Mỗi giao dịch trong thị trường chứng khoán là một cuộc làm ăn,
nhiều khi đó là một cuộc làm ăn lớn. Các giao dịch thường diễn
ra và kết thúc cực kỳ nhanh, có thể chỉ tốn vài giây để gút một
hợp đồng bạc tỷ. Ở các thị trường lớn như phố Wall hay Tokyo,
hàng triệu giao dịch phát sinh mỗi ngày, trị giá hàng tỷ USD. Sự
sôi động của loại thị trường nhạy cảm này vừa thách thức vừa
đặt tiền đề cho các nhà quản lý về khả năng duy trì một nề nếp
trật tự và đạo đức kinh doanh.
Về pháp luật và nghiệp vụ đầu tư, người đầu tư có thể dễ dàng
nếu không muốn nói là luôn luôn cần đến các cố vấn và các công
ty chứng khoán lo liệu cho mình. Riêng những điều cấm kỵ thì
chẳng những giới chuyên nghiệp phải thuộc lòng mà người đầu
tư cũng cần biết để tránh, để cảnh giác, tự bảo vệ mình và còn có
ý nghĩa giúp thị trường ngày càng hoàn thiện.
14 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những điều "cấm kỵ” khi tham gia thị trường chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những điều "cấm kỵ” khi tham gia
thị trường chứng khoán
Mỗi giao dịch trong thị trường chứng khoán là một cuộc làm ăn,
nhiều khi đó là một cuộc làm ăn lớn. Các giao dịch thường diễn
ra và kết thúc cực kỳ nhanh, có thể chỉ tốn vài giây để gút một
hợp đồng bạc tỷ. Ở các thị trường lớn như phố Wall hay Tokyo,
hàng triệu giao dịch phát sinh mỗi ngày, trị giá hàng tỷ USD... Sự
sôi động của loại thị trường nhạy cảm này vừa thách thức vừa
đặt tiền đề cho các nhà quản lý về khả năng duy trì một nề nếp
trật tự và đạo đức kinh doanh.
Về pháp luật và nghiệp vụ đầu tư, người đầu tư có thể dễ dàng
nếu không muốn nói là luôn luôn cần đến các cố vấn và các công
ty chứng khoán lo liệu cho mình. Riêng những điều cấm kỵ thì
chẳng những giới chuyên nghiệp phải thuộc lòng mà người đầu
tư cũng cần biết để tránh, để cảnh giác, tự bảo vệ mình và còn có
ý nghĩa giúp thị trường ngày càng hoàn thiện.
Sẽ có rất nhiều các cấm kỵ và hạn chế đối với các thành viên
trong thị trường chứng khoán cũng như bất cứ ai tham gia vào thị
trường này.
CÁC THỦ THUẬT GIAN LẬN VÀ GIẢ TẠO
Người tham gia, nhất là các nhân viên trực tiếp làm việc trong thị
trường chứng khoán tuyệt đối không được dùng các mưu kế hay
phương pháp vận hành giả tạo nhằm đánh lừa hoặc gian lận để
tác động theo ý mình khi giao dịch hoặc nhằm để chiêu dụ việc
mua hay bán một chứng khoán nào đó.
Ví dụ như năm 2000 tại thị trường phố Wall, một số nhân viên Sở
giao dịch chứng khoán New York đưa ra các nhận định có dụng ý
và sai sự thật, thực hiện các động tác giả. Hạn chế hành vi như
trên sẽ giúp cho cơ chế mua bán trong thị trường chứng khoán
tuân thủ các động cơ tự nhiên theo nhiệt độ của thị trường và
chống lừa đảo. Theo luật giao dịch chứng khoán của Mỹ thì giới
hạn truy cứu là 3 năm và hiệu lực phát hiện trong vòng một năm,
với sự đền bù thiệt hại không hạn chế và tuỳ theo mức độ.
TƯ VẤN CHO KHÁCH HÀNG KHÔNG PHÙ HỢP, THIẾU CƠ
SỞ
Khi khách hàng tìm đến nhà tư vấn hoặc quan hệ với công ty
chứng khoán, họ mặc nhiên phó thác niềm tin vào những nơi này.
Mỗi khách hàng có những nhu cầu đầu tư riêng. Các điều kiện tài
chính, nhân thân, thể trạng tâm lý, mức chịu đựng rủi ro... của họ
khác nhau. Họ cần được điều tra đầy đủ, được giải thích cặn kẽ,
gồm cả các phân tích rủi ro đúng mực và báo họ biết trước. Bất
cứ sự thiếu tận tuỵ, qua loa lấy lệ nào gây hậu quả xấu cho khách
hàng đều được xem là vi phạm nguyên tắc hành xử trong thị
trường chứng khoán.
Những “hành xử” trung thực “fair dealing” này có thể đo lường
được dễ dàng bằng một số tình huống được liệt kê. Ví dụ không
thể có chuyện khách hàng của một công ty môi giới bị “mắc quai”
vào một quyết định đầu tư mà có thể đặt họ vào rủi ro vượt quá
khả năng tài chính của họ. Hoặc một phụ nữ đang mang thai, một
người bệnh tim, lại được hướng dẫn đầu tư vào các chứng khoán
hay chiến lược có độ rủi ro cao, dù có thể sẽ mang lại lợi nhuận
nhiều,...
MUA BÁN QUÁ MỨC CẦN THIẾT
Trong thị trường chứng khoán các nhà đầu tư do không có thời
giờ hoặc không tinh thông bằng các nhà môi giới,... họ có thể mở
một trương mục uỷ thác “discretionary account” giao trọn quyền
mua bán lại cho nhà môi giới. Hoạt động mua bán quá mức xảy
ra khi người môi giới làm như thế để gia tăng tiền huê hồng của
mình chứ không phải vì mục đích kiếm lời cho khách hàng đầu
tư. Hành động “tạo sóng” để thủ lợi hay “dành sữa vớt bơ” này
thuật ngữ gọi chung là “churning”. Churning vừa có thể là mua
bán quá nhịp độ bình thường hoặc quá quy mô để rồi lại phải
thanh lý phát sinh nghiệp vụ! mới kết thúc giao dịch đó được.
BÁN CỔ TỨC
Việc mua chứng khoán ngay trước đợt phân phối cổ tức mới
nghe tưởng ngon ăn. Thật ra người đầu tư bị đặt trước hai bất
lợi: thứ nhất chứng khoán sẽ bị rớt giá ít ra là bằng với khoản cổ
tức được phân phối - sự rớt giá vì bất cứ lý do nào luôn kèm theo
một động thái tâm lý bất ổn - và thứ hai, người đầu tư sẽ phải
gánh chịu trách nhiệm về khai thuế theo đợt phân phối cổ tức đó.
Các công ty chứng khoán bị cấm khuyến khích người đầu tư mua
các cổ phần vào thời điểm tế nhị này nhằm để tránh một sự chạy
trách nhiệm đối với nghĩa vụ thuế.
VAY MƯỢN TIỀN
Các đại diện của công ty chứng khoán và các nhà tư vấn đầu tư
bị cấm vay tiền hoặc chứng khoán của một khách hàng, ngoại trừ
khách hàng đó đồng thời là một ngân hàng hoặc một đơn vị có
chức năng kinh doanh tài chính. Đồng thời họ cũng bị cấm không
được cho khách hàng vay tiền hoặc chứng khoán nếu họ không
được phép hoạt động như vậy.
NGUỴ TẠO BẢN CHẤT
Những người hành nghề trong thị trường chứng khoán không
được trình bày sai lệch ra công chúng về thực chất và các dịch vụ
của họ để “lừa” khách hàng cũ hoặc “câu” khách hàng mới,... các
cấm kỵ kiểu này bao gồm:
- Phẩm chất nghề nghiệp, kinh nghiệm, trình độ.
- Bản chất các dịch vụ được cung ứng.
- Phí dịch vụ.
Bất cứ một sự phô trương nào vượt quá thực chất cũng mắc tội
nguỵ tạo, vì sẽ làm sai lệch quyết định “chọn mặt gởi vàng” của
người đầu tư.
SỬ DỤNG KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU CỦA NGƯỜI KHÁC
Các nhà tư vấn đầu tư và kinh doanh môi giới bị cấm không được
cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu, phân tích hay
khuyến nghị do người khác thực hiện mà không nói thẳng ra đó
không phải là lập luận của mình. Nhưng họ có thể dựa vào các
thông tin, khuyến nghị hoặc phân tích của người khác để đưa ra
các kết quả tư vấn cho khách hàng của mình, miễn là họ phải tiết
lộ là họ đã dùng các nguồn đó.
XUNG ĐỘT QUYỀN LỢI
Các nhà tư vấn đầu tư phải công khai bằng văn bản các thực
trạng tế nhị dễ gây ra hoặc tiềm ẩn khả năng xung đột quyền lợi
với khách hàng như:
- Mối quan hệ trực tiếp giữa nhà tư vấn với bất cứ nhà cung ứng
sản phẩm chứng khoán nào.
- Các khoản tiền trả phí thu xếp mà khách hàng phải chịu thêm
vào phí tư vấn cho cùng dịch vụ.
- Nhận phí tư vấn của khách hàng trong khi tiền huê hồng thực
hiện nghiệp vụ chứng khoán, dựa trên kết quả tư vấn đó, cũng có
thể về tay nhà tư vấn hay công ty của họ.
ĐẢM BẢO LỜI LỖ HOẶC CHIA CHÁC VỚI KHÁCH HÀNG
Những người kinh doanh và tư vấn không được cam kết bất cứ
một khoản chạy lỗ hoặc kiếm lời nào sẽ được thực hiện cho tài
khoản của khách hàng, ngoại trừ trong vài trường hợp hạn chế.
Những người hoạt động trong kỹ nghệ chứng khoán cũng không
được chia lãi, chia lỗ với khách hàng. Các ngoại lệ nếu có - ví dụ:
đối với một tài khoán liên kết (joint account) thì phải được công ty
quản lý trực tiếp chấp thuận trước bằng văn bản và họ chỉ được
chia phần tương đương với vốn góp. Các quan hệ gia đình trực
tiếp sẽ được áp dụng linh động hơn.
LẠM DỤNG THÔNG TIN NỘI BỘ
Đây là cấm kỵ cực kỳ nghiêm khắc. Các thông tin không được
công bố ra công chúng được quan tâm đặc biệt vì đây chính là
một nguyên nhân quan trọng bậc nhất tạo ra sự bất công, tiêu
cực, mờ ám,...làm vẩn đục thị trường. Các công ty và nhà tư vấn
chứng khoán bị bắt buộc phải lập các “bức tường cách ly”
(Chinese wall) trong nội bộ, soạn quy chế để duy trì và ràng buộc
các chế độ về quản lý thông tin, thiết lập thủ tục và hạn chế nhằm
tích cực ngăn ngừa các vi phạm luật lệ về quản lý thông tin nội
bộ. Luật lệ về thị trường chứng khoán dành nhiều điều khoản chế
định hành vi phi đạo đức này.
TIẾT LỘ THÔNG TIN KHÁCH HÀNG
Thông tin có liên quan đến khách hàng có quan hệ với công ty
chứng khoán phải được giữ kín. Các nhân viên của công ty
chứng khoán không được tiết lộ bất cứ chi tiết nào của khách
hàng cho người khác không có thẩm quyền nếu không có sự
đồng ý của khách hàng đó. Các thông tin này có thể là các vị thế
mua bán, tình trạng nhân thân, tình hình tài chính, các ý đồ chiến
lược,…
Một nguyên tắc quan trọng có tính sống còn của thị trường chứng
khoán là niềm tin của khách hàng. Chính những nhân viên làm
việc trong công nghệ chứng khoán phải có nghĩa vụ giữ lại niềm
tin đó. Trong trường hợp được yêu cầu, được pháp lý xác nhận
và cho phép, tài khoản của khách hàng có thể giao dịch bằng mã
số hoặc mã chữ thay vì bằng chính tên của họ.
LỢI DỤNG CHỨC NĂNG ĐỂ THU VÉN CHO MÌNH
Khi các công ty thành viên và cơ quan trong thị trường chứng
khoán đảm nhận các công đoạn trong hệ thống vận hành như đại
diện chi trả, chuyển nhận, bảo lãnh phát hành chứng khoán,... là
đã cam kết trong một quan hệ uỷ thác đối với các công ty phát
hành. Do vai trò như vậy, các đơn vị này đương nhiên có được
các thông tin riêng, chi tiết về những ai đang làm chủ loại chứng
khoán mà họ đang phục vụ. Đây không phải là lợi thế kinh doanh.
Các thành viên liên quan bị cấm không được sử dụng các thông
tin dạng này cho mục đích vụ lợi. Họ chỉ được sử dụng theo yêu
cầu cụ thể hoặc sự cho phép của công ty phát hành. Chẳng hạn,
một đơn vị thành viên giữ nhiệm vụ chuyển lợi nhuận trong các
giao dịch về cổ phần thường của một công ty không được liên hệ
với các sở hữu chủ cổ phần đó để thu vén lợi riêng.