Tóm tắt
Là một bộ phận cấu thành của văn hóa Đông Sơn, di sản văn hóa khảo cổ học tỉnh Hòa Bình nổi
bật với ba loại hình tiêu biểu: Văn hóa Hòa Bình; trống đồng (trống Đông Sơn, trống Mường) và mộ
Mường. Đến nay, Hòa Bình là địa phương phát hiện nhiều di tích văn hóa Hòa Bình nhất với hơn 70
địa điểm. Số lượng phong phú các di tích, di vật văn hóa Hòa Bình phát hiện được khẳng định rằng
tỉnh Hòa Bình là quê hương của nền văn hóa tiền sử nổi tiếng này. Hòa Bình cũng là địa phương phát
hiện được nhiều trống đồng cổ với hơn 70 trống, trong đó 10 trống Đông Sơn (trống loại I Heger) và
hơn 60 trống Mường (trống loại II Heger). Nghiên cứu cho thấy có sự kế thừa trực tiếp từ trống Đông
Sơn sang trống Mường ở Hoà Bình, trống Mường là biểu tượng văn hóa của người Mường, tiêu biểu
cho bản sắc Mường. Cùng với đó, nghiên cứu mộ Mường ở Hòa Bình đã góp thêm nhiều tư liệu quý,
có giá trị khoa học để tìm hiểu nhiều khía cạnh về đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc Mường.
Những tư liệu đó đóng góp vào việc truy tìm nguồn gốc tộc Mường, một tộc người anh em có chung
cội nguồn xa xưa với dân tộc Việt.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 408 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những di sản văn hóa khảo cổ học ở tỉnh Hòa Bình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5Số 29 (Tháng 9 - 2019)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
NHỮNG DI SẢN VĂN HÓA KHẢO CỔ HỌC
Ở TỈNH HÒA BÌNH
TRÌNH NĂNG CHUNG
Tóm tắt
Là một bộ phận cấu thành của văn hóa Đông Sơn, di sản văn hóa khảo cổ học tỉnh Hòa Bình nổi
bật với ba loại hình tiêu biểu: Văn hóa Hòa Bình; trống đồng (trống Đông Sơn, trống Mường) và mộ
Mường. Đến nay, Hòa Bình là địa phương phát hiện nhiều di tích văn hóa Hòa Bình nhất với hơn 70
địa điểm. Số lượng phong phú các di tích, di vật văn hóa Hòa Bình phát hiện được khẳng định rằng
tỉnh Hòa Bình là quê hương của nền văn hóa tiền sử nổi tiếng này. Hòa Bình cũng là địa phương phát
hiện được nhiều trống đồng cổ với hơn 70 trống, trong đó 10 trống Đông Sơn (trống loại I Heger) và
hơn 60 trống Mường (trống loại II Heger). Nghiên cứu cho thấy có sự kế thừa trực tiếp từ trống Đông
Sơn sang trống Mường ở Hoà Bình, trống Mường là biểu tượng văn hóa của người Mường, tiêu biểu
cho bản sắc Mường. Cùng với đó, nghiên cứu mộ Mường ở Hòa Bình đã góp thêm nhiều tư liệu quý,
có giá trị khoa học để tìm hiểu nhiều khía cạnh về đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc Mường.
Những tư liệu đó đóng góp vào việc truy tìm nguồn gốc tộc Mường, một tộc người anh em có chung
cội nguồn xa xưa với dân tộc Việt.
Từ khóa: Khảo cổ học, Hòa Bình, văn hóa Hòa Bình, trống đồng Đông Sơn, trống đồng Mường,
mộ Mường
Abstract
As an integral part of Dong Son culture, Hoa Binh archaeological cultural heritage is outstanding
with three typical types: Hoa Binh culture; bronze drums (Dong Son drums, Muong drums) and
Muong tombs. Up to now, Hoa Binh is the locality where has discovered the most Hoa Binh cultural
relics with more than 70 archaeology locations. The extremely rich number of discovered Hoa Binh
cultural relics and vestiges has affirmed that Hoa Binh province is home to this famous prehistoric
culture. Hoa Binh is also the locality where many ancient bronze drums were discovered: more than
70 drums, including 10 Dong Son drums (Heger drums I) and more than 60 Muong drums (Heger
drums II). The study shows that there is a direct inherit from the Dong Son drum to the Muong drum
in Hoa Binh, the Muong drum is a cultural symbol of Muong people, typical for Muong identity.
Along with that, the study of Muong tomb in Hoa Binh has contributed more valuable and scientific
documents to learn many aspects of the social, material and spiritual life of Muong ethnic people.
These materials contribute to tracing the origin of the Muong ethnic group who have a common
origin with the Kinh or Viet people.
Keywords: Archeology, Hoa Binh, Hoa Binh culture, Dong Son bronze drums, Muong bronze
drums, Muong tombs
Hòa Bình là tỉnh miền núi, tiếp giáp với phía tây đồng bằng sông Hồng. Hòa Bình có địa hình bị chia cắt
phức tạp và có độ dốc lớn. Vùng núi cao hiểm
trở nằm ở phía tây bắc tỉnh với độ cao trung
bình 600m - 700m so với mặt nước biển. Phía
đông nam tỉnh là vùng núi thấp. Trên dải cao
nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thổ - Lai
Châu đến bờ biển tỉnh Ninh Bình, hoạt động
karst hóa đã tạo ra các bồn địa giữa núi có
điều kiện cư trú thuận lợi, hình thành nên các
xứ Mường trù phú, thường được dân gian ca
tụng: “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”.
Trong nền cảnh văn hóa truyền thống đa dạng
Số 29 (Tháng 9 - 2019)6
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
của Việt Nam, di sản văn hóa khảo cổ học tỉnh
Hòa Bình là một trong những mảng màu văn
hóa đặc sắc của cư dân cổ miền núi phía Bắc
nước ta, nổi bật với ba loại di sản lớn: Văn hóa
Hòa Bình, trống đồng (trống Đông Sơn, trống
Mường) và mộ Mường.
1. Văn hóa Hòa Bình
Văn hóa Hòa Bình là một nền văn hóa tiền
sử nổi tiếng ở Việt Nam và khu vực Đông Nam
Á. Kể từ năm 1926, khi di tích Hòa Bình đầu tiên
được phát hiện ở tỉnh Hòa Bình cho đến nay,
các nhà khoa học đã thu được rất nhiều thành
tựu trong công cuộc nghiên cứu văn hóa Hòa
Bình. Văn hóa Hòa Bình không chỉ tồn tại ở Việt
Nam mà còn ở các nước khác trong khu vực
Đông Nam Á, ít ra là Đông Nam Á lục địa, với
phạm vi phân bố rộng từ phần cực nam Trung
Quốc, Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia đến
quần đảo phía đông Malaysia và đảo Sumatra
(Indonesia). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
văn hóa Hòa Bình là hiện tượng văn hóa của
Đông Nam Á tiền sử.
Ở Việt Nam, các di tích Hòa Bình được phát
hiện và nghiên cứu trong nhiều thời kỳ khác
nhau, do nhiều thế hệ các nhà khoa học và các
cơ quan khác nhau tiến hành.
Tại tỉnh Hòa Bình, trong hai mùa điền dã
năm 1926, với những kết quả thu được từ việc
khai quật 9 trong số 23 địa điểm di tích hang
động tại vùng núi đá vôi Hòa Bình, nữ khảo
cổ học người Pháp - Madelene Colani trong
công trình nghiên cứu “Thời đại Đá trong tỉnh
Hòa Bình”, lần đầu tiên đã nêu lên thuật ngữ
Văn hóa Hòa Bình với những đặc trưng cơ bản
và ba giai đoạn phát triển từ cuối thời đại Đá
cũ đến thời đại Đá mới [2; 3]. Có thể nói, với
những phát hiện và nghiên cứu về văn hóa
Hòa Bình, M.Colani được xem như là người
khai sinh văn hóa Hòa Bình, đánh dấu giai
đoạn đầu của quá trình nghiên cứu văn hóa
Hòa Bình trên lãnh thổ Việt Nam và trong khu
vực Đông Nam Á. Tháng Giêng năm 1932, tại
Hội nghị Tiền sử Viễn Đông lần thứ nhất tổ
chức tại Hà Nội, những luận điểm khoa học do
M.Colani đề xuất đã được các nhà khảo cổ học
thế giới tham dự Hội nghị thảo luận và thông
qua nghị quyết, công nhận thuật ngữ “Văn hóa
Hòa Bình” để chỉ một nền văn hóa thời Tiền sử
ở Việt Nam [4].
Từ năm 1960 đến nay, các nhà khảo cổ học
đã phát hiện và nghiên cứu trên 160 địa điểm
văn hóa Hòa Bình, trong đó, riêng địa phận
tỉnh Hòa Bình đã có trên 70 địa điểm được
khảo sát và tiến hành nghiên cứu. Các di tích
chủ yếu tập trung ở những vùng núi đá vôi tại
các thung lũng hoặc trong các hang động, mái
đá; rất ít các di tích ở ngoài trời và thềm sông.
Vùng núi đá vôi Hòa Bình, Thanh Hóa là nơi
tập trung nhất các di tích văn hóa Hòa Bình.
Dưới góc độ địa lý sinh thái, đây là khu vực đa
dạng, ổn định trong sự thống nhất. Do ảnh
hưởng của lịch sử cấu tạo địa chất, địa hình
mà điều kiện tự nhiên khu vực này rất phong
phú và đa dạng, khí hậu thủy văn mang tính
trung chuyển với đủ các giống loài ở các khu
hệ xung quanh.
Có một quy luật phân bố cư trú rất dễ nhận
thấy của cư dân Hòa Bình, đó là sự phân bố
theo từng cụm, mỗi cụm có từ 3 đến 10 di chỉ
liền khoảnh và chiếm cứ vài ba thung lũng đá
vôi. Ở tỉnh Hòa Bình có 10 cụm di chỉ1. Xung
quanh các di chỉ là các thung lũng có nhiều
suối nhỏ, hợp lưu vào suối lớn. Hệ thống sông
suối dày đặc ở đây không chỉ cung cấp nước
sinh hoạt mà còn cung cấp nguồn thức ăn dồi
dào từ các loài động, thực vật thủy sản và là
nguồn đá cuội nguyên liệu để chế tác công
cụ. Trong các thung lũng là những cánh rừng
nhiệt đới nhiều tầng xanh tốt quanh năm.
Xung quanh các thung lũng là những dãy núi
đá vôi bao bọc, mà ở đó chứa nhiều hang động
lớn nhỏ - nơi cư trú lý tưởng của những chủ
nhân văn hóa Hòa Bình.
Trong các hang động thuộc văn hóa Hòa
Bình thường có tầng văn hóa dày, hàm chứa vỏ
các loài nhuyễn thể, tàn tích xương răng động
vật. Đó là tàn tích thức ăn để lại của người tiền
sử, cùng với các di vật khảo cổ, than tro và di
7Số 29 (Tháng 9 - 2019)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
cốt người. Các tích tụ này thường nằm trực
tiếp trên nền hang đá vôi, hoặc trong lớp đất
sét vôi màu, thường có kết cấu bở rời, có tuổi
sau Cánh Tân. Tiêu biểu như hang Làng Đồi
(huyện Lương Sơn), tầng văn hóa dày tới 4,5m
chứa hơn 1.000 công cụ đá tiêu biểu của chủ
nhân văn hóa Hòa Bình, cùng rất nhiều di tích
xương răng động vật, vỏ ốc suối, và di tích mộ
táng với 1 mảnh hộp sọ và 3 mảnh xương hàm.
Hoặc như ở hang Sào Đông I (huyện Kim Bôi),
tầng văn hóa tương đối nguyên vẹn, dày tới
2m. Các nhà khảo cổ tìm thấy gần 1.200 hiện
vật bằng đá mang đặc trưng văn hóa Hòa Bình
cùng nhiều di tích xương răng động vật. Cũng
đã phát hiện vài mảnh gốm trên bề mặt [15,
tr.34-37; tr.83-116].
Các di tích động vật trong các di chỉ văn hóa
Hòa Bình gồm các loài nhuyễn thể, chủ yếu là
ốc núi, ốc suối và xương cốt động vật có xương
sống. Đó là dấu tích sau những bữa ăn thường
ngày của cư dân nguyên thủy. Xương cốt động
vật thường bị đập vỡ, hầu như chưa tìm thấy
di cốt đầy đủ của một động vật lớn. Tất cả di
cốt động vật trong các di tích Hòa Bình là động
vật hoang dã mà ngày nay vẫn đang tồn tại.
Đó là những đối tượng săn bắn của người Hòa
Bình. Trong các cuộc khai quật tại hang Xóm
Trại (huyện Lạc Sơn), hang Động Can (huyện
Kỳ Sơn) cho thấy, động vật nhỏ chiếm đa số
so với động vật lớn [5, tr.27]. Hiện tượng này
cũng thấy khá phổ biến ở các hang động Hòa
Bình khác.
Các nhà nghiên cứu cho rằng nhuyễn thể là
đối tượng chủ yếu trong hoạt động thu lượm
của cư dân văn hóa Hòa Bình. Khối lượng vỏ
các loại trai ốc trong các hang động Hòa Bình
rất lớn, một số di chỉ đạt tới hàng trăm mét
khối như ở hang Làng Đồi, hay Hang Muối
(huyện Tân Lạc). Điều này khiến một số nhà
nghiên cứu xem đặc trưng văn hóa Hòa Bình
như là văn hóa của cư dân “ăn ốc”. Những tàn
tích còn lại trong các hang động Hòa Bình chỉ
phản ánh phần nào kết quả hoạt động tìm
kiếm thức ăn của chủ nhân văn hóa này. Vết
tích thực vật trong văn hóa Hòa Bình phát hiện
chưa nhiều và hầu như chưa thấy giống loài đã
được con người thuần hóa.
Nghiên cứu kinh tế - xã hội của cư dân văn
hóa Hòa Bình, thực chất là tìm hiểu phương
thức kiếm ăn, giải quyết vấn đề lương thực của
các tập đoàn người cổ Hòa Bình. Phần đông
các nhà khoa học thừa nhận, săn bắt, hái lượm
là phương thức tìm kiếm thức ăn chủ đạo của
cư dân văn hóa Hòa Bình. Những hoạt động
săn bắt hái lượm của người Hòa Bình chủ yếu
diễn ra trong các thung lũng đá vôi. Khi nghiên
cứu thành phần các giống loài động vật trong
các di chỉ Hòa Bình cho thấy, người Hòa Bình là
những cư dân săn bắt đa tạp, không nhằm vào
một vài giống loài động vật nào cụ thể, trong
điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, nghĩa
là săn bắt theo phổ rộng. Đối tượng hoạt động
hái lượm của cư dân Hòa Bình khá phong phú,
bao gồm các động vật nhỏ, trứng chim, nấm,
hoa quả và đặc biệt là các loài thủy sinh thân
mềm sống ở dưới sông, suối.
Đặc trưng nổi bật của văn hóa Hòa Bình
là tổ hợp di vật gồm đồ đá, đồ xương, vỏ trai,
trong đó đồ đá là chủ yếu. Người Hòa Bình cổ sử
dụng đá cuội sông, suối để chế tác công cụ với
kỹ thuật ghè đẽo còn thô sơ. Họ cũng đã biết
đến kỹ thuật mài, tuy mới ở mức sơ khai. Di vật
công cụ đá Hòa Bình phong phú và ổn định với
một số loại hình đặc trưng như công cụ có hình
hạnh nhân, hình tam giác, hình đĩa, hình ô van
cùng rìu ngắn, rìu dài được làm từ cuội nguyên
hoặc cuội bổ và chủ yếu được ghè một mặt.
Công cụ bằng xương, vỏ trai trong văn hóa Hòa
Bình có số lượng rất ít. Bước đầu xác nhận ở đây
có mặt rìu xương, đục xương, mũi nhọn xương,
nạo vỏ trai. Phần lớn công cụ xương trong văn
hóa Hòa Bình được mài và được chuốt nhẵn
cẩn thận. Trên một số rìu xương được khắc
vạch. Gốm cũng đã xuất hiện trong các lớp mặt
của 50 địa điểm (khoảng 1.800 mảnh) thuộc
lớp văn hóa Hòa Bình muộn. Gốm thô, có loại
gốm nặn tay, được trang trí văn thừng đập, văn
khắc vạch, trổ lỗ. Đó là những đặc trưng mang
tính thống nhất trong tổ hợp di vật của nền
văn hóa Hòa Bình.
Số 29 (Tháng 9 - 2019)8
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Tại tỉnh Hòa Bình, các di tích mộ táng trong
văn hóa Hòa Bình khá nhiều. Điển hình là các
di chỉ Triềng Xến, Làng Vành, Hang Đắng đã
tìm thấy nhiều xương người bị đốt cháy hoặc
có vết chẻ. Bên cạnh di cốt người, trong mộ
táng ở Hang Đắng có chôn theo hàm dưới của
khỉ, cầy cáo. Đặc điểm quan trọng là người Hòa
Bình chôn người chết ngay trong địa điểm cư
trú. Tại các hang Động Can, Làng Vành, Hang
Đắng, mộ có thể ở góc hang hoặc hốc đá, gần
bếp lửa. Điều này phản ánh tâm lý của người
Tiền sử không muốn xa rời người thân của
mình, mong muốn người chết được “yên nghỉ”
ở chỗ sinh hoạt thường ngày của cộng đồng
như bếp lửa, hoặc nơi nghỉ ngơi. Qua những tư
liệu khai quật khảo cổ học cho thấy, phương
thức chôn nằm co, hoặc nằm nghiêng bó gối
là hình thức chôn phổ biến của người Tiền sử
Hòa Bình, thứ đến là chôn ngửa, chân tay duỗi
thẳng. Phần lớn là những mộ chôn đơn, cũng
có trường hợp bắt gặp hiện tượng chôn tập
thể như địa điểm hang Làng Gạo (huyện Lương
Sơn). Tại đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy di
cốt của 20 cá thể người. Xương đã mủn nát và
có cặn vôi bám. Những chiếc sọ này chôn khá
tập trung trong khoảng 25m2, ở độ sâu 0,60m.
Ngoài những cốt sọ ra không tìm thấy các hiện
vật khảo cổ chôn theo. Đây không phải là một
phương thức chôn cất, mà có thể là một tập
tục mang ý nghĩa tôn giáo nào đó [2]. Hầu hết
các di cốt người đều được rắc thổ hoàng trước
khi chôn. Đặc biệt, đáng chú ý là tại hang Lam
Gan II (huyện Lương Sơn), các nhà khoa học đã
phát hiện được một chỏm sọ người lớn, bên
trong chứa đựng một vài nhánh xương sườn
của một đứa trẻ. Hiện tượng này được các nhà
khảo cổ lý giải, người Lam Gan II lấy một chỏm
sọ của người lớn để đựng một bộ phận xương
cốt trẻ con. Đó chính là bằng chứng của tục cải
táng [7, tr.10-13]. Hầu hết các mộ táng đều có
chôn theo đồ tùy táng. Đó là những dụng cụ
lao động, sinh hoạt hàng ngày như công cụ đá,
đồ trang sức.
Ngày nay, trên cơ sở những cứ liệu khoa
học mới được phát hiện, cùng với sự hỗ trợ
của các phương tiện khoa học hiện đại, các
nhà khảo cổ học Việt Nam đã tạm thống nhất
đưa ra một phác đồ về khung niên đại của nền
văn hóa Hòa Bình tại Việt Nam như sau:
- Niên đại mở đầu của nền văn hóa Hòa Bình
là khoảng từ 18.420 năm ± 50 năm cách ngày
nay (di chỉ hang Xóm Trại - Lạc Sơn) đến 16.470
năm ± 80 năm (di chỉ Làng Vành - Lạc Sơn).
- Niên đại kết thúc của nền văn hóa Hòa
Bình là 7.500 năm cách ngày nay (lấy niên đại
C14 ở di chỉ Hang Đắng làm căn cứ).
Khi nghiên cứu về cơ cấu tổ chức xã hội của
người Hòa Bình, nhiều ý kiến cho rằng người
Hòa Bình thuộc về chế độ bộ lạc mẫu hệ. Mỗi
hang động là một đơn vị cư trú. Trong hang
có di tích bếp lửa hoặc vài đống tro phân bố ở
trung tâm hoặc gần khu vực cửa hang. Khuynh
hướng phát triển của các bếp lửa theo niên đại
từ sớm đến muộn là nhỏ dần về kích thước và
tăng dần về số lượng. Có thể cho rằng, mỗi
hang là nơi cư trú của một gia đình lớn. Nếu coi
những bếp lớn chiếm gần hết diện tích hang ở
tầng văn hóa Sơn Vi thuộc hậu kỳ Đá cũ là một
gia đình lớn gồm nhiều thế hệ, thì những bếp
nhỏ trong các di chỉ Hòa Bình là dấu hiệu của
các gia đình nhỏ cùng chung sống. Mặt khác,
đặc điểm phân bố theo từng nhóm di tích và
mỗi nhóm chiếm cứ một vài ba thung lũng
là một kiểu tập hợp cư dân dựa trên quan hệ
huyết tộc đóng vai trò quan trọng
Khi nghiên cứu đời sống tinh thần của
người Hòa Bình, đã có những bằng chứng về sự
sáng tạo nghệ thuật nguyên thủy. Người Hòa
Bình xưa đã nhận thức được vẻ đẹp từ thiên
nhiên, rồi sử dụng những cái đẹp sẵn có ấy,
biến nó thành những đồ trang sức phục vụ con
người. Họ đã lấy những vỏ ốc đẹp xâu lại thành
vòng đeo tay, đeo cổ. Những ý tưởng làm đẹp
sơ khai này là mầm mống của sáng tạo nghệ
thuật. Nhìn chung, nghệ thuật nguyên thủy
Hòa Bình dung dị, mang tính ước lệ cao, phản
ánh mối quan hệ của con người với môi trường
săn bắt hái lượm ở vùng nhiệt đới.
9Số 29 (Tháng 9 - 2019)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Trong cuộc khai quật tại hang Triềng Xến,
hoặc ở mái đá Làng Mị, hang Lam Gan (huyện
Kim Bôi), nhà khảo cổ M. Colani đã phát hiện ra
những di vật xương, hoặc phiến đá có những
hình khắc độc đáo. Ở hang Xóm Trại, người
xưa sử dụng các hình khắc vạch dài ngắn khác
nhau trên hai thanh đá cuội, dường như biểu
thị hình con thú [6, tr.149]. Đặc biệt, tại hang
Đồng Nội (huyện Lạc Thủy), trên vách hang có
hình khắc mặt một con thú và ba mặt người.
Những hình khắc này ở ngay cửa vào hang,
cao cách mặt đất từ 1,50m đến 1,75m, vừa tầm
khắc họa của bàn tay người. Hình khắc con thú
không rõ lắm, nhưng phần miệng, mũi và sừng
có thể cho thấy đây là loại thú ăn cỏ. Rõ nét
hơn cả là hình khắc ba mặt người. Một hình
mặt người đã bị phá hủy mất một nửa. Hình
mặt người ở giữa có kích thước lớn hơn, là hình
duy nhất có khắc lông mày. Nét khắc trên ba
mặt người có tính chất sơ đồ nhưng khá gần
với hiện thực. Điều đặc biệt đáng chú ý là, ở
phía trên đỉnh đầu hình ba mặt người đều
khắc hình chữ Y, có thể đó là biểu tượng của
những cặp sừng mà “tác giả” muốn thể hiện.
Những nét khắc hình người có sừng đã được
tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Các nhà
khoa học cho rằng, hình người có sừng là hiện
tượng phi thực tế, chúng giống như loại hình
nửa người nửa thú trong nghệ thuật mang
tính chất tôn giáo, chủ yếu là tô tem giáo, thờ
vật tổ. Người ta tin rằng, nguồn gốc của cộng
đồng họ là một loài động vật, thực vật hay một
vật vô tri nào đó. Người nguyên thủy thường
tổ chức những nghi lễ thờ cúng vật tổ, khoác
lốt thú. Người ta cũng khắc vẽ hình vật tổ lên
các vách hang. Từ những hình khắc trên vách
đá ở hang Đồng Nội cho phép suy đoán rằng:
Cư dân nguyên thủy ở đây có tín ngưỡng tô
tem giáo. Vật tổ của họ là loài động vật ăn cỏ,
có thể là hươu, nai, trâu, bò, v.v... Đến nay, việc
xác định niên đại chính xác cho những hình
khắc này vẫn đang được tiến hành. Tuy nhiên,
dưới nền hang, các nhà khảo cổ đã phát hiện
nhiều công cụ kiểu Hòa Bình. Như vậy, những
hình khắc trên vách đá ở vách hang Đồng Nội
có thể là tác phẩm nghệ thuật do chủ nhân
nền văn hóa Hòa Bình sáng tạo.
Với số lượng vô cùng phong phú các di tích,
di vật văn hóa Hòa Bình, đã khẳng định tỉnh
Hòa Bình là quê hương của nền văn hóa Tiền
sử nổi tiếng này.
2. Trống đồng (trống Đông Sơn và trống
Mường)
Trống đồng là một tài sản quý giá được coi
là báu vật mà cha ông để lại, là biểu tượng của
nền văn minh và văn hóa Việt Nam thời dựng
nước. Hòa Bình là một trong những tỉnh phát
hiện và lưu giữ nhiều trống đồng nhất trong
cả nước. Tại Hòa Bình, trống đồng Sông Đà là
chiếc trống được phát hiện sớm nhất, do phó
sứ Muliê tỉnh Hòa Bình lấy từ nhà người vợ góa
của viên quan lang Mường vùng sông Đà, được
đưa về Pháp, trưng bày tại Hội chợ quốc tế Paris
năm 1889. Hiện nay, trống Sông Đà được lưu
giữ tại Bảo tàng Ghimê thuộc Cộng hòa Pháp.
Cho đến nay, lịch sử nghiên cứu trống đồng
đã có hơn 100 năm. Ngay từ cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, các học giả phương Tây tập
trung vào nghiên cứu các hiện vật cổ độc đáo
của xứ sở Viễn Đông mà nổi bật nhất là trống
đồng. Năm 1902, nhà khảo cổ học người Áo
F. Heger đã tiến hành nghiên cứu 165 trống
đồng sưu tầm được ở Đông Nam Á và phân
chia thành 4 loại chính: I, II, III, IV và 3 loại trung
gian: I-II, I-IV và II-III. Đến nay, trên phạm vi
tỉnh Hòa Bình đã phát hiện được hơn 70 trống
đồng, trong đó có 10 trống loại I Heger và hơn
60 trống loại II Heger.
2.1. Trống Đông Sơn (trống lo