Nợ xấu là sự tồn tại tất yếu trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Sự tồn tại của nợ xấu chỉ thực sự nguy hiểm khi nó vọt lên ngưỡng cao, tình hình tài chính hiện tại của các chủ thể trong nền kinh tế có thể đẩy nợ xấu lên mức nguy hiểm trong tương lai. Với Việt Nam, tình hình nợ xấu chưa tới mức báo động, song rất cần xử lý quyết liệt để không gây hậu quả nghiêm trọng.
10 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1043 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những giải pháp giúp các ngân hàng thương mại xử lý 60% nợ xấu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những giải pháp giúp các ngân hàng thương mại xử lý 60% nợ xấu
Mục lục :
Chương I : Nợ xấu và Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của các nước trên thế giới
1.1. Nợ Xấu Ngân Hàng Là Gì ? Tác động của nợ xấu đến nền kinh tế
1.1.1 : Nợ Xấu Ngân Hàng Là Gì
1.1.2 : Tác động của nợ xấu đến nền kinh tế
1.1.3 Sự cần thiết phải xử lý nợ xấu
1.1.4 : Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của các nước trên thế giới
Chương II : Thực trạng tình hình nợ xấu trong năm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013
2.1. Thực trạng nợ xấu của Hệ thống ngân hàng và Doanh nghiệp nhà nước
2.1.1: . Thực trạng nợ xấu của Hệ thống ngân hàng
2.1.2 : Thực trạng nợ xấu của Doanh nghiệp nhà nước
2.1.3: Nguyên nhân khiến nợ xấu của DNNN tăng cao
2.2. Biểu đồ Tỷ lệ nợ xấu qua 7 tháng năm 2013 (đơn vị:%) - nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
2.3 . Kết quả tổng nợ xấu được xử lý trong năm 2012 và 7 tháng đầu năm 2013
Chương III : Những giải pháp giúp các ngân hàng thương mại xử lý nợ xấu
Giải pháp 1 . Giải pháp thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC).
Giải pháp 2 : Ngân hàng Thương mại chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu
Giải pháp 3: Phá băng thị trường bất động sản
Giải pháp 4: Chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần
Giải pháp 5:Tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng
Giải pháp 6: Cho phép Ngân hàng nước ngoài mua lại các ngân hàng yếu trong nước
Giải pháp 7: Khuyến khích các ngân hàng thực sự mạnh trong nước mua lại các ngân hàng yếu
Giải pháp 8: Miễn các loại thuế về hoạt động mua bán nợ về nợ xấu
Giải pháp 9 : miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho nghiệp vụ phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Giải pháp 10: Tăng chi ngân sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng
Chương I : Nợ xấu và Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của các nước trên thế giới
1.1. Nợ Xấu Ngân Hàng Là Gì ? Tác động của nợ xấu đến nền kinh tế
Nợ xấu là sự tồn tại tất yếu trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Sự tồn tại của nợ xấu chỉ thực sự nguy hiểm khi nó vọt lên ngưỡng cao, tình hình tài chính hiện tại của các chủ thể trong nền kinh tế có thể đẩy nợ xấu lên mức nguy hiểm trong tương lai. Với Việt Nam, tình hình nợ xấu chưa tới mức báo động, song rất cần xử lý quyết liệt để không gây hậu quả nghiêm trọng.
1.1.1 :Nợ Xấu Ngân Hàng Là Gì
Theo Tiến sỹ Lê Xuân Nghĩa – Vụ trưởng Vụ chiến lược phát triển ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước)
Định nghĩa nợ xấu của Việt Nam tại Quyết định 493/2005/QĐ-Ngân hàng Nhà nước ngày 22/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước như sau: “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn).”
Cụ thể nhóm 3 trở xuống gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày, đồng thời tại Điều 7 của Quyết định nói trên cũng quy định các ngân hàng thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Như vậy nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ đáng lo ngại. Đây được coi là định nghĩa của VAS.
Còn theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê – Liên hợp quốc, “về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên 2 yếu tố: (I) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của IAS đang được áp dụng phổ biến hiện hành trên thế giới.
Và khi khách hàng bị nợ xấu từ nhóm 3 trở lên sẽ rất khó được ngân hàng duyệt vay lại ít nhất là 5 năm.
1.1.2 Tác động của nợ xấu đến nền kinh tế
Nợ xấu đang trở thành gánh nặng không chỉ cho hoạt động ngân hàng, doanh nghiệp mà cho cả nền kinh tế. nền kinh tế sẽ mất đi một lượng vốn lớn, do vốn không được quay, dòng tiền trong nền kinh tế không lưu thông được, hệ thống ngân hàng tiếp tục khó khăn về thanh khoản. Điều này sẽ đe dọa đến sự phát triển bền vững của hệ thống tài chính. Khi nợ xấu quá ngưỡng cho phép (dưới 5% trên tổng dư nợ là bình thường), thì phải có biện pháp xử lý nợ xấu từ nhiều phía, trong đó có biện pháp từ phía cơ quan quản lý nhà nước.
1.1.3 Sự cần thiết phải xử lý nợ xấu
Nợ xấu được ví như "cục máu đông" làm tắc nghẽn nền kinh tế, nên xử lý nợ xấu là một trong những việc cấp thiết hiện nay của hệ thống ngân hàng.
Nếu như cách đây hơn một năm, theo công bố của NHNN, nợ xấu của toàn hệ thống lên tới 202 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ tín dụng, thì đến nay theo báo cáo kết quả kinh doanh của các ngân hàng cho thấy tỷ lệ nợ xấu đã giảm. Nhưng trên thực tế, đây vẫn là vấn đề đáng báo động.
Xu ly no xau Da den luc nhin thang vao su that
Riêng với nhóm ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán (8 ngân hàng), với tổng dư nợ chiếm hơn 70% trên toàn hệ thống cho thấy, các khoản nợ xấu vẫn đáng ngại, ở mức gần 29 nghìn tỷ đồng. Nhóm cổ phiếu ngân hàng trước đây từng có thời kỳ "làm mưa, làm gió" trên sàn chứng khoán, với tốc độ tăng phi mã, nhưng giờ đây "chìm nghỉm". Theo số liệu các ngân hàng công bố, nợ xấu của Ngân hàng TMCP Đầu tư - Phát triển (BIDV) chiếm 2,57% tổng dư nợ (trước đó là 2,77%); Ngân hàng TMCP Ngoại thương (Vietcombank) chiếm 2,81%; Ngân hàng TMCP Công thương (VietinBank) 2,1%. Mặc dù tỷ lệ nợ xấu của 3 ngân hàng này đều dưới ngưỡng nguy hiểm là 3% tổng dư nợ của từng ngân hàng song nếu làm một phép cộng thì nợ xấu của cả 3 cũng là hơn 20 nghìn tỷ đồng. Có quy mô nhỏ hơn, Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) sau khi hoàn tất thương vụ sáp nhập với Habubank đã phải gánh một khoản nợ xấu khá lớn, chiếm 9,04% tổng dư nợ. Sau SHB, Ngân hàng TMCP Nam Việt (Navibank) có khoản nợ xấu 6,1%. Những ngân hàng có báo cáo khá "sạch", với nợ xấu dưới 3% là Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB): 2,99%; Ngân hàng TMCP Sài gòn Thương tín (Sacombank) 2,55%; Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu (Eximbank) 1,49%; Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) 2,44%. Kết quả từ một số ngân hàng không niêm yết có vẻ khả quan khi nợ xấu có xu hướng giảm. Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh vượng (VPBank) giảm từ 2,72% xuống 2,62%; Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TienPhong Bank) từ 3,47% xuống 2,77%...
Như vậy, theo báo cáo của các ngân hàng, nợ xấu có vẻ đã giảm, song vẫn ở mức cao. Đáng báo động là các khoản nợ có khả năng mất vốn (nằm trong nhóm 5) lại tăng, chiếm tới khoảng 48% tổng dư nợ, tức là chỉ tính riêng với nhóm các ngân hàng niêm yết đã lên tới hơn 14 nghìn tỷ đồng. Để giải quyết nợ xấu, các ngân hàng sẽ phải tính đến bài toán trích lập dự phòng rủi ro, tức là sẽ phải chấp nhận điều chỉnh giảm lợi nhuận.
Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành kế hoạch hành động nhằm triển khai thực hiện Đề án "Xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD)" và Đề án "Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam". Theo đó, các đơn vị thuộc NHNN và TCTD có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, giải pháp xử lý nợ xấu, báo cáo cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng về tiến độ, kết quả đạt được, khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp xử lý; đặc biệt tập trung xử lý nợ xấu của các TCTD có tỷ lệ nợ xấu trên 3% tổng dư nợ và nợ xấu có tài sản bảo đảm, trong đó ưu tiên xử lý nợ có tài sản bảo đảm là bất động sản. Công ty quản lý tài sản của các TCTD (VAMC) kiểm tra từng món nợ, với những món có nguy cơ cao, sau đó sẽ làm việc với tổ chức cần bán nợ. VAMC sẽ mua nợ theo phương thức mua nợ xấu của TCTD theo giá trị ghi sổ số dư nợ gốc, sau khi khấu trừ số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập chưa sử dụng của khoản nợ bằng trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành. Hoặc, VAMC mua nợ xấu theo giá thị trường bằng nguồn vốn không phải trái phiếu đặc biệt.
Đại diện NHNN lại cho rằng, nợ xấu của các ngân hàng và TCTD không đáng ngại nếu so với tỷ lệ nợ xấu của nhiều nước trong khu vực, cụ thể: Nợ xấu của Hàn Quốc là 17%, Thái Lan là 47,7%, Malaysia: 11,4%, Indonesia hơn 50%... Giải quyết triệt để nợ xấu không chờ vào mệnh lệnh của cơ quan chức năng, hay một đơn vị như VAMC mà còn cần sự nỗ lực của chính các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng cần thẳng thắn nhìn nhận những khoản nợ để con số nợ xấu là thật, chứ không chỉ để làm đẹp báo cáo. Chỉ điều đó mới giúp cơ quan chức năng đưa ra những cơ chế điều chỉnh phù hợp.
1.1.4 : Kinh nghiệm xử lý nợ xấu cỏa các nước trên thế giới
Từ kinh nghiệm thực tế của thế giới cho thấy, để giải quyết vấn đề nợ xấu trong nền kinh tế phải mất một thời gian khá dài từ 5 đến 10 năm, do vậy đối với Việt Nam, chúng ta cần phải có một lộ trình mang tính chiến lược cụ thể thì mới có thể giải quyết tận gốc rễ của vấn đề. Cần xử dụng đa dạng các biện pháp can thiệp, cả vai trò hỗ trợ của Nhà nước và sự chủ động của các ngân hàng thương mại, trong sự phối hợp với các Doanh nghiệp
Theo kinh nghiệm nhiều nước, cần lập Ủy ban Nhà nước xử lý nợ, có sự tham gia của NHNN, Bộ Tài chính và các cơ quan giám sát khác nhau, tạo điều kiện cho Nhà nước chủ động can thiệp để hỗ trợ thị trường. Cần quan trọng nhất là công khai minh bạch quá trình xử lý này, với sự chỉ đạo thống nhất, tránh bị lợi dụng, từng bước đạt chuẩn nợ xấu theo thông lệ quốc tế. Hình thành công ty mua bán nợ xấu quốc gia, có chức năng, nhiệm vụ xử lý nợ xấu thông qua hoạt động mua bán hoặc chứng khoán hoá tài sản xấu của các DN. Các công ty này sẽ xác định tổng tài sản xấu cần xử lý, xác định giá trị thị trường tài sản xấu, xây dựng phương án thực thi, tìm kiếm đối tác và tiến hành thanh lý; có thể chuyển quyền chủ nợ đối với DN (nằm trong danh mục nợ xấu) thành quyền cổ đông của DN, sau đó chuyển nhượng cổ phần để thu về tiền mặt; các khoản nợ tại khu vực DNNN có thể chuyển hoàn toàn sang cho công ty mua bán nợ này. Khi đó, bằng các giải pháp tập trung, công ty mua bán nợ quốc gia có thể dễ dàng trao đổi với bên chịu trách nhiệm tái cấu trúc các DNNN để xử lý các khoản nợ này theo hướng bán các gói nợ cho các tổ chức tín dụng hoặc chuyển đổi các gói nợ thành cổ phần.
Các ngân hàng sử dụng các công cụ dự phòng của mình, cũng như việc tái cơ cấu DN và ngân hàng để có tình trạng nợ xấu được lành mạnh hơn, vấn đề này có thể xử lý để giảm nhẹ một phần tình trạng nợ xấu; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng thương mại nhỏ, yếu kém hợp nhất, sáp nhập với các ngân hàng lớn, sử dụng tiềm lực tài chính của các ngân hàng lớn để xử lý nợ xấu.
Cần nắm chắc tình trạng nợ xấu với số liệu chính xác để xử lý đúng thực tế bằng các giải pháp kịp thời, sát thực (số liệu của hệ thống ngân hàng còn có sự khác biệt lớn giữa báo cáo của các DN, đánh giá của NHNN và đánh giá của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia và các chuyên gia, các tổ chức quốc tế).
Tranh thủ sự ủng hộ của các định chế tài chính và tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu. Tham vấn kinh nghiệm của các định chế tài chính lớn (IMF, WB...) trong quá trình cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng, đồng thời tranh thủ nguồn vốn của các tổ chức này nhưng không chấp nhận điều kiện ràng buộc để tránh sự tác động, can thiệp vào các quyết sách điều hành kinh tế; yêu cầu các ngân hàng thương mại công bố cụ thể nợ xấu và khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân góp vốn hoặc tham gia đấu thầu, thanh lý tài sản đảm bảo của các ngân hàng yếu kém để thu hồi tiền mặt; cho phép ngân hàng thương mại bán trực tiếp các khoản nợ xấu cho nhà đầu tư nước ngoài: nới rộng giới hạn sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong khoảng thời gian nhất định (từ 10 đến 20 năm), nhưng yêu cầu phải giảm dần tỷ lệ sở hữu trong các năm tiếp theo thông qua việc bán lại cổ phần cho cổ đông trong nước.
Chương II : Thực trạng tình hình nợ xấu trong năm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013
2.1. Thực trạng nợ xấu của Hệ thống ngân hàng và Doanh nghiệp nhà nước
2.1.1: . Thực trạng nợ xấu của Hệ thống ngân hàng
Theo tính toán của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại đang ở mức 8,6%, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản và chứng khoán; trong đó nợ xấu tại khu vực DNNN rất lớn. Số liệu của một số nhà khoa học cho thấy khu vực DNNN hiện đóng góp vào 70% nợ xấu của toàn hệ thống, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu. Theo Đề án tái cấu trúc khu vực DNNN của Bộ Tài chính năm 2012 thì dư nợ của 80/96 tập đoàn, tổng công ty nhà nước đến cuối 2010 là 872.860 tỷ đồng, bằng 1,6 lần vốn chủ sở hữu. Tính đến tháng 9/2011, dư nợ vay ngân hàng của DNNN lớn đạt trên 415.000 tỷ đồng, tương đương gần 17% tổng dự nợ tín dụng tại các ngân hàng. Trong đó, nợ vay của 12 tập đoàn kinh tế nhà nước lên tới gần 218.740 tỷ đồng, dư nợ lớn nhất thuộc về những DN lớn như Tập đoàn Dầu khí (PVN - 72.300 tỷ đồng), điện lực (EVN - 62.800 tỷ đồng), than & khoáng sản (Vinacomin - 19.600 tỷ đồng). Với những con số như trên thì nợ xấu của khu vực tập đoàn, tổng công ty trong hệ thống ngân hàng sẽ chiếm tới 30-35% tổng dư nợ của khối này.
2.1.2 Thực trạng nợ xấu của Doanh nghiệp nhà nước
Trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn như hiện này thì vấn đề giải quyết nợ xấu của các DN ở nước ta là bài toán nan giải nhất trong ngắn hạn. Nợ xấu của DN được các nhà khoa học bàn thảo nhiều và được xem là nguyên nhân cơ bản gây tắc nghẽn sự lưu thông lành mạnh của nền kinh tế, gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng và cũng phản ánh khó khăn của sản xuất kinh doanh của DN nhìn từ góc độ chỉ số hàng tồn kho tăng cao. Nợ xấu tăng cao đã và đang tác động tiêu cực đến nền kinh tế, cản trở quá trình tái cơ cấu, nhất là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tái cơ cấu DNNN và làm giảm niềm tin của người dân vào vai trò quản lý, điều hành của Chính phủ. Theo đánh giá, dự báo của các tổ chức quốc tế, các chuyên gia kinh tế (JPMorgan Chase, HSBC, Fitch Ratings...), nợ xấu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cao nếu Chính phủ không có kế hoạch cụ thể nhằm giải quyết kịp thời, triệt để vấn đề này.
Một đặc điểm nổi bật là nợ xấu của các DN Việt Nam gắn khá chặt chẽ với khu vực bất động sản (BĐS). Dư nợ cho khu vực này vay chiếm dưới 16% nhưng các tài sản thế chấp bằng BĐS cho các khoản vay khác nhau chiếm tới 60-80% tổng giá trị tài sản thế chấp. Khi thị trường BĐS suy giảm, những khoản nợ xấu, nợ quá hạn được thế chấp bởi BĐS sẽ rất khó thanh lý. Việc thanh lý mạnh các tài sản thế chấp sẽ tiếp tục khiến giá BĐS giảm thêm và càng làm trầm trọng thêm tình hình nợ xấu của nền kinh tế. Chính đặc điểm này khiến cho công tác xử lý nợ xấu của các DN sẽ gặp nhiều trở ngại hơn trong bối cảnh hiện nay.
2.1.3 Nguyên nhân khiến nợ xấu của DNNN tăng cao
Thứ nhất, tổ chức, nhân sự và biện pháp quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại còn nhiều hạn chế, chỉ có khoảng 40% ngân hàng thương mại tiếp cận được chuẩn quốc tế (Basel 3);
Thứ hai, chạy đua tăng trưởng tín dụng diễn ra trong thời gian dài, luôn trên 20%, thậm chí lên tới 51,39% (năm 2007), cùng với việc nới lỏng điều kiện cho vay khiến nợ xấu tăng cao;
Thứ ba, tác động của kinh tế thế giới phục hồi chậm và kinh tế trong nước tăng trưởng chậm lại làm cho DN gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, hàng tồn kho tăng cao, không còn khả năng trả nợ ngân hàng. Đối với khu vực DNNN có nợ xấu nhiều là do khu vực này được hưởng những ưu đãi về tín dụng nên các DNNN có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn các DNkhu vực khác. Tuy tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của DNNN có xu hướng giảm trong những năm gần đây nhưng vẫn ở mức 2,52 lần vào năm 2009, cao hơn nhiều so với mức 1,78 lần của khu vực tư nhân và 1,39 lần của khu vực vốn FDI. Các DNNN trung ương thậm chí có tỷ lệ này cao hơn, lên tới 3,53 lần.
Thứ tư, sở hữu chéo, đầu tư ngoài ngành của các ngân hàng và DNNN diễn ra phổ biến đã dẫn tới các khoản cho vay, đầu tư lòng vòng, bất chấp quy định, gây hậu quả nghiêm trọng;
Thứ năm, một số cán bộ ngân hàng suy thoái đạo đức nghề nghiệp, cấu kết, móc ngoặc với DN để trục lợi cá nhân và cho vay không đúng quy định;
Thứ sáu, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát còn hạn chế, nhất là không kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm quy định về hạn chế cấp tín dụng và đầu tư một số lĩnh vực rủi ro cao.
2.2. Biểu đồ Tỷ lệ nợ xấu qua 7 tháng năm 2013 (đơn vị:%) - nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
Theo tài liệu cập nhật từ Ngân hàng Nhà nước, sau hai tháng liên tiếp giảm, nợ xấu trong toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã tăng trở lại trong tháng 7/2013.
Cụ thể, sau khi giảm từ 4,67% xuống 4,46% qua tháng 5 và 6, tỷ lệ nợ xấu tính đến cuối tháng 7/2013 đã tăng nhẹ trở lại và ở mức 4,58%. Tỷ lệ này tương ứng với quy mô 138,98 nghìn tỷ đồng.
Tỷ lệ và con số nợ xấu trên là tổng hợp từ báo cáo của các tổ chức tín dụng. Còn dữ liệu của kênh giám sát từ xa, thường cao hơn rất nhiều, từ cuối năm 2012 đến nay Ngân hàng Nhà nước không công bố cụ thể
. Như vậy, nợ xấu vẫn chưa thể giảm bền vững sau khi cho tín hiệu trong tháng 5 và 6. So với đầu năm, nợ xấu đã tăng đáng kể, từ 4,3% lên 4,58%.
Ngân hàng Nhà nước cũng cho rằng, “kinh tế vĩ mô năm 2013 đã có những dấu hiệu tích cực nhưng vẫn còn nhiều khó khăn nên nợ xấu trong những tháng đầu năm 2013 vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng mạnh”.
Để xử lý nợ xấu một cách căn bản và đầy đủ, Ngân hàng Nhà nước cho biết đã tích cực, chủ động phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng, trình Bộ Chính trị thông qua và Chính phủ phê duyệt đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng. Trong đó, nguyên tắc xử lý nợ xấu là huy động mọi nguồn lực trong xã hội và hạn chế sử dụng vốn ngân sách để xử lý.
5 nhóm giải pháp đồng bộ xử lý nợ xấu và phòng ngừa, hạn chế nợ xấu gia tăng trong tương lai cần triển khai từ nay đến năm 2015 được xác định, gồm: nhóm giải pháp đối với tổ chức tín dụng, nhóm giải pháp đối với khách hàng của tổ chức tín dụng, nhóm giải pháp về cơ chế chính sách, nhóm giải pháp về thanh tra, giám sát và giải pháp thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC).
Ngân hàng Nhà nước cho biết, các tổ chức tín dụng cũng đã thực hiện tiết giảm chi phí hoạt động (trong đó nhiều tổ chức đã giảm từ 20 - 50% chi phí tiền lương), hạn chế chia cổ tức, lợi nhuận, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, kiểm soát rủi ro tín dụng, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, giám sát chất lượng tín dụng và việc chấp hành các quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng.
Các tổ chức tín dụng gia tăng trích lập dự phòng rủi ro để tạo nguồn xử lý nợ xấu và đã chủ động xử lý một khối lượng lớn nợ xấu bằng nguồn dự phòng; tiếp tục thực hiện biện pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng có khả năng phục hồi sản xuất kinh doanh, góp phần hỗ trợ giảm bớt khó khăn tài chính cho doanh nghiệp do không phải trả lãi phạt và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp tục có thể vay vốn ngân hàng, đồng thời góp phần kiềm chế nợ xấu gia tăng.
2.4 . Kết quả tổng nợ xấu được xử lý trong năm 2012 và 7 tháng đầu năm 2013 là 86,3 nghìn tỷ đồng
Tính chung, tổng nợ xấu được xử lý bằng dự phòng rủi ro và đưa ra theo dõi ngoại bảng trong năm 2012 và 7 tháng đầu năm 2013 là 86,3 nghìn tỷ đồng (năm 2012 là 69,2 nghìn tỷ đồng và 7 tháng đầu năm 2013 là 17,1 nghìn tỷ đồng). Tổng số dư dự phòng còn lại đến cuối tháng 7/2013 là 75,05 nghìn tỷ đồng, tăng 10,85 nghìn tỷ so cuối năm 2012.
Chương III : Những giải pháp giúp các ngân hàng thương mại xử lý nợ xấu 60%
Những Giải pháp này có thể giúp xử lý ít nhất 60% nợ xấu ngân hàng Thương mại, không tốn nhiều tiền của nhà nước, làm lành mạnh hệ thống ngân hàng thương mại và giúp kinh tế nhanh phục hồi.
Giải pháp 1 . Giải pháp thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC).
Theo Ngân hàng Nhà nước. Ngày 26/7/2013 VAMC đã chính thức đi vào hoạt động với nguyên tắc lấy thu bù chi, không vì mục tiêu lợi nhuận, công khai, minh bạch và hạn chế rủi ro, chi phí trong xử lý nợ xấu. Hành lang pháp lý liên quan đến xử lý nợ xấu qua VAMC đã cơ bản hoàn thành và dự kiến, trong năm 2013, công ty này sẽ xử lý được từ 40 - 70 nghìn tỷ đồng nợ xấu.
Giải pháp 2 : Ngân hàng Thương mại chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu
Các ngân hàng