Nhân vật bi kịch trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh

TÓM TẮT: Tạ Duy Anh là tác giả của những tác phẩm luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã hội và thời đại. Ông đặc biệt nhạy cảm với nỗi đau, day dứt trước sự hữu hạn của kiếp con người và những đổ vỡ trong cuộc đời. Nhân vật trong tiểu thuyết của ông hầu hết là những nhân vật bi kịch, con người “nếm trải”, sống trong trạng thái tinh thần căng thẳng, bị dằn vặt với đủ mọi cảnh ngộ khác nhau. Qua đó, cuộc sống hiện lên với biết bao nhọc nhằn, nghiệt ngã, những đam mê, lầm lạc, những ước vọng, niềm tin. và những suy tư trăn trở về thân phận con người.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 335 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân vật bi kịch trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG NHÂN VẬT BI KỊCH TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH Nguyễn Thị Ninh Khoa Ngữ văn – KHXH Email: ninhnt@dhhp.edu.vn Ngày nhận bài: 18/3/2020 Ngày PB đánh giá: 27/4/2020 Ngày duyệt đăng: 08/5/2020 TÓM TẮT: Tạ Duy Anh là tác giả của những tác phẩm luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã hội và thời đại. Ông đặc biệt nhạy cảm với nỗi đau, day dứt trước sự hữu hạn của kiếp con người và những đổ vỡ trong cuộc đời. Nhân vật trong tiểu thuyết của ông hầu hết là những nhân vật bi kịch, con người “nếm trải”, sống trong trạng thái tinh thần căng thẳng, bị dằn vặt với đủ mọi cảnh ngộ khác nhau. Qua đó, cuộc sống hiện lên với biết bao nhọc nhằn, nghiệt ngã, những đam mê, lầm lạc, những ước vọng, niềm tin... và những suy tư trăn trở về thân phận con người. Từ khóa: Bi kịch, nhân vật, Tạ Duy Anh, tiểu thuyết. TRAGIC CHARACTERS IN THE NOVELS OF TA DUY ANH ABTRACT: Ta Duy Anh is the author of works that always make readers startle and ponder about thorny problems of society and the era. He is particularly sensitive with the pains, tormented with the finality of human existence and the breakdowns in life. Characters in his novels are mostly tragic characters, “experienced” people living in a state of stress, tormented, suffering with different circumstances . Thereby, life appears with so much hardship, cruelty, passions, mistakes, desires, beliefs and thoughts about the destiny of human. Keywords: Tragic, character, Ta Duy Anh, novel. 1. MỞ ĐẦUG Đại học Hải Phòng Đến nay, tên tuổi Tạ Duy Anh đã trở nên quen thuộc với độc giả cả nước. Ông đã từng làm “cháy” báo Văn nghệ trên tất cả các sạp báo bằng truyện ngắn Bước qua lời nguyền (1989), khẳng định độ chín hơn của ngòi bút bằng tiểu thuyết Lão Khổ (1992), gây xôn xao dư luận sau sự cố cuốn Đi tìm nhân vật bị thu hồi (2002) và thực sự trở thành gương mặt nhà văn tiêu biểu năm 2004 với tiểu thuyết Thiên thần sám hối. Không lâu sau, ông tiếp tục cho ra mắt bạn đọc thêm một tiểu thuyết gây tranh cãi - Giã biệt bóng tối (2008). Sớm mẫn cảm với những bi ai của cuộc đời và nỗi thống khổ sâu xa của con người, Tạ Duy Anh đã đến với nghề văn như một nghiệp duyên, định mệnh. Ông băn khoăn khi đã mang kiếp con người thì dù ở đâu cũng không thoát khỏi những lớp sóng trùm lên bể khổ. Ông day dứt khi nhận ra con người vừa là nạn nhân vừa là tội nhân gây ra bi kịch của đời mình. Chính điều đó đã thôi thúc ông viết về nỗi đau, bi kịch như lời chia sẻ, đồng cảm, như sự sám hối, “chuộc lỗi”, cũng là để “giải oan cho những kiếp người”. 2. NỘI DUNG 2.1. Bi kịch vì kiếp sống như một chuyến lưu đày 27TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020 Trải qua bao nỗi đau của con người và cuộc đời, Tạ Duy Anh nghiệm thấy “kiếp sống như một chuyến lưu đày mà ở đó, người ta không thể yêu đương, sinh tồn một cách tự nhiên và có khát vọng mà bị biến thành công cụ của thù hận, dục vọng, bản năng, phá hoại Con người chỉ còn biết hưởng thụ sự phù du của thân phận và yêu thương cho nhẹ nghiệp” [4; 423]. Cuộc đời thì rộng lớn không cùng, lại vơ vẩn đong đưa xoay vần như con tạo. Con người lại “hết sức nhỏ nhoi, yếu đuối và dễ bị cám dỗ hơn những gì - do kiêu ngạo nó tưởng tượng về mình” [4; 424]. Hoàn cảnh mà cái xấu bao vây cái tốt, cái ác lấn lướt cái thiện rất dễ khiến con người sai lầm mà rơi vào bi kịch. Bản thảo của kiếp người vì thế vốn đã đầy rẫy những khổ đau. Nhân vật tiêu biểu cho bi kịch này là lão Khổ. Trước những xoay vần đôi khi tang tóc, bất hạnh của đời người, lão đã thấy “ở một khía cạnh nào đó, sống là cuộc đi đày và cái chết là dấu hiệu đầu tiên của tự do” [1; 237]. Bản thân lão là một biểu tượng sinh động cho sự long đong của kiếp người. Lão đã nếm trải đủ các cung bậc thăng trầm, lên voi xuống chó. “Đời lão có lúc vi vu như diều khiến lão sống thực mà tưởng như mơ và ngược lại” [1; 13]. Đang xênh xang vinh quang như chủ soái, thoắt cái đã thành phạm nhân cay đắng ê chề: mười sáu tuổi đi ở chăn trâu cho địa chủ chịu cảnh đói rét, đòn roi; lúc đi theo cách mạng thì đúng vào thời kỳ đen tối, ăn hầm ngủ hố; vừa mới có quyền trong tay thì cải cách ruộng đất thành ngay thằng Quốc dân đảng; được minh oan, trở thành chiến sĩ cách mạng; sau mười năm vắt kiệt sức ra cống hiến cho sự nghiệp lại bị quy là gián điệp, chui vào tổ chức phá hoại ngầm Kết cục là cái giấy gọi ra tòa dành cho một kẻ mất hết khả năng làm công dân, nếu không phải “gở chết” thì cũng “tâm thần hay rửng mỡ” [1; 10]. Lão lừng danh một thời, cũng ba đào một thời, lụn bại một thời. Tất cả những việc lão làm đều cho ra kết quả trái với ý định của lão. Lão muốn thế này nó lại ra thế kia như trò đùa ác của con tạo. Lão vừa là nạn nhân vừa là tội nhân gây ra bi kịch của đời mình. Lão gây ra mối thù với chi họ Ất, cũng khổ sở vì sự trả thù của chi họ Ất. Lão muốn chứng tỏ uy quyền tuyệt đối với con trai nhưng chính lão là người đã châm ngọn lửa thiêu cháy uy quyền ấy. Lão chết điếng người khi nhận ra con trai cưng của lão đã đem lòng say đắm Giang Tâm - giọt máu của kẻ thù. Lão vật vã sống trong nỗi ê chề của kẻ cảm thấy mình bị phản bội. Lão bầm gan tím ruột vì tất cả những gì lão chắt chiu gây dựng nên chỉ đáng cho nó châm một mồi lửa. Trong thoáng chốc, tất cả niềm kiêu hãnh, hy vọng và những dự kiến to tát mà lão đặt vào nó đều tan tành theo mây khói. Lão đã thua chi họ Ất trong việc nuôi hận thù ở thế hệ sau. Dẫu lão có căm tức mà xếp con trai lão vào hàng ngũ kẻ thù thì thực tế đó là không thay đổi được. Lão đành ôm hận một mình đối phó với cả một chi họ mạnh đang được khôi phục lại. “Lão phải ngậm đắng nuốt cay vì một lũ những thằng “khẩu phật tâm xà” âm mưu tàn hại cuộc sinh nhai của lão” [1; 187]. Tất cả những gì lão mơ ước và gắng sức tạo nên đã thực sự trở thành tai vạ cho đời lão. Có lúc, lão cũng mơ màng thấy được nguyên do tất cả nỗi long đong lận đận của đời mình nhưng lão không thể sống khác một cuộc đời như thế. Lão đã làm tất cả vì niềm tin, vì mong muốn tốt đẹp cho cuộc sống của dân nghèo, nhưng lão cũng “vì mù quáng mà gây ra tội lỗi”. 28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Trong giấc mơ kinh hoàng, lão đã tưởng tượng ra lời kết án của Quan Tào âm phủ: “ngươi phá chợ, cấm đi lễ nhà thờ, tập hợp tượng Thích ca nấu thành đồng cục, bắt những cặp vợ chồng không yêu nhau phải ở với nhau () ngươi bắt nhân dân ăn thịt nhau vì một cái bánh vẽ, tội ấy định thế nào?” [1; 220]. Cuối cùng thì ý nghĩa của cuộc sống là gì, lão Khổ đâu có biết. Lão chỉ biết mình đang cô đơn, lạc lõng giữa đồng loại. Lão đã sai lầm như nhân loại sai lầm là “không chịu tìm lí do tồn tại của mình” nên đời lão mới bọt bèo vô nghĩa. Cuộc đời cho lão đủ cả: hạnh phúc, niềm tự đắc và nỗi nhục nhã ê chề, chết không được mà sống cũng chẳng xong. Chưa hết bi kịch này, lão đã rơi vào bi kịch khác. Đi kêu oan các cửa thì “những lời hứa tuôn ra như mưa rào” nhưng trong con mắt các đấng bậc bề trên thì lão chỉ là “một thằng cha nông dân ngớ ngẩn, quen thói kêu trời ăn vạ”. Vậy mà lão vẫn “mù lòa trong niềm tin thánh thiện”. Lão tin rằng vẫn sẽ có bánh xe công lý, có sự cao đẹp nào đó chi phối tất cả. Tiếc thay, đó là niềm tin lạc loài nên đời lão mới thăng trầm tủi cực Đi gần hết cuộc đời, lão mới ngộ ra con người có khi là tất cả nhưng cũng có khi chẳng là gì trước thời cuộc. Bi kịch của lão Khổ cũng là bi kịch của thời đại, của lịch sử vì “lão già nông dân thất học ấy hóa ra là hiện thân của lịch sử” [1; 14], “là nhân chứng cuối cùng đáng tin cậy nhất về một quá khứ đang hấp hối” [1; 248]. Bi kịch của lão là bi kịch của một con người bị kẹt giữa hai thời đại: thời của Chánh Tổng và thời của con trai lão (con trai lão bỏ đi để chống lại lão. “Cái ngày ấy, không ai ngờ, trở thành ngày mở đầu cho những trang sử mới của làng Đồng”). Thể chế của thời trước là sản phẩm của sự đồng hóa lâu dài giữa hai nền văn hóa Việt Nam - Trung Hoa và thân phận một nước nhược tiểu tất yếu bị áp đặt. Thể chế của thời sau là một mô hình thử nghiệm mới - ở giai đoạn đầu của cải cách ruộng đất - còn đầy hạn chế và tiêu cực mà lão không được trang bị kiến thức để hiểu và “lựa theo chiều” nên lão bị bật tung khỏi guồng máy xã hội. Lão nghiễm nhiên trở thành nạn nhân bi hùng của thời cuộc. Lão rất tự hào về lịch sử oai hùng của lão, nhưng càng tự hào bao nhiêu, đời lão càng thảm hại bấy nhiêu. Càng đề cao mình bao nhiêu, lão càng biến mình thành con người nhỏ nhặt bấy nhiêu. Càng muốn vì dân bao nhiêu, lão càng làm những việc phản con người bấy nhiêu Hạn chế của nhận thức cùng hạn chế của thời cuộc đã khiến lão làm xảy ra biết bao chuyện bi hài. Lão cứ sống theo nhân cách và chân lý của riêng mình nhưng cuộc đời đen bạc lại không chấp nhận một nhân cách như thế. Lão thành ra vừa là nạn nhân của thời cuộc, vừa là nạn nhân của chính mình. Lão được tự do và hành động rất lý trí theo đường lối xã hội nhưng suốt đời lão lại bị chính cái giáo lý của mình hành hạ. “Lão đã đắc lực xây dựng nên cái khổ của mình. Tên lão, là bản chất lão, là con đẻ của cái guồng máy mà lão là nguyên nhân tạo dựng, để sau này nó nghiền nát lão” [5]. Thấu cảm được bi kịch của lão Khổ, Chị Thư trong tòa án lương tâm của lão đã không hề oán trách lão, bởi chị nghĩ “những ai sinh ra làm người đều khốn khổ chẳng riêng gì em và ông” cho nên “em cầu chúc cho ông” [1; 214]. Lão Tự đến cầu xin lão Khổ “mở lượng hải hà cho con cháu cũng vì lão nghĩ: đời người chỉ ngắn tày gang” [1; 410]. Ông khách đi qua bao 29TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020 sóng gió của cuộc đời mới giật mình nhìn lại: “Ông Khổ ạ, không biết ở tuổi ông bây giờ ông cảm thấy gì. Với tôi, đó là nỗi cô đơn, sự hãi hùng. () Kiếp người bèo bọt vô nghĩa quá” [1; 206]. Cô gái câm trong Đi tìm nhân vật cũng thương cảm nhận thấy nhân vật tôi “như là hiện thân cho sự đày ải của kiếp người” [2; 21]. Nằm trong bụng mẹ mà bào thai trong Thiên thần sám hối cũng cảm nhận hết được những bất trắc nguy hiểm của cuộc sống ngoài kia, “có biết bao tai vạ khó lường” [3; 13]. Những mảnh đời khác như lão Tự, lão Phụng, mụ Quản, chị Thư(Lão Khổ), cậu bé Thượng (Giã biệt bóng tối) cũng là những mảnh bi kịch khác nhau của kiếp người và thời cuộc. Xây dựng những nhân vật bi kịch này, tác giả ngoài việc minh chứng cho quan niệm đời là bể khổ, kiếp sống là chuyến lưu đày, còn thể hiện tâm niệm của mình về lịch sử: Bản thân lịch sử là vô ý, vô cảm và chẳng có giá trị gì với chính nó. Lịch sử chỉ là sự thay đổi các hình thái xã hội chứ không triệt tiêu được cái xấu, ngăn cản được bi kịch đến với con người. Nó chỉ có ý nghĩa tương lai ở khía cạnh kinh nghiệm và những bài học. Những bài học lịch sử, nhất là những bài học được rút ra từ những thảm họa cần phải được nhắc đi nhắc lại để tránh những sai lầm kế tiếp. Qua đây, nhà văn cũng muốn nhắn nhủ con người luôn phải tỉnh táo, cảnh giác và trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải biết dũng cảm vượt lên, không được đánh mất niềm tin vào cuộc sống. 2.2. Bi kịch - hậu quả của tội ác “Tội ác và trừng phạt” - sơ khai là chân lý ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác để thỏa mãn mong ước của người xưa. Về sau, đó là thuyết nhân quả của đạo Phật để răn dạy con người. Tạ Duy Anh đã vận dụng tư tưởng này, Việt hóa nó thành các dạng “đời cha ăn mặn đời con khát nước”, “ác giả ác báo” để cảnh tỉnh con người sẽ bị hành hình, trừng phạt khi lâm vào vòng quay của tội ác. Luật ở đời là “vay nhiều trả lắm”, không ai có thể chạy trốn được hành vi của mình. Cho nên, khi con người đã mắc vào vòng tội lỗi thì sự trừng phạt đến với họ là điều tất nhiên. Tạ Duy Anh cho rằng không thể loại bỏ được tội ác ra khỏi đời sống nhưng nếu có thể, cần phải nhận thức được bản chất và hậu quả ghê gớm mà nó mang lại. Vì vậy, ông đã đưa ra nhãn tiền những hình phạt khủng khiếp, có khi là sự trả giá bằng những bi kịch thê thảm để mọi người thấy sợ, biết sợ mà tránh xa và hạn chế. Sự trừng phạt với mỗi đối tượng khác nhau là khác nhau: trừng phạt và tự trừng phạt. Nếu đó không phải là chúa ra tay thì cũng đến từ chính lương tâm người có tội. Trải qua bao biến đổi bể dâu, những người dân làng Đồng (Lão Khổ) vẫn dai dẳng nuôi món nợ thù truyền kiếp, khắc cốt ghi tâm những lời nguyền hòng thanh toán, sát phạt lẫn nhau trong cuộc tranh chấp vị thế và quyền lực, để rồi, cuối cùng, họ phải chuốc lấy những kết cục đau lòng, những đắng cay điếm nhục. Tư Vọc nằm ác mộng mà giết phải em mình, lão Khổ phải trả giá bằng một kiếp sống trầy trật, vầy vật, nhục nhã đủ đường, sống nhục hơn cả chết; Lão Phụng chết vì hoang tưởng có một bầy âm binh đuổi theo mà sa xuống vực; Lão Tự ốm liệt giường liệt chiếu, chết trong sự cô đơn ghẻ lạnh của một kẻ bị ruồng bỏ (Lão Khổ). Còn gì dã man hơn sự trả thù của một cô gái điếm khi bị “một thằng chó nó lừa”: “Tao dắt con gái tao, tức con gái hắn đến cho hắn” 30 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG để “thằng dê cụ ấy vồ lấy, xơi ngay mà không biết hắn đang loạn luân!” [2; 66]. Thật khủng khiếp cho cảnh một đứa con giết cha để đòi lại công bằng cho mẹ. Bố nó là người đã hãm hiếp, làm nhục mẹ nó. Nhưng khốn thay, nếu không có hành động đồi bại ấy đã không có nó ở trên đời (Thiên thần sám hối) Sự trừng phạt đôi khi tỏ ra ác nghiệt khi không chịu từ bỏ một ai, ngay cả khi họ không còn đủ sức chống đỡ nữa, hay đã sám hối một cách thành thực. Những bà mẹ hối lỗi trong đau khổ muộn màng vì không giữ được sinh mạng nhỏ trong bụng mình, không còn khả năng sinh con, vĩnh viễn bị tước quyền làm mẹ (Thiên thần sám hối) là sự trừng phạt tàn bạo nhất, cũng là bi kịch khốc liệt nhất cho thấy một sự thật phũ phàng, rằng có những lỗi lầm không thể chuộc lại được, cũng không thể tha thứ hay cứu vãn, đó là lối sống buông thả, vật dục, ích kỷ, vụ lợi của con người. Còn có sự trừng phạt đáng sợ hơn là sự tự trừng phạt. Khi ý thức được lỗi lầm, con người sẽ bị dằn vặt lương tâm mà rơi vào cảnh đọa đày đau khổ. Sự hối lỗi sẽ khiến họ luôn ở vào trạng thái bất an, bị giày vò, cắn rứt, nhiều khi bấn loạn đến kinh hoàng. Tư Vọc (Lão Khổ) luôn trong trạng thái hoảng loạn tâm thần, hoang mang cực độ vì những cơn ác mộng có bóng ma đen dật dờ đòi nợ máu. Tội lỗi ám ảnh khiến vợ chồng kẻ đâm thuê chém mướn có chân trong UBND phường luôn thảng thốt mê man trong những cơn mơ hãi hùng, kinh dị (Thiên thần sám hối). Họ luôn cảm thấy bị rình rập, bị “dội nước lạnh lửa nóng” lên những phút giây hạnh phúc vô cùng hiếm hoi - Cái đáng ra rất êm ái thì người vợ thấy như dao đâm mà mỗi lần xong chị chỉ muốn lao ngay xuống vực. Lương tâm cô Giang luôn bị cào xé, cưa cắt bởi ý nghĩ “đứa con ra đời mà mẹ nó cũng không rõ bố nó là ai, hoặc bố nó sẽ không phải là người nâng niu nó hơn vàng, sẽ cung cúc kiếm tiền, kể cả bán liêm sỉ để nuôi nấng nó” [3; 84]. Cô hoảng hồn “sợ có thêm một cái mặt lưỡi cày và một nhân cách hèn hạ” [3; 84]. Cô muốn thú nhận với chồng để chính anh quyết định hình phạt cho cô. Nhưng khốn thay, có những sự thật không bao giờ có cơ hội được làm sáng tỏ. Nghĩ đến điều này, cô chỉ muốn cắn lưỡi chết ngay. Và cuối cùng cô phải tìm đến một lối thoát tàn độc: phá bỏ cái thai đi. Vì một hành động thô bạo tức thời mà nhân vật tôi (Đi tìm nhân vật) cứ bị ám ảnh bởi cái chết của con chim bồ câu và oan hồn những giọt máu. Lão Khổ thì bao đêm lội ngược về quá khứ để tự luận tội, tự bào chữa và tự “đong đếm lại những việc lão làm” để rồi xót xa, cay đắng. Lão ân hận vì “lão mang toàn nỗi khổ trút lên vợ lão” [1; 148], lão hú hồn vì suýt nữa sa xuống địa ngục của mụ Quản, lão “nguyền rủa lão bằng cách tự đấm vào ngực mình, vào mặt, răng nghiến ken két” [1; 156]. Lão băn khoăn liệu mình “có nhẫn tâm không” khi bắt con cái lão Tự bị phân biệt đối xử. Lão dằn vặt mình vì đã nỡ từ chối chị Thư - người đàn bà khốn khổ và mong chị trừng phạt cái lí trí phàm tục, tối tăm, ngu muội của lão [1; 214]. Lão cũng thừa nhận mình đã làm khổ nhân dân mà cứ tưởng là vì nhân dân Con người tội lỗi của lão không trốn tránh được chính mình. Trong cơn mơ, lão đã “hù lên một tiếng kinh hãi” khi nghe Quan Tào âm phủ tuyên án: “Tên Tạ Khổ này vì mù quáng mà gây tội lỗi Hình phạt với hắn là bắt về trần sống tiếp” [1; 421]. Hóa ra, cuộc sống lại chính là hình phạt khủng khiếp nhất vì trong cuộc sống, nếu con người không tự tạo được 31TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020 cho mình thiên đường thì họ rất dễ rơi vào địa ngục. Tội lỗi, ân hận quả là một cái gì đó rất nặng nề, đôi khi vượt quá sức chịu đựng của con người. Nhưng mặc cảm về tội lỗi cũng là cách nâng con người ta lên cao hơn, đẹp hơn và thấy cuộc đời còn ý nghĩa. Ả cave trong Giã biệt bóng tối đã quyết tâm làm lại cuộc đời bằng sự phục hồi nhân phẩm, chở che cho cậu bé Thượng bằng tình mẫu tử của một người đàn bà từng trải. Lão Tự (Lão Khổ) từng khét tiếng một thời mà giờ đây sống hiền lành, nhu mì như hòn đất. Ả gái điếm (Đi tìm nhân vật) đã kim la tám tầng, sống cuộc sống gần như thú vật mà sau khi làm vấy bẩn một cậu ấm “còn nguyên tuyết”, ả đã hối hận ngồi khóc hồi lâu rồi trầm mình xuống sông tự tử. Chiếc nhẫn mặt ngọc cùng số tiền ả kiếm được “đêm qua” vẫn còn nguyên khi chết như một vật chứng cho bi kịch thê thảm của kiếp người. Đó cũng là minh chứng cho ánh sáng le lói của của lương tri. Ở một khoảnh khắc nào đó, khi lương tâm thức tỉnh, con người sẽ có cơ hội vượt thoát trở lại thiên đường từ địa ngục. Càng ngày, sự băng hoại đạo đức của con người càng làm các nhà văn hoang mang, lo lắng. Hồ Anh Thái đã rung chuông cảnh tỉnh ngày tận thế của cõi người, Tạ Duy Anh thì ráo riết bày tỏ nỗi bất an khi nhìn thấy con người đang chao đảo, ngả nghiêng trên đôi bờ thiện - ác. Ông mạnh dạn phơi bày tất cả những gì đáng kinh sợ nhất của con người cùng những hậu quả thảm khốc mà họ phải gánh chịu để gõ một tiếng chuông vào cõi ác mà lay thức cõi thiện, lay thức cái phần người trong mỗi con người. 2.3. Bi kịch - hậu quả của sự vong thân và nỗi sợ Từ rất nhiều năm, Tạ Duy Anh liên miên suy nghĩ về “hậu quả ghê gớm của nỗi sợ là không ai còn dám sống với chính mình và thay vì kiến tạo, họ tìm cách tàn phá”, nhất là cảm giác về sự chạy trốn của con người trước những thứ cứ luôn treo lơ lửng trên đầu mình. Khi đó, con người hoảng loạn và không kiểm soát được hành động. Họ sẵn sàng tham gia vào bất cứ việc gì mang tính huỷ diệt để tạo ra ảo tưởng thoát khỏi nỗi sợ. Kết quả là họ tự đưa mình đến những nỗi sợ khủng khiếp hơn. Cứ thế, con người không chỉ bị đánh mất mình mà còn bị cuốn vào vòng xoáy của cái ác, tinh thần bị suy nhược, cạn kiệt trong nỗi sợ triền miên. Đó cũng là bi kịch khủng khiếp nhất mà nỗi sợ gieo rắc cho loài người. Bi kịch này đã được Tạ Duy Anh thể hiện đó đây trong Lão Khổ, sau nữa là Thiên thần sám hối thông qua những giây phút kinh hoàng, những trạng huống bất an của nhân vật cùng những cơn đau và nỗi lo bị trừng phạt khi mắc phải lỗi lầm và tội ác. Nhưng chỉ ở Đi tìm nhân vật thì bi kịch này mới được đẩy tới mức tối đa thông qua một loạt nhân vật mang tính chất giả định như tôi, tiến sĩ N, Thảo Miên Điển hình nhất ở nhân vật tôi. Nếu bi kịch của lão Khổ (Lão Khổ) là bi kịch biểu trưng của thời đại, của lịch sử trong cảm nhận của Tạ Duy Anh về cõi đời thì bi kịch của nhân vật tôi là hiện thân cho sản phẩm của lịch sử. Nỗi sợ sự thực lịch sử, sợ sự tồn tại của bản thân cứ ngày càng đè nặng làm tôi méo mó về nhân cách, hoảng loạn về tinh thần. Tôi bị đánh cắp tuổi thơ, bị xoá mờ về nguồn gốc. Tổ tiên tôi suốt nhiều đời cho đến nay, trừ tôi, đ