quả là một điều đáng tiếc lắm
thay!” [6, tr.96, 97].
Cũng trên Tạp chí Di sản văn hóa, tác giả
Võ Thị Hoàng Lan có bài viết Về những bà mẹ
thiêng liêng mang tính khởi nguyên của người
Việt đăng trong số 1/2017. Bài viết cho rằng
với người Việt, gắn với quá trình tiến từ vùng
núi cao xuống hạ châu thổ, “có 4 vị thánh Mẫu
- lực lượng quyền năng tối cao đứng đầu sáng
tạo 4 miền của vũ trụ (Trời - Rừng - Đất - Nước)
- có đủ khả năng bảo trợ cho mọi mặt cuộc
sống của cư dân nông nghiệp” [7, tr.68]. Bà
Mẹ thiêng liêng mang tính khởi nguyên được
“hội tụ”/nhập vào biểu tượng Thánh Mẫu Tứ
phủ “đã không diễn ra theo kiểu cộng vào một
cách cơ học, mà tư duy dân gian đã khái quát
hóa những đặc điểm/quyền năng tiêu biểu
của các Ngài để trở thành Thánh Mẫu” [7, tr.68].
Tác giả Trần Lâm và Thế Hùng công bố bài
viết Trở lại với tục thờ Mẫu Tứ phủ của người Việt
(Tạp chí Di sản văn hóa, số 1/2018). Bài viết đã
thể hiện tư duy bao quát về tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt, chia ra 5 hệ thống và đánh
giá cao vai trò của Thánh Mẫu Liễu Hạnh khi
Bà “nhập vào tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và
đưa tín ngưỡng này phát triển theo một chiều
hướng mới, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử” [8,
tr.106].
Tác giả Từ Thị Loan có bài viết Tín ngưỡng
thờ mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong mối quan hệ với
các tín ngưỡng, tôn giáo khác ở Việt Nam (Tạp
chí Di sản văn hóa, số 2/2018), đề cập tới sự
thâm nhập, lan tỏa của tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ vào Phật giáo, với mối quan
hệ với Đạo giáo và các tín ngưỡng dân gian
khác và cho rằng “thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
là một tín ngưỡng dân gian bản địa phản ánh
rõ nét tâm hồn người Việt và có một sức sống
mãnh liệt, dẻo dai, uyển chuyển, phù hợp với
hoàn cảnh lịch sử” [9, tr.71].
Tác giả Chu Xuân Giao công bố các bài viết:
Về kết cấu kép ở trung tâm truyền thuyết hệ thần
Liễu Hạnh qua khảo sát thần tích Đệ tam tiên
chúa được phụng thờ ở Nga Sơn và Nghĩa Hưng
(Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 1/2017);
Hình ảnh Mẫu Liễu và phong trào dân tộc đầu
thế kỷ XX: Trường hợp trí thức khoa bảng Trần
Tán Bình với câu đối dâng năm 1922 cho đền
Cổ Lương (Tạp chí Nghiên cứu và phát triển,
số 3, số 4/2017); Tổng quan về hệ thống Tứ phủ
trong thực hành tín ngưỡng của người Dao (Tạp
chí Dân tộc học, số 1/2017); Nội dung của bộ
Tam Phủ trong tư liệu phương Tây và tư liệu quốc
ngữ thời kỳ sớm (Tạp chí Văn hóa dân gian, số
4/2017); Vũ trụ quan Phật giáo phản ảnh trong
nhóm sắc phong sớm nhất cho Liễu Hạnh công
chúa vào nửa cuối thế kỷ XVII (Tạp chí Văn hóa
dân gian, số 5/2018); Căn cước lịch sử của Thánh
Mẫu: Phát hiện và luận giải đạo sắc phong cổ
nhất mang niên đại 1683 cho Liễu Hạnh công
chúa hiện còn nguyên tại Phủ Giầy ở Nam Định
(Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 5/2018).
Qua các bài viết nêu trên, TS. Chu Xuân Giao đề
cập tới nhiều nội dung nhưng tựu trung muốn
khẳng định tên gọi của tín ngưỡng thờ Mẫu
qua hệ thống thư tịch với những dẫn chứng
cụ thể.
Tác giả Trần Đại Vinh công bố bài viết Tín
ngưỡng thờ Mẫu và chư vị ở Thừa Thiên Huế
(Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 1/2017);
Nguyễn Vũ Hoàng công bố bài viết Quá trình
tạo dựng hình ảnh mới sau thiên tai, so sánh
trường hợp người Mỹ gốc Phi và người Mỹ gốc
Việt ở New Oraleans (Tạp chí Dân tộc học, số
5/2017).
Tháng 12/2018, Hội thảo khoa học Phật
giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam được
tổ chức tại Học viện Phật giáo Việt Nam, Sóc
Sơn, Hà Nội, có sự phối hợp giữa Giáo hội Phật
giáo và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
do Viện Nghiên cứu Tôn giáo làm đầu mối. Kỷ
yếu hội thảo dày 613 trang, gồm 71 bài (kể cả
phát biểu khai mạc và đề dẫn) trong đó tập
trung vào 3 chủ đề lớn: Những vấn đề chung
về Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt
Nam; Biểu hiện của mối quan hệ giữa Phật
giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu; Mối quan hệ giữa
Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu - Đạo Mẫu.
Sau hai năm Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của
người Việt được ghi danh là di sản phi vật thể
đại diện của nhận loại, đây là cuộc hội thảo
quy mô nhất được tổ chức nhằm “ góp phần
làm sâu sắc hơn, mang lại nhận thức đầy đủ
hơn, đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa Phật
giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu, về giá trị của mối
Số 28 - Tháng 6 - 201914
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
quan hệ này, cũng như những giá trị của tín
ngưỡng thờ Mẫu trong lịch sử và đời sống văn
hóa, tinh thần hiện nay. Những kết quả của Hội
thảo cũng sẽ góp phần đưa ra những khuyến
nghị đối với các cấp các ngành trong công tác
quản lý nhà nước nhằm khắc phục những hoạt
động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm ảnh
hưởng đến giá trị di sản văn hóa được UNESCO
công nhận cũng như làm sai lệch nhận thức
của nhân dân” [11, tr.9].
Về công trình luận văn, luận án, năm 2017,
học viên Nguyễn Thị Minh Thu bảo vệ luận
văn thạc sĩ Việt Nam học tại Khoa Việt Nam
học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội với đề
tài Mạng lưới xã hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu
(nghiên cứu trường hợp bà đồng Đặng Thị Mát,
thủ nhang đền Tam phủ thị xã Sơn Tây thành
phố Hà Nội). Đây là hướng nghiên cứu mới,
vận dụng lý thuyết về mạng xã hội để nghiên
cứu một đồng thầy tương đối kỹ lưỡng, cần
được ghi nhận. Cũng trong năm 2017, ThS.
Nguyễn Văn Bốn bảo vệ luận án Tín ngưỡng
thờ Mẫu của người Việt ở Khánh Hòa, đề cập
tới tín ngưỡng thờ Mẫu ở những dạng thức cụ
thể gắn với những điện thần Mẫu Tam phủ, Tứ
phủ tiêu biểu tại địa phương này (đã xuất bản
thành sách, tháng 1/2019). Năm 2018, ThS. Vũ
Hoàng Hiếu bảo vệ luận án tiến sĩ Người đồng
tính trong xã hội Việt Nam đương đại: từ ẩn ức
đến tự sự. Trong luận án này, lên đồng gắn với
các nghi lễ thờ Mẫu cũng được tác giả đề cập
tới ở một nội dung nhỏ.
2. Những đánh giá ban đầu
Căn cứ vào những công trình nghiên cứu
đã cập nhật ở trên (có thể chưa bao quát đầy
đủ), chúng tôi có một số ý kiến dưới đây:
Thứ nhất, về lý thuyết, chúng tôi xuất
phát từ học thuyết nhận thức xã hội (social
congnitive theory) của tác giả Albert Bandura
[2], giáo sư về khoa học xã hội thuộc Trường
Đại học Stanford, đã giành được giải thưởng về
Tâm lý học của Đại học Louisville Grawemeyer
năm 2008. Quan điểm học thuyết nhận thức xã
hội của ông được mô hình hóa trong sơ đồ 1.
Học thuyết nhận thức xã hội gồm 3 yếu
tố có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ
với nhau. Mối tương quan giữa hành vi và môi
trường trong hệ thống bộ ba yếu tố là tác động
qua lại theo 2 chiều. Trong cuộc sống hàng
ngày, khi con người thay đổi hành vi sẽ tạo ra
những thay đổi về đặc điểm của môi trường.
Trong khi đó, môi trường luôn biến động và
thay đổi, nó sẽ tác động làm thay đổi hành vi
dù muốn hay không. Mối tương quan giữa yếu
tố môi trường và cá nhân được quan tâm như
sự tương tác lẫn nhau giữa các đặc điểm của cá
nhân và sự ảnh hưởng của môi trường. Những
mong muốn của con người, niềm tin, khuynh
hướng cảm xúc và năng lực nhận thức được
phát triển và điều chỉnh bởi ảnh hưởng từ xã
hội. Mỗi người có những phản ứng khác nhau
với môi trường của họ và biểu hiện thông qua
những gì họ nói và làm...
Căn cứ vào nội dung lý thuyết này, chúng
tôi đánh giá các nghiên cứu trong các sách, đề
tài, luận văn, luận án và bài báo khoa học là sản
phẩm được chủ động tư duy trên nền tảng sự
tác động của bối cảnh hậu vinh danh di sản tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ một cách chủ động,
sáng tạo với tinh thần khoa học khách quan,
không bị áp đặt.
Thứ hai, từ những nội dung đề cập trong
các công trình đã nêu, chúng tôi đánh giá
những nghiên cứu liên quan tới nội dung tín
ngưỡng thờ Mẫu đã được quan tâm ở những
nội dung cụ thể.
Về các đánh giá trong bài viết của GS.TS.
Kiều Thu Hoạch, trong phần tóm tắt có viết:
“Bài viết nhằm phản biện và chấn chỉnh những
nhận thức sai lầm, qua cách sử dụng các từ
ngữ tâm linh một cách tùy tiện, trong một số
sách báo mấy năm gần đây về nghi lễ lên đồng.
Đồng thời trên cơ sở đó, tác giả cung cấp một
Sơ đồ 1. Sơ đồ nhận thức xã hội của Albert Bandura
15Số 28 - Tháng 6 - 2019
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
số thư tịch cổ Hán Nôm tiêu biểu như Nội đạo
tràng, An Nam phong tục sách về tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” [6, tr.91]. Nội
dung bài viết trao đổi về tên Đạo Mẫu, về đồng
thầy, về nghi lễ lên đồng, về giải phóng ẩn
ức. Những trao đổi cụ thể và sắc sảo của một
người uyên thâm Hán - Nôm, giỏi tiếng Pháp,
đem lại sự lý thú cho người đọc, trong đó, ông
khẳng định: tên gọi Tam phủ dùng trong hồ sơ
tín ngưỡng thờ Mẫu đã căn cứ theo các tài liệu
trong kho sách Hán - Nôm có từ trước.
Các bài viết của TS. Chu Xuân Giao đề cập
tới nhiều nội dung, song tựu trung tác giả đã
căn cứ vào thư tịch khảo cứu kỹ lưỡng nguồn
trong nước và ngoài nước, phương Tây và
phương Đông để khẳng định nguồn gốc của
Tam phủ và Tứ phủ trong tín ngưỡng thờ
Mẫu có liên đới chặt chẽ với Phật giáo và Đạo
giáo của văn hóa phương Đông, cũng như có
những so sánh với văn hóa phương Tây (Hy
Lạp, La Mã). Cùng với các bài viết đã công bố
trong năm 2017, 2018, được biết tác giả Chu
Xuân Giao đồng thời tiến hành nghiên cứu đề
tài cấp Bộ, liên quan tới nội dung này. Tác giả
cho rằng, tên gọi dành cho danh hiệu di sản
nên có sự điều chỉnh và đề xuất tên gọi thay
thế là tín ngưỡng Tam Tứ phủ. Có thể đánh giá
đây là những nghiên cứu chuyên sâu về tên
gọi và nguồn gốc tín ngưỡng trên tư liệu thư
tịch rất đáng xem xét. Để rộng đường đánh
giá trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cho
rằng, tác giả Chu Xuân Giao nên tiếp cận quy
trình làm hồ sơ quốc gia đệ trình UNESCO để
hiểu rõ hơn nội dung gắn với lộ trình chỉnh đổi
tên hồ sơ (mà trong cuốn Tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ của người Việt hành trình đến di sản
nhân loại đã có ít nhiều thông tin khá chi tiết).
Thứ ba, quan điểm của chúng tôi thể hiện
qua việc đánh giá sự nỗ lực cống hiến của các
nhà nghiên cứu đối với nội dung liên quan
tới tín ngưỡng thờ Mẫu là: Trải qua thời gian,
quá trình nhận thức của xã hội đã có những
thay đổi rất sâu sắc mà nguồn gốc bắt nguồn
từ sự thay đổi nền tảng xã hội, sau đó nó tác
động lên con người và điều chỉnh hành vi của
nhà nghiên cứu. Hậu ghi danh, với những bề
bộn ngổn ngang của công tác nghiên cứu và
đặc biệt là công tác quản lý di sản (gắn với
việc thực hành nghi lễ hầu đồng là chủ yếu)
đã được thể hiện trong quan điểm của các tác
giả là nhà nghiên cứu cũng như là nhà quản
lý trong công trình Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ của người Việt, hành trình đến di sản nhân
loại. Chúng tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng,
Chương trình quốc gia bảo vệ và phát huy giá
trị tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người
Việt (được nêu trong sách kể trên) mà Chính
phủ sắp ban hành đã ghi cụ thể các việc cần
tiến hành liên quan tới các cơ quan nhà nước
và các cơ quan phi chính phủ (Viện Văn hóa
Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, tỉnh Nam Định
và Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa
tín ngưỡng Việt Nam của Hội Di sản văn hóa
Việt Nam), các nhà nghiên cứu và cộng đồng,...
cùng có nhiệm vụ, trách nhiệm xuất phát từ vị
trí của mình để góp phần thực hiện tốt chương
trình nêu trên3. Bên cạnh đó, cách tiếp cận
Quản lý nhà nước và vai trò cộng đồng trong bảo
vệ và phát huy giá trị di sản của PGS.TS. Nguyễn
Thị Hiền với quan điểm tiến bộ, cập nhật quan
điểm của UNESCO trên tinh thần quản lý di sản
văn hóa theo định hướng, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Tác giả đưa ra 3
nhóm giải pháp và cho rằng giải pháp về tổ
chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
là 1/12 giải pháp thuộc về Nhóm giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Tóm
lại, về nhận thức, tác giả kết luận rằng: “Nhà
nước chỉ đạo, định hướng, hỗ trợ, giám sát; còn
cộng đồng thực hiện với vai trò chủ động, tích
cực, phát huy quyền tự chủ, tự quyết định. Giải
quyết được mối quan hệ theo đúng phương
thức này thì công tác bảo vệ, phát huy di sản
văn hóa phi vật thể sẽ được thực hiện tốt và
đảm bảo sức sống của di sản trong hiện tại,
giảm thiểu những rủi ro cho tầm nhìn của di
sản trong tương lai” [4, tr.229]. Chúng tôi rất
đồng tình với kết quả nghiên cứu mới, gắn với
những quan điểm quản lý khoa học của tác giả
công trình.
Vậy là, có thể đánh giá ngắn gọn rằng,
những nghiên cứu đã được ra mắt trong năm
2017, 2018 và sẽ còn tiế