Tóm tắt. Các kết quả Tổng điều tra dân số (1979, 1989, 1999 và 2009) cho thấy
những thay đổi lớn lao trong các xu hướng sinh, tử, gia tăng tự nhiên, cơ cấu dân số
theo tuổi và giới tính của dân số nước ta. Nghiên cứu dưới đây trình bày sự quá độ
này theo thời gian và cả sự phân hóa không gian (1979-2009). Việt Nam đã đi qua
giai đoạn quá độ dân số, gia tăng dân số đã chậm lại, dân số bước vào giai đoạn
“dân số vàng” kéo dài khoảng 3 thập kỉ, dân số nước ta đã giảm đi được gánh nặng
của dân số phụ thuộc, thì sự quan tâm đối với già hóa dân số đòi hỏi phải có cách
tiếp cận mới đối với bộ phận người cao tuổi ngày càng tăng. Sự mất cân bằng về
giới tính khi sinh đã ở mức báo động và sẽ có thể gây hiệu quả tiêu cực trong hai
thập kỉ tới.
14 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những động thái mới trong biến đổi dân số và cơ cấu tuổi - giới tính của dân số Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2013, Vol. 58, No. 6, pp. 116-129
NHỮNG ĐỘNG THÁI MỚI TRONG BIẾN ĐỔI DÂN SỐ
VÀ CƠ CẤU TUỔI - GIỚI TÍNH CỦA DÂN SỐ VIỆT NAM
Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức
Khoa Địa lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Các kết quả Tổng điều tra dân số (1979, 1989, 1999 và 2009) cho thấy
những thay đổi lớn lao trong các xu hướng sinh, tử, gia tăng tự nhiên, cơ cấu dân số
theo tuổi và giới tính của dân số nước ta. Nghiên cứu dưới đây trình bày sự quá độ
này theo thời gian và cả sự phân hóa không gian (1979-2009). Việt Nam đã đi qua
giai đoạn quá độ dân số, gia tăng dân số đã chậm lại, dân số bước vào giai đoạn
“dân số vàng” kéo dài khoảng 3 thập kỉ, dân số nước ta đã giảm đi được gánh nặng
của dân số phụ thuộc, thì sự quan tâm đối với già hóa dân số đòi hỏi phải có cách
tiếp cận mới đối với bộ phận người cao tuổi ngày càng tăng. Sự mất cân bằng về
giới tính khi sinh đã ở mức báo động và sẽ có thể gây hiệu quả tiêu cực trong hai
thập kỉ tới.
Từ khóa: Việt Nam, biến đổi dân số, cơ cấu tuổi giới tính.
1. Mở đầu
Ở nước ta, trong những thập kỉ từ 1979 đến nay, cứ 10 năm lại có một cuộc Tổng
điều tra dân số (1979, 1989,1999, 2009), và từ 1999 trở lại đây là Tổng điều tra dân số và
nhà ở. Những thông số về dân số là quan trọng để có thể tích hợp được các chính sách dân
số với các chính sách phát triển của cả nước và của từng vùng. Các thông số về dân số còn
là “đầu vào” quan trọng trong việc quy hoạch tổng thể phát triển của từng ngành và từng
vùng, trong đó có những ngành trực tiếp đến an sinh xã hội như giáo dục, y tế, bảo hiểm
xã hội, lao động – việc làm...
Trong bài này, chúng tôi chỉ phân tích khái quát những động thái mới của dân số
liên quan đến gia tăng dân số tự nhiên và cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính, cả theo
chiều thời gian và chiều không gian.
Ngày nhận bài 1/8/2013. Ngày nhận đăng 30/08/2013.
Liên lạc Nguyễn Viết Thịnh, e-mail: thinhnv@hnue.edu.vn
116
Những động thái mới trong biến đổi dân số và cơ cấu tuổi - giới tính của dân số Việt Nam
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Dân số và sự biến đổi dân số
2.1.1. Dân số và sự gia tăng dân số
Về diện tích tự nhiên, nước ta đứng thứ 58 trên thế giới, nhưng về dân số, nước
ta đứng thứ 13. Theo các cuộc Tổng điều tra dân số, dân số nước ta là 76,3 triệu người
(1/4/1999), 85,8 triệu người (1/4/2009). Theo Dự báo dân số 2009-2049 [6], thì dân số
nước ta sẽ vượt ngưỡng 100 triệu người vào năm 2025, đạt tới con số 108,7 triệu người
vào năm 2049. Vào năm 1921, dân số nước ta mới có 15,6 triệu người. Bốn mươi năm sau
(1961) dân số tăng gấp đôi. Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, hiện tượng "bùng
nổ" dân số ở nước ta bắt đầu từ những năm 50 của thế kỉ này. Đến khoảng năm 1980 -
1985, dân số nước ta còn ở vào cuối giai đoạn II của sự quá độ dân số, và như vậy là sự
"bùng nổ" dân số ở nước ta đạt mức cực đại vào cuối thập kỉ 70, đầu thập kỉ 80, sau đó
mới giảm dần, đi vào thế ổn định từ khoảng năm 2000 - 2005 trở đi.
Việt Nam hiện đã chuyển sang giai đoạn cuối của quá trình quá độ dân số: tỉ lệ sinh
đã tương đối thấp và đang giảm chậm; tỉ lệ tử vong cũng giữ ổn định ở mức tương đối
thấp. Hiện nay, tỉ suất gia tăng dân số của nước ta đã tương đương hoặc thấp hơn mức
trung bình của thế giới, khẳng định những thành tựu to lớn của công tác dân số, kế hoạch
hoá gia đình. Theo 2009 World Population Data Sheet (Population Reference Bureau), thì
năm 2009, tỉ suất sinh của nước ta là 17%, tỉ suất tử là 5%, tỉ suất gia tăng tự nhiên 1,2%.
Trong khi đó, các chỉ tiêu này trung bình toàn thế giới tương ứng là 20%, 8% và 1,2%.
Bảng 1. Dân số trung bình và tỉ lệ phát triển dân số hàng năm
ở Việt Nam trong thời kì 1951- 2010
Năm Tổng số dân (nghìn người) Tỉ lệ phát triển dân số hàng nămGiai đoạn %
1951 23061 - -
1955 25074 1951-1955 2,11
1960 30172 1955-1960 3,77
1965 34929 1960-1965 2,97
1970 41063 1965-1970 3,29
1975 47638 1970-1975 3,02
1980 53722 1975-1980 2,43
1985 59872 1980-1985 2,19
1990 66016 1985-1990 1,97
1995 71995 1990-1995 1,75
2000 77631 1995-2000 1,52
2005 82392 2000-2005 1,20
2010 86928 2005-2010 1,08
Nguồn: Phân tích kết quả điều tra mẫu - Tổng điều tra dân
dân số Việt Nam 1989; Niên giám thống kê năm 2010
117
Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức
Mức phát triển dân số trong hai thập niên qua đã giảm đi đáng kể. Vào đầu thập
kỉ 90 của thế kỉ XX, mỗi năm dân số tăng thêm hơn 1,2 triệu người, đến năm 2000, tăng
thêm khoảng 1,0 triệu người và vào cuối thập niên dầu của thế kỉ XXI, mỗi năm tăng thêm
khoảng 900 nghìn người. Số dân tăng thêm này tương đương dân số của một tỉnh (năm
2010, có 20 tỉnh, thành phố có dân số dưới 900 nghìn người), lớn gấp đôi số dân của một
số tỉnh như Lai Châu, Bắc Kạn, Kon Tum.
Hình 1. Dân số và gia tăng dân số (nghìn người) 1990-2010
Tỉ suất tăng tự nhiên thay đổi khá mạnh theo các vùng của nước ta, trị số cao nhất
gấp khoảng 1,7 lần so với trị số thấp nhất. Điều này chủ yếu do sự khác biệt trong tỉ suất
sinh thô.
Bảng 2. Một số chỉ tiêu về biến động dân số tự nhiên
phân theo vùng năm 1999 và năm 2009
Năm 1999 Năm 2009
Tỉ suất
sinh thô
(%)
Tỉ suất
chết thô
(%)
Tỉ suất
GTTN
(%)
Tỉ suất
sinh thô
(%)
Tỉ suất
chết thô
(%)
Tỉ suất
GTTN
(%)
Cả nước 19,9 5,6 1,43 17,6 6,8 1,08
- Thành thị 15,9 4,2 1,12 17.3 5,5 1,18
- Nông thôn 21,2 6,0 1,52 17,8 7,4 1,04
Miền núi - Trung
du Bắc Bộ: - - - 19,5 6,5 13,0
- Đông Bắc 19,3 6,4 1,29 - - -
- Tây Bắc 28,9 7,0 2,19 - - -
Đồng bằng sông
Hồng
16,2 5,1 1,11 17,6 7,2 1,04
118
Những động thái mới trong biến đổi dân số và cơ cấu tuổi - giới tính của dân số Việt Nam
Bắc Trung Bộ 21,4 6,7 1,47 16,8 7.6 0,92
Duyên hải Nam
Trung Bộ 21,0 6,4 1,46 16,9 6.5 1,04
Tây Nguyên 29,8 8,7 2,11 21,9 6.1 1,58
Đông Nam Bộ 18,2 4,5 1,37 17,8 6.3 1,15
ĐB sông Cửu
Long 18,9 5,0 1,39 16,0 6.8 0,92
Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/1999: Kết quả điều tra mẫu; Kết quả xử lí
của tác giả từ Dữ liệu điều tra mẫu 15%, Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009
2.1.2. Phân tích động thái tỉ suất tử vong
Tỉ suất tử vong thô (CDR) ở nước ta những năm qua chịu tác động của nhiều biến
cố xã hội. Hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mĩ xâm lược đã để
lại những tổn thất to lớn về người. Không chỉ hàng triệu người bị giết trong chiến tranh
(mà phần lớn trong số này ở tuổi tráng niên), mà còn hàng triệu người khác mang thương
tật do chiến tranh, và hậu quả còn để lâu dài cho các thế hệ mai sau.
Mặt khác, song song với việc ổn định và phát triển kinh tế, sự phát triển của y học
nước nhà, cải thiện điều kiện dịch vụ y tế, đặc biệt là việc chăm sóc bà mẹ và trẻ em, chăm
sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân đã góp phần làm giảm nhanh chóng tỉ suất tử vong.
Tỉ suất tử vong thô của dân số Việt Nam năm 1965 là 12%, năm 1989 là 7,3%, đến năm
1999 chỉ còn 5,6%. năm 2009 là 6,8%, có phần cao hơn năm 1999.
Tỉ suất tử vong thay đổi giữa các vùng, tuy không thật lớn. Nếu như năm 1999, tỉ
suất tử vong thô cao nhất là ở Tây Nguyên, thấp nhất ở Đông Nam Bộ và đồng bằng sông
Hồng, thì năm 2009 ta thấy một xu hướng khác: hai vùng xuất cư là chính (Đồng bằng
sông Hồng và Bắc Trung Bộ) có tỉ suất tử vong thô cao nhất, còn hai vùng nhập cư lớn
nhất (Tây Nguyên và Đông Nam Bộ) có tỉ suất tử vong thô thấp nhất. Điều này phản ánh
tác động tích lũy nhiều năm của các luồng xuất cư ra khỏi vùng Đồng bằng sông Hồng và
Bắc Trung Bộ làm tăng tỉ trọng người cao tuổi trong cơ cấu dân số của vùng đi, cũng như
tác động theo chiều ngược lại của các luồng nhập cư người trẻ, khỏe tới Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ.
Việc giảm tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) đã đóng góp phần quan trọng
vào việc giảm tỉ suất tử vong thô.
Bảng 3. Tỉ suất tử vong thô (CDR) phân theo thành thị, nông thôn, 1989-2009
1989 1999 2009
Toàn quốc: 7,3 5,6 6,8
- Thành thị 5,1 4,2 5,5
- Nông thôn 7,9 6,0 7,4
Chuẩn hóa CDR của toàn quốc theo cơ cấu
tuổi của năm 2009
9,7 5,6 6,8
Nguồn [2;68]
119
Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức
Hình 2. Bản đồ Tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi năm 1999 và năm 2009
Nếu như IMR (1995-2000) trung bình trên thế giới là 57%, ở các nước phát triển là
9%, các nước đang phát triển là 63%, còn các nước kém phát triển nhất là 99%, thì ở nước
ta cùng thời kì là 38%. Năm 2009, IMR toàn quốc là 16%, so với 36,7% năm 1999. Cũng
trong năm 2009, thì IMR trung bình thế giới là 46%, các nước phát triển là 6%, các nước
đang phát triển là 50%. Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 5 (về IMR thấp)
sau các nước Singapo, Thái Lan, Malayxia, Brunây. Việc triển khai các chương trình y tế
quốc gia (tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, phòng chống sốt rét, lao, phòng chống bướu cổ
và các bệnh xã hội, giám sát AIDS...) đang góp phần làm giảm tỉ lệ mắc và chết do các
căn bệnh nguy hiểm này.
Hai bản đồ Tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi (Hình 2) cho thấy tình hình được cải
thiện rất mạnh ở các tỉnh, thành phố từ năm 1999 đến 2009. IMR năm 1999 dao động từ
10,5% (TP Hồ Chí Minh) đến 82,7% (Kon Tum), năm 2009 là từ 8,9% (TP Hồ Chí Minh)
đến 47,7% (Lai Châu). Có sự thay đổi nhất định trong mẫu hình không gian của tỉ suất tử
vong trẻ em dưới 1 tuổi phân theo tỉnh trong thời kì này.
Tuổi thọ trung bình của dân cư nước ta đã tăng đáng kể, trong vòng 20 năm (1989-
2009) đã tăng 7,6 tuổi (nam tăng 7,2, nữ tăng 8,1 tuổi). Tuổi thọ của nữ cao hơn của nam
tới 5,4 tuổi (2009). Cùng với việc nâng tuổi thọ chung của dân cư, thì khoảng cách tuổi
120
Những động thái mới trong biến đổi dân số và cơ cấu tuổi - giới tính của dân số Việt Nam
thọ giữa nữ và nam sẽ tăng lên trong tương lai.
Hình 3. Bản đồ tuổi thọ trung bình của dân cư, năm 1999 và 2009
Tuổi thọ trung bình của dân cư phân hóa khá mạnh giữa các tỉnh. Năm 1999, tuổi
thọ thấp nhất của dân cư là thuộc tỉnh Kon Tum (55,8 tuổi) và cao nhất là ở TP Hồ Chí
Minh (78,2 tuổi). Năm 2009, tuổi thọ trung bình thấp nhất là ở tỉnh Lai Châu (63,9 tuổi)
và cao nhất vẫn là TP Hồ Chí Minh (75,9 tuổi). Nếu so sánh các bản đồ ở Hình 2 và Hình
3, đều được lập thang chú giải theo cùng một phương pháp (ở đây là phương pháp phân
bậc tự nhiên), thì có thể rút ra nhận xét thú vị: Bản đồ về tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi
và bản đồ về tuổi thọ trung bình của dân cư giống như là âm bản và dương bản của một
tấm hình vậy.
Bảng 4. Tuổi thọ trung bình của dân cư 1989, 1999, 2009
1989 1999 2009
Chung 65,2 68,2 72,8
- Nam 63,0 66,5 70,2
- Nữ 67,5 70,1 75,6
Chênh lệch và tuổi thọ giữa nữ và nam 4,5 3,6 5,4
Trong các nguyên nhân gây tử vong, chiếm tỉ lệ cao nhất vẫn là các bệnh truyền
121
Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức
nhiễm, kí sinh trùng, suy dinh dưỡng, thiếu máu. Tiếp đến là các bệnh về đường hô hấp,
đường tiêu hoá. Đáng chú ý là một số nguyên nhân gây tử vong chiếm tỉ lệ cao ở các nước
phát triển thì nay cũng bắt đầu chiếm tỉ lệ đáng kể ở nước ta, chẳng hạn như bệnh ung thư,
bệnh tim mạch... Tai nạn giao thông cũng là một nguyên nhân gây tử vong quan trọng.
Việc nhiễm HIV và mắc bệnh AIDS ở một số nhóm dân cư có nguy cơ cao cũng đang trở
thành mối quan tâm chung của cộng đồng.
2.1.3. Phân tích động thái tỉ suất sinh
Nước ta trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, kéo dài từ 1945 đến 1975. "Quy luật
bù trừ" trong phát triển dân số sau chiến tranh đã đưa đến những đỉnh cao trong tỉ suất
sinh vào cuối thập kỉ 50, đầu thập kỉ 60 (ở miền Bắc) và vào những năm cuối thập kỉ 70
(trong cả nước).
Hiện nay, công tác kế hoạch hoá gia đình thu hút sự nỗ lực của các tổ chức xã hội và
các cá nhân, trở thành một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta. Tuy nhiên, việc phấn đấu giảm tỉ suất sinh phụ thuộc rất lớn vào kết quả của cuộc
vận động này ở vùng nông thôn, nơi có tỉ suất sinh còn cao, mấy thập kỉ gần đây còn tập
trung gần 80% dân số, và trong thập kỉ qua, do đô thị hóa tăng tốc, thì cũng còn tập trung
khoảng 70% dân số. Mặt khác một loạt các nhân tố kinh tế - xã hội chưa thật sự thuận lợi
cho việc thay đổi cách nghĩ và hành vi sinh sản của các cặp vợ chồng trẻ.
Tổng tỉ suất sinh (TFR) còn được gọi là "số con trung bình của một phụ nữ ở độ
tuổi sinh đẻ". Tổng tỉ suất sinh tính chung cả nước đã giảm từ 5,5 (giai đoạn 1969-1974)
xuống 4,85 (1978-1979), 3,80 (1988-1989), 2,3 (năm 1999) và 2,03 (năm 2009) dưới mức
sinh thay thế. Đây là cố gắng lớn trong việc kiểm soát tỉ lệ sinh.
Bảng 5. Tổng tỉ suất sinh ở các vùng năm 1989, 1999 và 2009
Năm 1989 Năm 1999 Năm 2009
Cả nước: 3,80 2,33 2,03
- Thành thị 2,23 1,67 1,81
- Nông thôn 4,27 2,57 2,14
Miền núi và trung du Bắc Bộ: 4,17 - 2,24
- Đông Bắc 2,3 (2,17)
- Tây Bắc 3,6 (2,46)
Đồng bằng sông Hồng 3,03 2,0 2,12
Bắc Trung Bộ 4,29 2,8 2,32
Duyên hải Nam Trung Bộ 4,61 2,5 2,15
Tây Nguyên 5,97 3,9 2,65
Đông Nam Bộ 2,89 1,9 1,70
Đồng bằng sông Cửu Long 3,88 2,1 1,83
Nguồn: Kết quả điều tra mẫu - Tổng điều tra dân số 1989, Tổng điều tra dân số
và nhà ở 1999. Xử lí từ Cơ sở dữ liệu điều tra mẫu 15%, Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009.
Đến nay vẫn còn tồn tại sự khác biệt khá lớn về mức sinh giữa thành thị và nông
thôn, cũng như giữa các vùng địa lí lớn, mặc dù các khác biệt này đã thu hẹp đáng kể trong
hai thập kỉ (1989 - 2009). Tây Nguyên vẫn là vùng có mức sinh cao nhất cả nước, kế đến
122
Những động thái mới trong biến đổi dân số và cơ cấu tuổi - giới tính của dân số Việt Nam
là Tây Bắc và Bắc Trung Bộ. Đây cũng là các địa phương dân cư có mức sống thấp hơn
các vùng khác. Tuy nhiên, Tây Nguyên cũng là vùng có mức giảm sinh nhanh nhất trong
hai thập kỉ qua. Tổng tỉ suất sinh cũng giảm khá mạnh ở duyên hải Nam Trung Bộ. Mức
sinh đã khá thấp ở đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long,
trong đó Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh đã thấp dưới mức sinh
thay thế khá xa (Bảng 5). Các bản đồ ở Hình 4 cho thấy rõ hơn sự phân hóa không gian
của tổng tỉ suất sinh ở nước ta vào hai thời điểm 1999 và 2009.
Công tác kế hoạch hoá gia đình ở khu vực đô thị được thực hiện có kết quả tốt, trong
khi đó ở nông thôn vẫn còn tồn tại một khoảng cách đáng kể giữa nhận thức về sức ép dân
số và hành vi sinh đẻ trên thực tế. Dường như có sự giằng co của các yếu tố truyền thống
trước các yếu tố kinh tế và tác động của chính sách dân số.
Bảng 6. Tổng tỉ suất sinh (TFR) giả thiết cho một số giai đoạn dự báo
TĐT 2009 2014-2019 2024-2029 2034-2039 2044-2049
Cả nước: 2,03 1,93 1,88 1,86 1,85
- Thành thị 1,81 1,75 1,85 1,85 1,85
- Nông thôn 2,14 2,02 1,89 1,86 1,85
Nguồn: Bộ KH-ĐT, Tổng cục Thống kê - Dự báo dân số Việt Nam 2009-2049
Theo Dự báo [6], thì TFR cả nước sẽ giảm xuống dưới 2,0 trong vòng 5 năm tới và
đến cuối thập niên 30, đầu thập niên 40 của thế kỉ XXI thì ổn định ở mức 1,85, không còn
sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn. Với TFR ở dưới mức sinh thay thế và tiếp tục
giảm, đồng thời tuổi thọ của dân cư tăng lên, thì dân số nước ta mặc dù đang ở giai đoạn
có cơ cấu dân số vàng, nhưng cũng đang già hóa, và quy mô dân số sẽ dần đi vào thế ổn
định.
Mô hình sinh theo độ tuổi của bốn năm (1989, 1994, 1999 và 2009) cho thấy mức
sinh đã giảm ở tất cả các nhóm tuổi của phụ nữ, rõ nhất là ở ba nhóm tuổi: 20-24, 25-29
và 30-34 (Hình 5). Dân số nước ta đã chuyển từ mô hình sinh con sớm (cực đại ở nhóm
tuổi 20-24) sang mô hình sinh con muộn (cực đại ở nhóm tuổi 25-29), tính chung cả nước
và đặc biệt rõ ở khu vực thành thị. Ở khu vực nông thôn, hiện vẫn là mô hình sinh con
sớm.
2.2. Cơ cấu tuổi - giới tính
2.2.1. Cơ cấu tuổi
Cho đến cuối thập kỉ 80, đầu 90 của thế kỉ trước, dân số nước ta thể hiện rõ nét là
một dân số trẻ, với tỉ trọng cao của các nhóm tuổi trẻ. Tháp dân số năm 1979 và 1989 có
đáy nở rộng. Do tỉ lệ sinh giảm mạnh và tuổi thọ của dân cư tăng lên, hình dáng tháp dân
số (2009) thay đổi mạnh, có hình của một lá bồ đề, thu hẹp đáy tháp, nở rộng ở các nhóm
tuổi trung niên, thể hiện cấu trúc tuổi của một dân số đang dần ổn định. Sự thu hẹp đột
ngột của tháp dân số (năm 1989) sau độ tuổi 35 và tỉ số giới tính thấp (số nam tính trên
100 nữ) ngay từ các nhóm tuổi tráng niên cho thấy rõ tác động của các cuộc chiến tranh
diễn ra trong suốt 35 năm, từ 1945 đến 1979. Hai mươi năm sau (2009), khoảng thu hẹp
123
Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức
Hình 4. Bản đồ Tổng tỉ suất sinh năm 1999 và năm 2009
Hình 5. Tỉ suất sinh phân theo độ tuổi của người mẹ
này đã tiến dần lên phía đỉnh tháp dân số, "dư âm" của một thời chiến tranh khói lửa đang
tắt dần.
Trong các tài liệu dân số học, người ta quan tâm đến cơ cấu tuổi của dân số thuộc 3
nhóm tuổi: dưới 15 (0-14 tuổi), 15-64 và 65 trở lên (65+). Tỉ số phụ thuộc được đo bằng tỉ
số giữa dân số ngoài độ tuổi lao động (ở đây quy ước là 0-14 và 65+) so với dân số trong
124
Những động thái mới trong biến đổi dân số và cơ cấu tuổi - giới tính của dân số Việt Nam
Hình 6. Tháp dân số năm 1979, 1989, 1999 và 2009 (tính theo % dân số)
độ tuổi lao động (ở đây quy ước là 15-64). Ở nước ta năm 1979, tỉ số phụ thuộc chung
là 89,9%, trong đó tỉ số phụ thuộc của trẻ em là gần 81%, của người già là 9%. Khi nền
kinh tế có năng suất lao động xã hội còn thấp, tỉ số phụ thuộc cao là gánh nặng dân số,
mặt khác một phần khá đông trẻ em (nhất là ở vùng nông thôn) sớm phải bước vào tuổi
lao động. Điều này có ảnh hưởng xấu lâu dài đến việc phát triển nguồn nhân lực. Tỉ trọng
cao của dân số các nhóm tuổi 0-4 và 0-14 đặt ra những vấn đề cấp bách về văn hoá, y tế,
giáo dục, giải quyết việc làm cho số công dân tương lai này. Vấn đề phát triển nguồn nhân
lực càng gay gắt ở các tỉnh miền núi và trung du, ở các cộng đồng dân tộc ít người. Trong
30 năm qua, tỉ số phụ thuộc tiếp tục giảm, nhưng đồng thời, dân số nước ta cũng đang già
hóa. Năm 1989, tỉ số phụ thuộc chung là 77,7%, trong đó tỉ số phụ thuộc của trẻ em là
69,3%, của người già là 8,4%. Năm 1999, tương ứng là 64,7%, 55,2% và 9,5%; năm 2009
tương ứng là 44,7%, 35,5% và 9,3%. Năm 2009, dân số nước ta ở vào thời kì ưu thế thuộc
về lực lượng lao động, được gọi là thời kì "cơ cấu dân số vàng", mà theo định nghĩa của
Liên Hiệp Quốc, khi trẻ em dưới 15 tuổi chiếm dưới 30% và người già từ 65 tuổi trở lên
chiếm dưới 15% tổng dân số. Theo Dự báo [6], thì thời kì "cơ cấu dân số vàng" này sẽ kết
thúc vào quãng năm 2040, khi mà tỉ trọng của dân số 65+ vượt mức 15%.
Trong khi tỉ số phụ thuộc ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ ở
mức thấp nhất cả nước, ở Đồng bằng sông Hồng và hầu hết các tỉnh trung du Bắc Bộ ở
mức trung bình cả nước, thì chỉ tiêu này còn khá cao ở các tỉnh miền núi Bắc Bộ và các
tỉnh Tây Nguyên. Năm 2009 vẫn còn 10 tỉnh có tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi chiếm trên 30%
dân số, hay nói cách khác là các tỉnh này chưa bước vào thời kì có "cơ cấu dân số vàng",
đó là: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Ninh Thuận, Kon Tum, Gia Lai,
Đắk Lắk và Đắk Nông.
125
Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức
Bảng 7. Tỉ lệ dân số phụ thuộc năm 2009 của thế giới,
các nhóm nước và Việt Nam
Tỉ lệ dân Tỉ lệ dân Tỉ lệ dân số phụ thuộc (%)
số dưới số 65 tuổi
15 tuổi trở lên Trẻ em Người lớn Chung
Thế giới 27 8 41,5 12,3 53,8
Các nước phát triển 17 16 25,4 23,9 49,3
Các nước đang phát
triển 30 6 46,9 9,4 56,3
Các nước đang phát
triển (trừ Trung Quốc) 33 5 53,2 8,1 61,3
Các nước kém phát
triển nhất 40 3 70,2 5,3 75,4
Việt Nam 24,5 6,4 35,5 9,3 44,7
Nguồn: Tính toán từ 2009 World Population Datasheet [1]
Tuổi trung vị của dân số (độ tuổi phân chia dân số thành hai phần bằng nhau: một
nửa số dân ở dưới tuổi đó và một nửa số dân ở trên tuổi đó) đã tăng thêm gần 10 tuổi trong
30 năm, từ 18,3 (năm 1979) lên 20,2 (năm 1989), 23,0 (1999), 28,0 (2009). Chỉ số già hóa
(đo bằng tỉ số (%) dân số tuổi 60+ so với dân số tuổi dưới 15) đã tăng từ 16,6 (1979) lên
18,4 (1989), 24,3 (1999) và 35,5 (2009). Chỉ số già hóa của nước ta cao hơn trung bình
của các nước ASEAN, tương đương Inđônêxia và Philippin, nhưng thấp hơn Singapo và
Thái Lan. Đáng chú ý là ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng dân số có xu hướng già hóa
nhanh, chỉ số già hóa đi trước mức trung bình cả nước 10 - 15 năm. Theo Dự báo [6], thì
tốc độ già hóa dân