Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nước quân chủvà phong kiến ở Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp và quan tâm, đầu tư cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc Trong đó, các bộ luật: Hình thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những bộ luật cổ tiêu biểu nhất được xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX)
10 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2390 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những bộ luật cổ Việt Nam và một số giá trị đối với đương đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
VNH3.TB7.490
NHỮNG BỘ LUẬT CỔ VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI ĐƯƠNG ĐẠI
PGS.TS. Vũ Thị Phụng
Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội
1. Khái quát về những bộ luật cổ trong lịch sử Việt Nam
Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nước quân chủ và phong
kiến ở Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp và quan tâm, đầu tư cho việc ban
hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các bộ luật tổng hợp và các
văn bản pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình
thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là bộ luật
Hồng Đức - thời Lê), và Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là
những bộ luật cổ tiêu biểu nhất được xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam (từ thế
kỷ XI đến thế kỷ XIX).
Theo các cứ liệu lịch sử, trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Hình thư là bộ luật quốc
gia thành văn đầu tiên, được ban hành dưới thời nhà Lý. Toàn thư chép: “năm 1042, Lý Thái
Tông sai quan trung thư san định lệnh, châm chước những điều thời thế thông dụng, xếp
thành môn loại, biên rõ điều mục, làm thành riêng quyển Hình thư một triều đại, để cho
người xem dễ biết. Sách làm xong, chiếu ban ra cho thi hành. Dân đều lấy làm tiện1. Việc
ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp
ở Việt Nam. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc 2, nhưng nội dung của nó còn
được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn
thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú
trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi
chép còn lại trong sử cũ, bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và
hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã
hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế…Theo
đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi,
1 Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (1960): Lịch sử Chế độ Phong kiến Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960, tr.
269, 270
2 Theo các tư liệu lịch sử, đầu thế kỷ XV, khi sang xâm chiếm Việt Nam, quân Minh đã tịch thu nhiều sách và văn bản
quý của nước Đại Việt để đưa về chính quốc. Trong số đó có bản gốc của cả 2 bộ luật thời Lý và Thời Trần.
2
địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn
định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp...3
Kế thừa và phát triển tư duy lập pháp từ Thời Lý, nhà nước Việt Nam dưới thời Trần
tiếp tục quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật. Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên
ngôi, nhà Trần đã định các điều luật lệnh và tiếp tục bổ sung vào các năm 1230, 1244. Trên
cơ sở đó, năm 1341, vua Trần Dụ Tông đã sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu
soạn ra bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Hình thư) gồm một quyển để ban hành 4. Về nội
dung, ngoài việc kế thừa những quy định có từ thời Lý, bộ luật Hình thư của thời Trần đã có
những bổ sung và điều chỉnh nhất định, đặc biệt là những quy định về hình phạt, thủ tục tố
tụng và chế độ tư hữu đất đai, tài sản. Việc ban hành bộ Hình thư của nhà Trần cũng là dấu
mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam.
Bộ luật cổ quan trọng thứ ba trong lịch sử lập pháp Việt Nam là Quốc triều Hình luật
(hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) 5, được ban hành dưới thời Lê Thánh tông năm 1483,
trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các
đời vua trước, được sửa chữa, bổ sung và san định lại cho hoàn chỉnh. Căn cứ vào bản in
chữ Hán hiện còn được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội ( ký hiệu A.341), đã
được Viện Sử học và Nhà xuất bản Pháp lý phối hợp dịch ra chữ quốc ngữ và ấn hành năm
1991, thì bộ luật gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển. Về nội dung, ngoài những
quy định chung, bộ luật đã dành từng chương để quy định các vấn đề cụ thể thuộc nhiều
ngành luật (theo cách phân loại hiện nay) như: hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia
đình, tố tụng…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước “ Quốc triều hình
luật là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam” 6. Được
ban hành trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền,
Quốc triều hình luật không chỉ là bộ luật chính thức của Việt Nam dưới thời Lê Sơ, mà còn
được các triều đại khác sau này sử dụng cho đến hết thế kỷ XVIII 7.
Sau khi triều Lê suy yếu,Việt Nam rơi vào tình trạng nội chiến kéo dài suốt 3 thế kỷ,
cho đến khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn năm 1802. Để củng cố chế độ phong kiến, bảo
vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một thời gian dài biến động, ngay sau khi lên
ngôi, vua Gia Long đã lập tức sai quần thần biên soạn một bộ luật mới. Năm 1815, bộ Hoàng
Việt Luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) đã được ban hành. Theo bản dịch từ bản khắc in
chữ Hán, Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Các điều luật được phân
loại và sắp xếp theo 6 lĩnh vực, tương ứng với nhiệm vụ của 6 Bộ, gồm các nội dung chính
như: quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại (lại luật); quy định về tội danh và
hình phạt (hình luật); quy định về quản lý dân cư và đất đai (hộ luật); quy định về ngoại giao
và nghi lễ cung đình (lễ luật); quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng (binh luật); quy
3 Lịch sử Chế độ Phong kiến Việt Nam, Tập 1, Sđd, tr 272, 273
4 Lịch sử Chế độ Phong kiến Việt Nam, Tập 1, Sđd, tr 361
5 Đến thời Lê trung hưng, bộ luật này được ban hành lại, bổ sung thêm và đổi tên thành Lê triều hình luật
6 Xem thêm: Lời nói đầu trong cuốn Quốc triều hình luật, NXB Pháp lý, Hà Nội, 1991.
7 Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 2, Sđd, tr 159
3
định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm (công luật). Cùng với Quốc triều hình luật thời
Lê, Hoàng Việt Luật lệ được đánh giá là một trong hai bộ luật tổng hợp có quy mô lớn và nội
dung phong phú. Bộ luật được xây dựng trên cơ sở khảo xét, tham chiếu bộ luật Hồng Đức và
bộ luật của nhà Mãn Thanh (Trung Quốc), tuy nhiên có nhiều phần đã được chỉnh sửa và lược
bỏ cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ 8.
Có thể thấy, các bộ luật trên đây đều được ban hành để phục vụ yêu cầu quản lý, điều
hành quốc gia của các triều đại và đã phát huy tác dụng trong xã hội đương thời. Nhưng về
mặt giá trị, nếu biết khai thác và sử dụng, các bộ luật nói trên còn là di sản pháp luật quý giá
đối với hiện tại và cả tương lai.
2. Những giá trị đối với đương đại
Thông qua những công trình nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhà quản lý đều
thống nhất cho rằng, mặc dù khác nhau về thể chế chính trị và đã được ban hành cách đây
hàng trăm năm, nhưng các bộ luật cổ của Việt Nam có rất nhiều giá trị đối với đương đại mà
chúng ta đã, đang và cần tiếp tục kế thừa, tham khảo trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền, xây dựng xã hội dân chủ và tiến bộ.
2.1. Chúng ta đều biết, việc xây dựng một nền pháp luật phát triển và hiệu quả phụ
thuộc rất nhiều vào quan điểm và nhận thức của nhà nước, mà cụ thể là sự nhận thức về vị
trí và vai trò của pháp luật với tư cách là một trong những công cụ quan trọng để quản lý
và điều hành đất nước. Trong thời gian từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XIX, các nhà nước
quân chủ Việt Nam đã ban hành được nhiều bộ luật tổng hợp và hàng ngàn văn bản pháp
luật đơn lẻ khác. Điều đó cho thấy sự tiến bộ trong nhận thức của các nhà nước phong kiến
đương thời (mà cụ thể là những người đứng đầu) về vai trò của pháp luật đối với việc quản
lý và điều hành đất nước.
Cho đến nay, với những tư liệu còn để lại, các nhà nghiên cứu đã thống nhất cho rằng
trước thời Lý, ở Việt Nam chưa có luật thành văn, pháp luật chủ yếu còn tồn tại dưới dạng
các quy ước và tục lệ. Như vậy, Hình thư là bộ luật thành văn đầu tiên của Việt Nam. Về lý
do ban hành bộ Hình thư, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “ Trước kia việc kiện tụng
trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt,
thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san định luật
lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm
thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu”9. Tư liệu trên cho thấy,
người đứng đầu triều Lý đã nhận thức được sự cần thiết phải có luật thành văn để dân biết
mà điều chỉnh hành vi; quan lại có căn cứ để xét xử, tránh việc tùy tiện dẫn đến oan sai; nhà
nước có cơ sở để kiểm tra, giám sát quan lại. Cách đây gần 1000 năm, nhận thức như vậy về
ý nghĩa của việc ban hành luật thành văn là bước tiến bộ quan trọng về tư duy lập pháp.
8 Xem Nguyễn Q. Thắng : Lược khảo Hoàng Việt Luật lệ, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2002, tr 15, 16
9 Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch tập 1, NXB Khoa học Xã hội, 1998, tr263
4
Tiếp nối tư tưởng trên, các triều đại tiếp theo đều coi trọng và đánh giá cao vai trò
của pháp luật. Năm 1428, khi hạ lệnh cho các quan san định luật lệnh để ban hành, Lê Thái
tổ đã chỉ rõ: “ từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn.
Cho nên học tập đời xưa, đặt ra pháp luật là để dạy cho các tướng hiệu, quan lại, dưới đến
dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác, điều thiện thì làm, điều chẳng lành thì tránh,
chớ để phạm pháp”10. Với quan niệm đó, các vua đầu thời Lê đã ban hành rất nhiều văn bản
pháp luật và đó là cơ sở để đến thời Lê Thánh tông, các luật, lệnh được sưu tập, bổ sung và
hoàn chỉnh thành bộ Quốc triều hình luật.
Trong lời tựa khi ban hành Bộ Hoàng Việt luật lệ, Hoàng đế Gia long đã viết:
“…sống trong xã hội, con người với những ham muốn vô bờ, nếu không có luật pháp để
ngăn ngừa thì không có cách gì để dẫn dắt người ta vào đường giáo hóa mà biết được đạo
đức. Cho nên lời xưa có nói: Luật pháp là công cụ giúp cho việc cai trị thêm tốt đẹp”11
Nhờ có những nhận thức đúng đắn trên đây, các nhà vua và các nhà nước đã rất quan
tâm đến việc biên soạn và ban hành pháp luật. Để tổ chức biên soạn và ban hành các bộ luật
tổng hợp có nội dung phức tạp, các nhà vua đã lựa chọn những viên quan tài giỏi, có hiểu
biết rộng và nhiều kinh nghiệm thực tế. Chẳng hạn: để biên soạn bộ Hoàng Việt luật lệ,
hoàng đế Gia Long đã chọn và giao nhiệm vụ cho 3 viên quan là Nguyến Văn Thành (giữ
chức Tổng trấn Bắc thành), Vũ Trinh (từng giữ chức Thượng thư Bộ Lễ)12 và Trần Hựu
(Đông các học sĩ). Để biên soạn một bộ luật tổng hợp có tính quốc gia, các nhà vua đều yêu
cầu những người biên soạn phải sưu tập các điều luật từ đời trước, tham khảo pháp luật
Trung Quốc, trên cơ sở đó mới lựa chọn và bổ sung cho phù hợp. Các điều luật cũng phải
được chia thành môn, loại và sắp xếp theo trật tự. Điều đó thể hiện cách xây dựng luật
nghiêm túc và khoa học. Vì vậy, mặc dù có những hạn chế do điều kiện lịch sử, nhưng các
nhà nước phong kiến đã để lại cho hậu thế một di sản pháp luật khá đồ sộ và có nhiều giá
trị.
Nghiên cứu các bộ luật cổ của Việt Nam, chúng ta đã kế thừa và có thể tham khảo
được một số kinh nghiệm về kỹ thuật lập pháp
So với trước đây, kỹ thuật lập pháp ngày nay đã có những bước phát triển vượt bậc.
Đó là sự phát triển trên cơ sở kế thừa và liên tục bổ sung những kinh nghiệm về kỹ thuật lập
pháp của những thế hệ đi trước. Nghiên cứu vấn đề này qua các bộ luật cổ của Việt Nam, có
thể thấy vào thời đó, mặc dù chưa có một hệ thống lý thuyết như ngày nay, những các nhà
làm luật đã sử dụng những kỹ thuật lập pháp khá tiến bộ và hiệu quả, được thể hiện qua
những vấn đề sau:
- Thứ nhất, để xây dựng những bộ luật tổng hợp có quy mô lớn, phạm vi điều chỉnh
rộng, theo ý chỉ của vua, các nhà làm luật đã nghiên cứu để phân chia và sắp xếp các điều
10 Đại Việt sử ký toàn thư,bản dịch tập 3, NXB Khoa học Xã hội, 1998, tr 291
11 Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia long), bản dịch tập 1, NXB Văn hóa thông tin, 1994
12 Sau này do bị kết tội liên đới, Nguyễn Văn Thành bị buộc uống thuốc độc chết và Vũ Trinh bị đi đày. Vì vậy đến
thời Minh Mạng, cả hai đều bị xóa tên tác giả.
5
luật thành môn loại . Rất tiếc là do không còn bản gốc, nên chúng ta không thể hình dung
cách phân loại của hai bộ luật thời Lý và thời Trần. Nhưng qua cấu trúc của Bộ Luật Hồng
Đức và Bộ Luật Gia Long, có thể thấy, tuy chưa thật triệt để, nhưng hàng trăm điều luật đã
được các nhà làm luật phân loại và sắp xếp theo một trật tự nhất định. Cả hai bộ luật đều có
phần đầu quy định những vấn đề chung, những nguyên tắc chung. Các chương/ hoặc quyển
tiếp theo được dành để tập hợp những điều luật về từng lĩnh vực. Ngoài ra, các điều luật còn
lại được đưa vào phần tạp luật. Cách phân loại như vậy đã phần nào thể hiện tư duy khoa
học và giúp việc tra cứu được dễ dàng, thuận lợi.
Ví dụ: Trong Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ), Chương Hộ, Hôn gồm các điều luật về
quản lý cư dân và hôn nhân- gia đình; Chương Điền sản gồm các điều luật về quản lý đất
đai, tài sản…Ở Bộ luật Gia Long (BLGL), Quyển 1, 2, 3 quy định những vấn đề chung;
Quyển 4 và 5 gồm các điều luật về quan lại và công chức; Quyển 13 và 14 gồm các quy
định về tội trộm cắp và giết người.
Thứ hai là cách tổ chức và thể hiện các quy phạm pháp luật.
Trong thời quân chủ, khái niệm quy phạm pháp luật chưa được sử dụng như ngày
nay. Tuy nhiên, hầu hết các điều luật trong những bộ luật cổ đều đã được tổ chức và thể
hiện như một quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, gồm 3 thành phần cơ bản là giả định, quy
định và chế tài.
Ví dụ:
- Điều 89 - BLHĐ quy định: Trước và sau ngày Hoàng đế lên ngôi một tháng, cấm
các nhà ở trong kinh thành cử hành việc tang, người nào phạm thì phạt 50 roi, biếm một tư.
- Điều 1, quyển 21, BLGL quy định: Phàm có việc xây cất, quân dân quan ty phải
đích thân xin phép cấp trên và phải đợi trả lời, không đợi mà tự ý mướn công nhân xây
cất…thì bị buộc tội.Trường hợp này kể hết tiền nhân công làm việc (mỗi ngày 8 phân, 5 ly,
5 hào) để làm tang vật buộc tội.
Tuy nhiên, không phải điều luật nào cũng có đầy đủ cả 3 thành phần: giả định - quy
định - chế tài như trên. Trong một số trường hợp, các điều luật chỉ có phần giả định và quy
định mà không có chế tài.
Ví dụ: Điều 40- BLHĐ quy định: Những người miền thượng du (chỉ người dân tộc
thiểu số ở miền núi - TG) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội.
Những người thượng du mà phạm tội với người trung châu (chỉ người ở vùng trung du và
đồng bằng - TG) thì theo luật mà định tội.
Về kỹ thuật thể hiện quy phạm pháp luật trong các bộ luật cổ, có thể thấy các nhà
làm luật đã có khả năng tiên liệu được nhiều tình huống để đặt ra những quy định ngăn chặn
và điều chỉnh.
6
Ví dụ: Trong chương Điền sản của Bộ luật HĐ, khi quy định về việc chia tài sản sau
khi vợ hoặc chồng chết mà không có chúc thư, các nhà làm luật đã tiên liệu rất nhiều tình
huống cụ thể như:
Vợ chồng không có con
Chồng có con với tất cả các bà vợ/ hoặc có con với vợ trước, nhưng không có con với
vợ sau và ngược lại…
Vợ chồng đã có con, một trong hai người chết, sau đó con cũng chết.
Khi chồng chết, con còn nhở, vợ đi lấy chồng khác…
Ngoài ra, trước đây cũng như hiện nay, khi xây dựng và ban hành pháp luật, các nhà
nước đều phải có sự tham chước luật lệ của các quốc gia khác. Tuy nhiên, cách tham chước
lại có những quan điểm và cách thức khác nhau, phản ánh phần nào trình độ của các nhà lập
pháp. Trong thời quân chủ, do hạn chế về thông tin, do điều kiện lịch sử và quan hệ bang
giao, nên khi xây dựng và ban hành pháp luật, các nhà nước Việt Nam thường và chỉ có thể
tham khảo hệ thống pháp luật của nước láng giềng là Trung Quốc. Khảo cứu vấn đề này, về
cơ bản các nhà nghiên cứu đều cho rằng: hệ thống pháp luật ở Việt Nam thời quân chủ đã
được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật Trung Quốc, nhưng có chỉnh sửa và sáng tạo
để phù hợp với xã hội Việt Nam. Trong công trình khảo cứu “ Luật và xã hội Việt Nam thế
kỷ XVII – XVIII”, giáo sư người Hàn Quốc Insun Yu đã sử dụng phương pháp so sánh, đối
chiếu giữa các điều khoản của Bộ luật Hồng Đức với các bộ luật của nhà Đường và nhà
Minh (Trung Quốc). Trên cơ sở đó, bằng các số liệu thống kê cụ thể, Insun Yu đã làm rõ
cách tham chước luật nước ngoài của các nhà làm luật thời Lê qua nhận xét sau 13:
- Thứ nhất, trong số 722 điều của BLHĐ, có 261 điều vay mượn từ bộ luật của nhà
Đường, 53 điều vay mượn luật nhà Minh, còn 407 điều khác là do các nhà làm luật thời Lê
biên soạn.
- Thứ hai, ngay cả trong các điều luật được vay mượn từ luật Trung Quốc, các nhà
làm luật Thời Lê cũng có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với diều kiện của Việt Nam
Ví dụ: Trong tội Bất hiếu, luật Trung Quốc không cho phép con cái chia tài sản để ra
ở riêng sau khi xây dựng gia đình, nếu cha mẹ còn sống. Khi tham khảo điều luật này,
BLHĐ đã bãi bỏ quy định nói trên.
Nếu BLHĐ được đánh giá cao bởi tính sáng tạo trong việc tham chước luật pháp
nước ngoài, thì khi bàn về bộ luật Gia Long, các ý kiến nhận xét lại có phần chưa hoàn toàn
đồng nhất. Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu đều thiên về ý kiến cho rằng BLGL đã
tham khảo theo kiểu sao chép Bộ luật nhà Thanh (Trung Quốc)14. Tuy nhiên gần đây, sau
khi công bố chính thức bản dịch BLGL ra chữ quốc ngữ, các dịch giả đã tỏ ra không đồng
13 Insun Yu : Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII, NXB Khoa hoc Xã hội, Hà Nội, 1994, tr 73-81
14 Tiêu biểu là ý kiến đánh giá của Vũ Văn Mẫu trong lời tựa giới thiệu về BLHĐ.
7
tình với nhận xét trên và cho rằng, tuy có tham chước nhiều Bộ luật nhà Thanh, nhưng trong
từng quy định cụ thể, các nhà làm luật thời đó cũng đã có những chỉnh sửa, bổ sung và thay
đổi cho phù hợp với điều kiện Việt Nam 15.
Chẳng hạn: Việc bãi bỏ các cực hình dã man trong Luật nhà Thanh như: Tru di tam
tộc, lăng trì và chỉ áp dụng một hình phạt nặng nhất là chém đầu.
2.3. Cùng với những kinh nghiệm về kỹ thuật lập pháp, các bộ luật cổ Việt Nam còn
để lại cho đương đại những giá trị về tính tiến bộ và tính nhân văn sâu sắc, thể hiện qua
những vấn đề cụ thể sau đây:
- Thứ nhất, các bộ luật có nhiều quy định nhằm hạn chế và xử phạt những hành vi
tham nhũng của quan lại và gián tiếp bảo vệ một số quyền lợi chính đáng của người dân.
Mặc dù về cơ bản, các bộ luật đều phải đặt ra những quy định để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi
của tầng lớp quan lại và quý tộc, nhưng theo thống kê của chúng tôi, BLHĐ vẫn có tới 107
điều, BLGL có 79 điều quy định và điều chỉnh những hành vi không được phép đối với
quan lại như: lợi dụng quyền thế sách nhiễu nhân dân, ăn hối lộ, gian lận, bớt xét của công,
lợi dụng quyền chức mưu lợi riêng, vu oan giá hoạ cho người lương thiện...
Ví dụ: + Theo quy định tại điều 138 - BLHĐ, quan lại nhận hối lộ từ 01 đến 09 quan
tiền bị phạt biếm tước hoặc bãi chức; từ 10 dến 19 quan tiền bị phạt đồ (làm khổ sai) hoặc
lưu đày; từ 20 quan tiền trở lên bị phạt chém.
+ Theo điều 31 - BLGL, quan lại nhận hối lộ phải chịu hình phạt thấp nhât là 70
trượng, cao nhất là treo cổ. Điều 11, Quyển 15 BLGL quy định: Quan lại dùng uy thế (chức
vụ) vô cớ bắt trói người và tra khảo họ nơi tư gia (không kể có thương tích hay không
thương tích) thì tăng hơn người thường 2 bậc tội, nếu nạn nhân chết thì kẻ ấy bị xử treo cổ.
- Thứ hai, là một nước nông nghiệp, nên các bộ luật cổ đều có nhiều quy định nhằm
bảo vệ sức lao động, sức kéo và bảo vệ đê điều 16. Để bảo vệ sức kéo chủ yếu cho nông
nghiệp, các nhà nước thời đó đều nghiêm cấm việc tự tiện giết trâu bò. Điều 580 - BLHĐ
quy định : Những người tự tiện giết trâu, ngựa thì xử phạt 80 trượng và phải nộp tiền bằng
giá con trâu, ngựa âý vào công khố. Trong điều số 7 - Quyển 21- BLGL, việc sửa chữa, bảo
vệ đê điều, bờ ruộng được quy định và giải thích như sau: “ Đê phòng chống