Nhập môn khi luận về Triết Học

I. KHI LUẬN TRIẾT HỌC 1. Triết học và đối tượng của triết học Tư tưởng triết học ra đời từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII Tr. CN tại Trung Quốc, Ấn Độ và sau đó là Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ “Triết học”* xuất phát từ tiếng Hy Lạp philosophia (với sự kết hợp phileo) – yêu thích, và sophia – thông thái, có nghĩa là “yêu thích sự thông thái”, “yu mến sự thơng thi”, “khát vọng vươn đến sự thông thái”. Theo nghĩa rộng thuật ngữ “triết học” thể hiện: - khát vọng vươn đến tri thức, sự hiểu biết, thông thái, - “thế tục hóa” sự thông thái thần linh. Khi tự xem mình là “người yêu thích sự thông thái “(philosophos) Pythagoras (nửa sau thế kỷ thứ VI - đầu thế kỷ V Tr.CN) đã nhấn mạnh ý nghĩa của triết học là khát vọng vươn tới tri thức, tìm kiếm chân ly 1 . Platon (427 – 347 tr.CN) và Aristoteles (384 – 322 tr. CN) là những người đã phân biệt tri thức triết học với các lĩnh vực khác của nhận thức, xác định nhiệm vụ của triết học là nhận thức các chân lý vĩnh cửu và tuyệt đối (Platon), hay vươn tới cái phổ quát (universaly) trong thế giới, suy ra, đối tượng của triết học là cơ sở ban đầu và nguyên nhân của tồn tại. Như vậy triết học ở thời kỳ đầu tiên được xem như tri thức lý luận phổ quát duy nhất, bao trùm là “ khoa học của các khoa học”.

pdf193 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhập môn khi luận về Triết Học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 LỊCH SỬ TRIẾT HỌC DNG CHO HV CAO HỌC KHƠNG THUỘC CN TRIẾT HỌC (BI SOẠN CHO HỌC VIN CAO HỌC KHƠNG CHUYN NGNH TRIẾT) Đinh Ngọc Thạch, Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG-HCM (Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ) NHẬP MÔN KHI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC 2 I. KHI LUẬN TRIẾT HỌC 1. Triết học và đối tượng của triết học Tư tưởng triết học ra đời từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII Tr. CN tại Trung Quốc, Ấn Độ và sau đó là Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ “Triết học”* xuất phát từ tiếng Hy Lạp philosophia (với sự kết hợp phileo) – yêu thích, và sophia – thông thái, có nghĩa là “yêu thích sự thông thái”, “yu mến sự thơng thi”, “khát vọng vươn đến sự thông thái”. Theo nghĩa rộng thuật ngữ “triết học” thể hiện: - khát vọng vươn đến tri thức, sự hiểu biết, thông thái, - “thế tục hóa” sự thông thái thần linh. Khi tự xem mình là “người yêu thích sự thông thái “(philosophos) Pythagoras (nửa sau thế kỷ thứ VI - đầu thế kỷ V Tr.CN) đã nhấn mạnh ý nghĩa của triết học là khát vọng vươn tới tri thức, tìm kiếm chân ly1. Platon (427 – 347 tr.CN) và Aristoteles (384 – 322 tr. CN) là những người đã phân biệt tri thức triết học với các lĩnh vực khác của nhận thức, xác định nhiệm vụ của triết học là nhận thức các chân lý vĩnh cửu và tuyệt đối (Platon), hay vươn tới cái phổ quát (universaly) trong thế giới, suy ra, đối tượng của triết học là cơ sở ban đầu và nguyên nhân của tồn tại. Như vậy triết học ở thời kỳ đầu tiên được xem như tri thức lý luận phổ quát duy nhất, bao trùm là “ khoa học của các khoa học”. Từ thế kỷ XV trở đi quá trình chuyên biệt hóa tri thức đưa đến sự ra đời các ngành khoa học cụ thể, với hệ thống lý luận chuyên biệt của mình.Quan niệm truyền thống xem triết học là “khoa học của các khoa học” trên thực tế đã không thể hiện được bức tranh chung và lôgíc nội tại của sự phát triển tri thức. Định nghĩa triết học, do lệ thuộc vào các yếu tố khác nhau như đặc thù của từng khu vực (phương Đông, phương Tây), sự mở rộng không ngừng các lĩnh vực nghiên cứu, những biến đổi chính trị – xã hội, cách tiếp cận chủ quan của từng nhà triết học nên cũng không đạt được sự nhất trí hoàn toàn. Mặc dù vậy vẫn có thể chú ý đến các điểm chung nhất trong đối tượng nghiên cứu của triết học với tính cách là hình thái đặc thù của ý thức xã hội và dạng nhận thức tổng quát như sau: + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tồn tại, hay khía cạnh bản thể luận * của triết học. + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của nhận thức, hay khía cạnh nhận thức luận * của triết học. + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của sự vận động và phát triển xã hội, hay triết học xã hội. 1 Nhiều nh nghin cứu cho rằng Hraclít (Heraklitos) mới là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ” philosophos”, sau đó hình thnh thuật ngữ “philosophia”. 3 + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất và cơ bản nhất của con người, do con người tạo ra trong quá trình sáng tạo lịch sử, hay nhân học triết học* , triết học về con người. Tóm lại, triết học là học thuyết về những vấn đề và những nguyên lý chung nhất của giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người, mối quan hệ giữa con người với con người và với thế giới chung quanh, vị trí của con người trong thế giới Một cách cô đọng, có thể hình dung các bộ phận của triết học là học thuyết về tồn tại (hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này), học thuyết về nhận thức, học thuyết về giá trị, thông qua đó làm sáng tỏ yếu tố nhận thức và yếu tố đánh giá trong mọi hệ thống triết học. Là sản phẩm tất yếu của sự phát triển và hoàn thiện của xã hội, triết học còn được xem như thành tố không tách rời của văn hóa tinh thần, tinh hoa tinh thần của mỗi thời đại và mỗi dân tộc trên những chặng đường nhất định. Triết học luôn được trình bày dưới dạng lý luận, trong đó thể hiện hệ thống các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật, các phương pháp nghiên cứu; chúng mang tính chất chung nhất, được phổ biến vào tự nhiên, xã hội, con người (tư duy về tư duy) – đó là đặc trưng của lý luận triết học. Nói cách khác, triết học xem xét thế giới như nội dung chỉnh thể và xác lập quan niệm có tính hệ thống về chỉnh thể đó. C.Mc xem mọi triết học chân chính như tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình, l linh hồn sống của văn hóa2. Nhận định ấy là một chỉ dẫn quan trọng đối với việc tìm hiểu, đánh giá các học thuyết triết học trong quá khứ, với sự kết hợp tinh tế cách tiếp cận tri thức – thế giới quan và cách tiếp cận giá trị - văn hóa. 2. Triết học và thế giới quan Mọi triết học đều là thế giới quan, tức hệ thống các quan điểm về thế giới khách quan, về vị trí con người trong thế giới, về quan hệ của con người với thế giới xung quanh và với chính mình, kể cả thái độ sống của con người, chính kiến, lý tưởng, nguyên tắc nhận thức và hoạt động, định hướng giá trị, chịu sự chế định của những quan niệm ấy. Khái niệm “thế giới quan” rộng hơn khái niệm “triết học”, nghĩa là triết học cũng là một dạng thế giới quan, có thể so sánh với các thế giới quan khác như thế giới quan thần thoại, thế giới quan nghệ thuật, thế giới quan tôn giáo Thế giới quan là kết quả phản ánh thế giới. Nó có thể diễn ra ở cấp độ đời thường, chịu tác động trực tiếp của điều kiện sống và kinh nghiệm của 2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.1; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 157 4 con người, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cấp độ này của thế giới tồn tại dưới hình thức các quan niệm tự phát, thiếu hệ thống về thế giới. Sự phản ánh thông quan các khái niệm, vạch ra được tính quy luật, bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình, là sự phản ánh ở cấp độ cao, gắn với tư duy trừu tượng và tri thức lý luận. Triết học thuộc về cấp độ này của thế giới quan. Thế giới quan triết học thể hiện dưới hình thức khái niệm, phạm trù, dựa vào các thành tựu của khoa học chuyên biệt, cụ thể về tự nhiên, xã hội và con người như chất liệu sống cho những luận giải mang tính khái quát lý luận cao của mình. Ở phương diện lịch sử thế giới quan triết học xuất hiện muộn hơn thần thoại và tôn giáo. Theo các dữ liệu khoa học hiện đại tôn giáo xuất hiện vào khoảng hơn năm mươi ngàn năm trước đây, vào thời kỳ chớm bắt đầu tan rã của công xã nguyên thủy, còn thần thoại thì ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người đã trở thành hình thái ý thức chủ đạo, là thế giới quan của người nguyên thủy. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tưởng, của con người với thế giới xung quanh. Người nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và của trí tưởng tượng; những quan niệm của họ về sự vật còn mơ hồ, rời rạc, phi lôgíc. Các yếu tố tư tưởng và tính cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên chưa bị phân đôi. Triết học ra đời chính là sự vượt qua tư duy dưới hình thức hình tượng cảm tính và tự phát bằng tư duy lý luận, hay tư duy dưới hình thức các khái niệm, xác lập bức tranh về thế giới một cách có hệ thống. Triết học là trình độ tự giác trong quá trình phát triển của thế giới quan. Tóm lại, triết học là cấp độ cao nhất của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới. Theo nghĩa đó triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan; nó có chức năng tìm hiểu và vạch ra ý nghĩa hợp lý và các quy luật phổ biến của sự tồn tại và phát triển của thế giới và con người. II VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC 1. Thế nào là vấn đề cơ bản của triết học? Với tính cách là tri thức lý luận có hệ thống luôn được làm giàu thêm qua mỗi chặng đường phát triển của lịch sử, triết học đứng trước hàng loạt các vấn đề cần giải đáp, trong đó có vấn đề vừa nêu trên: triết học là gì? Các nhà triết học căn cứ vào việc giải quyết vấn đề đó mà hình thành quan điểm của mình, xác nhận những nội dung cụ thể và sử dụng những phạm trù thích hợp để làm sáng tỏ điều cần quan tâm. Mỗi học thuyết triết học thường đặt ra một vấn đề chính xuyên suốt, thông qua đó bày tỏ quan điểm chủ đạo của mình. Các vấn đề khác đều xoay quanh cái trục chính đó. Thời đại lịch sử 5 cũng vậy: những đổi thay của xã hội, sự mở rộng không ngừng chân trời nhận thức của con người, sự phát triển ngày càng phong phú các lĩnh vực tri thức đưa đến sự điều chỉnh các vấn đề triết học. Cái hôm qua đóng vai trò chủ đạo ,hôm nay có thể biến thành thứ yếu,, nhược lại cái cá biệt, do sự vận động tiếp theo của lịch sử, có thể trở thành cái phổ biến. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn vấn đề chung, quy định bản chất của tư duy triết học, đó là vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại, hay “ tâm” và “vật”, ý thức và vật chất. Đó là vấn đề cơ bản lớn của triết học, bởi lẽ việc giải quyết nó là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác, đồng thời cho phép xác định tính khuynh hướng thế giới quan của các học thuyết triết học, mà tính khuynh hướng đó, xét đến cùng, tập trung ở chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, cùng các biến thái của chúng. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: 1. Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước (mang tính thứ nhất), cái nào có sau (tính thứ hai, phi sinh) và cái nào là quyết định? 2. Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không, va nhận thức như thế nào? 2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đưa đến sự hình thành hai khuynh hướng lớn trong lịch sử triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Các nhà duy vật giải thích mọi thứ từ vật chất, xem vật chất là cái có trước (ci mang tính thứ nhất), xuất phát và quyết định ý thức. Ngược lại, các nhà duy tâm giải thích mọi thứ trên cơ sở một bản nguyên tinh thần nào đó, xem tinh thần là cái có trước và quyết định trong quan hệ với thế giới vật chất. Sự phân cực thế giới quan như vậy được thực hiện ngay từ thời cổ đại, và xuyên suốt quá trình phát triển của triết học, tạo nên xung lực của sự phát triển tư tưởng triết học. Chủ nghĩa duy tâm đối lập với chủ nghĩa duy vật ở khía cạnh thế giới quan, nhưng cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử, gắn liền với những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận và giá trị - văn hóa. Chủ nghĩa duy tâm trong nhiều trường hợp thể hiện sự ngạc nhiên thú vị trước cái “siêu phàm”, cái “thần tính” của con người, để phân biệt với cái “không thuộc về thần linh”, không “siêu phàm”, tức thế giới không-phải-con-người. Vì thế m nhn đọc Socrates, Plato, Hegel, V.I.Lênin nhấn mạnh:”Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thơng minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn”3 3 V.I.Lnin: Ttồn tập, t.29, Nxb Chính trị Quốc gia, H Nội, 2006, tr. 293. 6 + Trong quá trình phát sinh và phát triển của mình chủ nghĩa duy vật trải qua các hình thức cơ bản sau: 1) Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ (CNDV tự phát, xét theo cơ sở, qu trình hình thnh lẫn trình độ của nó) tại các nước phương Đông(Ấn Độ, Trung Quốc) và Hy Lạp, La Mã cổ đại là hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật. Các nhà triết học bước đầu vượt qua thế giới quan huyền thoại, màthần thoại là hạt nhân của nó, giải thích nguyên nhân thế giới từ chính các yếu tố vật chất của thế giới, trong đó có các yếu tố cụ thể (đất, nước, lủa, khí), hoặc giả định (apeiron, homeomoiria), xem xét sự hình thành của các sự vật một cách tự thân. Trong sự phát triển của CNDV cổ đại nguyên tử luận, do Leucippos sng lập, Demokritos kế thừa, phát triển, chiếm vị trí đặc biệt, trở thành diển hình của tư tưởng duy vật cổ đại. Các nhà nguyên tử luận đ xc lập bức tranh độc đáo về thế giới, theo đó thế giới được hình thnh từ những phần tử b nhất, khơng phn chia (nguyn tử), những nguyn tử vận động theo vịng xốy lốc trong khoảng khơng (hư không) tạo nên các sự vật. Tính đa dạng, phong phú của thế giới vật chất được giải thích bởi tính đa dạng của các nguyên tử, vốn khác nhau về hình dng, kích thước, trật tự, vị trí. Theo họ, các sự vật, hiện tượng diễn ra trong thế giới theo tính tất yếu tự nhiên, không chiu sự chi phối của bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào. Vận dụng nguyên tử luận vào đời sống con người và x hội, cc nh nguyn tử luận cho rằng linh hồn chỉ l một dạng nguyn tử; sự sống v ci chết chẳng qua l sự sống v ci chết chẳng qua chỉ l sự hợp nhất hay phn r cc nguyn tử, do đó quan niệm về sự bất tử của linh hồn là thiếu cơ sở. Các nhà nguyên tử luận ủng hộ nền dân chủ chủ nô, nhấn mạnh tính ưu việt của nó so với các chế độ chính trị khác. Cách đặt vấn đề về nguyên tử (atomos) như cái bé nhất, không phân chia có ý nghĩa khoa học tích cực, kích thích sự tìm tịi, khm ph về “ci b hơn” trong lịch sử khoa học. Tuy nhiên, cũng như các nhà triết học cổ đại khác, các nhà nguyên tử luận giải thích các vấn đề về thế giới vẫn giản đơn và ấu trĩ, chẳng hạn họ không thừa nhận cái ngẫu nhiên trong thế giới, đồng nhất nguyên nhân với tất yếu, đồng nhất linh hồn (ý thức) với một dạng vật chất. Tính chất ấu trĩ của chủ nghĩa duy vật cổ đại gắn với trình độ nhận thức chung của loài người thời kỳ này. Phần lớn nhận định của chủ nghĩa duy vật căn cứ vào sự quan sát trực tiếp hay suy tưởng của các triết gia, mà chư a được luận chứng bằng chất liệu sống của tri thức khoa học, vốn còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai. Bên cạnh đó do chịu sự quy định của điều kiện xã hội, văn hóa hiện tồn, nhiều nhà duy vật chưa chấm dứt hẳn sự ràng buộc của thế giới quan nguyên thủy (vật hoạt luận, vật linh thuyết, nhân hình hóa) và các yếu tố huyền học (occultism). 7 2) Chủ nghĩa duy vật máy móc - siêu hình ở châu Âu Phục hưng và cận đại ( thế kỷ XVII -nửa đầu thế kỷ XIX) là hình thức lịch sử thứ hai của chủ nghĩa duy vật. Nó bắt đầu từ tư tưởng duy vật trong việc xác lập bức tranh vật lý về thế giới ở cc nh khoa học Phục hưng (Copernic, Bruno, Galilei...) đến các nhà duy vật thế kỷ XVII tại Anh, Pháp, Hà Lan, Italia... và kết thúc ở chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach tại Đức, trước khi được thay thế bằng hình thức tiếp theo. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này phát triển trong mối liên hệ với khoa học tự nhiên. Nhờ biết dựa vào các thành tựu khoa học các nhà duy vật đã xác lập được các bức tranh mới về thế giới, bước đầu đưa ra những nhận định hợp lý về tự nhiên, các quy luật của nó, phát triển tinh thần hoài nghi và phê phán đối với chủ nghĩa giáo điều và giả khoa học, tham gia vào quá trình thiết lập “nhà nước học lý tính”, đề cao hình ảnh” con người lý trí” và các giá trị nhân văn chủ đạo. Bên cạnh đó sự phổ biến mạnh mẽ của cơ học, là ngành khoa học chiếm vị trí thống trị vào thế kỷ XVII – XVIII, đã ảnh hưởng đến cách thức tư duy của đa phần các nhà duy vật. Dưới tác động của cơ học, các nhà triết học ( nhất là các nhà triết học thế kỷ XVII ) quy các quá trình của tự nhiên vào dạng vận động cổ điển là vận động cơ học, xem con người và các thiết chế xã hội như hệ thống máy móc phức tạp (công thức: “con người - cỗ máy”). Tính chất máy móc tất yếu gắn với tính chất siêu hình: trong khi nỗ lực đào sâu từng mặt, từng thuộc tính của sự vật , khám phá bản chất sâu kín của vạn vật (siêu hình), các nhà triết học duy vật xem xét chúng trong trạng thái tách biệt, chưa vạch ra mọt cách thấu đáo mối liên hệ, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng cũng như không đưa ra lời giải đáp hợp lý về nguồn gốc và động lực của vận động và phát triển. 3) Chủ nghĩa duy vật biện chứng, ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, đã khắc phục tính chất phiến diện của chủ nghĩa duy vật lẫn php biện chứng thời trước, tạo nên sự thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, sự thống nhất về thế giới quan và phương pháp luận. Những yếu tố biện chứng đ hiện diện trong chủ nghĩa duy vật chất phc, v kể cả chủ nghĩa duy vật my mĩc – siu hình, nhưng diện mạo thực sự của nó chỉ được biết đến vào những năm 40 của thế kỷ XIX tại một số nước Tây Âu dưới tác động của những biến đổi mang tính bước ngoặt trong đời sống x hội, trong nhận thức khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền trước hết với tên tuổi của C. Mc (K. Marx) và Ph.Ănghen (F. Engels), là hình thức hiên đại của chủ nghĩa duy vật, đánh dấu bước chuyển từ tư duy” cổ điển” truyền thống, bắt đầu từ thời cổ đại sang phương pháp tiếp cận mới đối với các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng 8 đánh dấu bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học, làm tăng thêm vị trí và vai trò của triết học trong đời sống xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng – sự thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng - đ khắc phục tính chất phiến diện của cả chủ nghĩa duy vật lẫn php biện chứng thời trước, trước hết là chủ nghĩa duy vật siu hình v php biện chứng duy tm. Cc nguyn lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng được vận dụng một cách sáng tạo vào việc phân tích tiến trình lịch sử - x hội, khắc phục quan niệm duy tm về lịch sử. Với sự vận dụng ny, sự pht triển x hội được xem như quá trình lịch sử - tự nhin, trong đó nổi bật quy luật x hội phổ biến l quy luật về sự ph hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cùng với quy luật ấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đ phn tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, vấn đề đấu tranh giai cấp, cách mạng x hộ, nh nước v.v.. trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng. Việc phát minh ra quan niệm duy vật về lịch sử, xây dựng lý luận về hình thi kinh tế - x hội l thnh cơng lớn của Mc v Ăngghen, được tiếp tục làm sâu sắc thêm bởi Lênin và các nhà mácxít khác. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, với ý nghĩa vừa nu, khơng chỉ dừng lại ở việc giải thích, m cịn hướng đến việc cải tạo thế giới. Nó là định hướng thế giới quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trong qu trình khắc phục tư duy tư biện, thứ tư duy triết học “bay lượn cao trên thực tiển” của phái Hêghen, đ nhấn mạnh nguyn tắc xuyn suốt – thống nhất lý luận v thực tiễn, tính cách mạng và tính khách quan khoa học, không chỉ làm cho triết học mới – chủ nghĩa duy vật biện chứng và quan niệm duy vật về lịch sử (chủ nghĩa duy vật lịch sử) – trở thành triết học duy vật triệt để nhất trong lịch sử, mà cịn trở thnh vũ khí lý luận của giai cấp vơ sản v nhn loại bị p bức trong cuộc đấu tranh giải phóng, xây dựng x hội mới, một lin hợp “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”4 Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn xã hội, các luận điểm nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn thường xuyên được bổ sung, điều chỉnh, lm phong ph v su sắc thm; v điều này hoàn toàn phù hợp với chính bản chất khoa học v cch mạng của nó. + Trong phạm vi chủ nghĩa duy vật, cùng với việc làm sáng tỏ về mặt lịch sử các hình thức cơ bản của nó, người ta còn phân biệt: 4 C.Mc và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4; Nxb Chính trị Quốc gia, H Nội, 2005, tr. 628 9 - Chủ nghĩa duy vật triệt để và chủ nghĩa duy vật không triệt để. Sự so sánh này căn cứ vào tính chế định lịch sử – xã hội đối với từng học thuyết và đại diện của nó, do đó khó tránh khỏi một số yếu tố chủ quan trong đánh giá. Tuy nhiên căn cứ vào quy luật phát triển cái mới luôn thực hiện sự lọc bỏ biện chứng đối với cái đã qua. Xét theo nghĩa này chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật triệt để, bởi các nguyên lý của nó được phổ biến vào cả tự nhiên lẫn xã hội và tư duy con người. Ngược lại chủ nghĩa duy vật Feuerbach không triệt để, vì không dựa vào quan điểm duy vật trong việc phân tích các vấn đề lịch sử, xã hội. Một trong những ví dụ điển hình : Feuerbach xem xét tiến bộ xã hội qua lăng kính của sự thay thế Kytô giáo bằng “tôn giáo không có Chúa”, tức Tôn giáo của Tình yêu, nơi mà tất cả mọi người, không phân biệt địa vị xã hội, lập trường chính trị, giới tính đối xử với nhau như những vị chúa nhân từ và hào hiệp, tức qua l
Tài liệu liên quan