Tóm tắt. Từ những cách tiếp cận khác nhau, các hướng nghiên cứu ngữ dụng học,
ngôn ngữ học xã hội, phân tích hội thoại và phân tích diễn ngôn phê phán đã xây
dựng những khung lí thuyết và mô hình phân tích nhân tố quyền lực trong giao tiếp
ngôn ngữ. Ngữ dụng học nhấn mạnh vai trò của quyền lực đối với việc thực hiện
hành động ngôn ngữ và giữ gìn lịch sự trong giao tiếp ; ngôn ngữ học xã hội xem
xét quyền lực trong quan hệ với các nhân tố xã hội; phân tích hội thoại đo lường
mức độ quyền lực qua phần đóng góp ngôn ngữ của nhân vật giao tiếp; phân tích
diễn ngôn phê phán chỉ ra tính chất tương tác năng động và gắn kết chặt chẽ của ba
bình diện “hệ tư tưởng - quyền lực - ngôn ngữ”.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 194 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những hướng nghiên cứu quyền lực trong giao tiếp ngôn ngữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
2013, Vol. 58, No. 6B, pp. 33-42
This paper is available online at
NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU QUYỀN LỰC
TRONG GIAO TIẾP NGÔN NGỮ
Lương Thị Hiền
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Từ những cách tiếp cận khác nhau, các hướng nghiên cứu ngữ dụng học,
ngôn ngữ học xã hội, phân tích hội thoại và phân tích diễn ngôn phê phán đã xây
dựng những khung lí thuyết và mô hình phân tích nhân tố quyền lực trong giao tiếp
ngôn ngữ. Ngữ dụng học nhấn mạnh vai trò của quyền lực đối với việc thực hiện
hành động ngôn ngữ và giữ gìn lịch sự trong giao tiếp ; ngôn ngữ học xã hội xem
xét quyền lực trong quan hệ với các nhân tố xã hội; phân tích hội thoại đo lường
mức độ quyền lực qua phần đóng góp ngôn ngữ của nhân vật giao tiếp; phân tích
diễn ngôn phê phán chỉ ra tính chất tương tác năng động và gắn kết chặt chẽ của ba
bình diện “hệ tư tưởng - quyền lực - ngôn ngữ”.
Từ khóa: Quyền lực, giao tiếp ngôn ngữ.
1. Mở đầu
Với tư cách là một phạm trù của khoa học xã hội, quyền lực đã được khám phá trong
lịch sử tri thức nhân loại từ những triết gia thời cổ đại, các nhà thần học thời trung cổ, các
nhà phục hưng, các nhà chính trị học hiện đại, các nhà xã hội học Đức với những tên tuổi
lớn như Aristote, K.Dantra, Lesliel Lipson, Hradil, Weber, Scheneider, Ridder, Popitz...
Tùy vào điểm nhìn và cách tiếp cận của các học giả, thuật ngữ “quyền lực” được định
nghĩa theo những cách khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt [6] thì “quyền” là: (1) Điều mà pháp luật hoặc xã hội công
nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi, và (2) Những điều do địa vị hay chức vụ mà
được làm. Từ khái niệm “quyền” theo đó ta có các khái niệm cụ thể hơn như: quyền bính,
quyền biến, quyền hạn, quyền hành, quyền lợi, quyền lực, quyền môn, quyền quý, quyền
thế, quyền uy...; trong dân gian còn có thành ngữ có chứa yếu tố “quyền” như quyền cao
Ngày nhận bài: 24/6/2013. Ngày nhận đăng: 30/9/2013
Liên hệ: Lương Thị Hiền, e-mail: luonghien82@gmail.com
33
Lương Thị Hiền
chức trọng, quyền sinh quyền sát, quyền rơm vạ đá... Còn khái niệm “quyền lực” thì được
hiểu là “quyền định đoạt mọi công việc quan trong về mặt chính trị và sức mạnh để đảm
bảo việc thực hiện quyền ấy”. Có thể thấy với các tác giả của Từ điển Tiếng Việt thì khái
niệm “quyền” rộng hơn, phủ lên nhiều bình diện xã hội khác nhau; trong khi khái niệm
“quyền lực” hẹp hơn chỉ xuất phát từ điểm nhìn chính trị.
Khái niệm “quyền”, “quyền lực” cũng được các học giả trên thế giới quan tâm từ
thuở sơ khai. Theo T. Murphy, “Từ điển Edinburgh về triết học lục địa” (The Edinburgh
Dictionary of Continental Philosophy) phân biệt hai phạm trù quyền lực như sau: trong
tiếng Pháp, tiếng Latin và một số ngôn ngữ Roman khác, có hai khái niệm phân biệt: (1)
uy quyền/ thế lực (tiếng Pháp: puissance, tiếng Latin: potentia) thể hiện khả năng gây
ảnh hưởng của một cá nhân (tập thể) đối với cá nhân khác (nhóm khác) và (2) quyền
hạn/quyền hành (tiếng Pháp: pouvoir, tiếng Latin: Potesta) chỉ quyền lực chính trị trong
các hoạt động hành pháp, tư pháp, lập pháp. Nếu khái niệm (1) chỉ ra dạng quyền lực có
tính xã hội, năng động, dễ thay đổi theo hoàn cảnh thì khái niệm (2) lại chỉ ra dạng quyền
lực có tính thể chế, ổn định, tồn tại trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Trong tiếng
Anh, hai khái niệm này nhập trong một khái niệm “quyền lực” (power), không lưỡng phân
thành hai bình diện như đã nói ở trên [dt 11;105].
Nhà xã hội - chính trị Đức, Max Webber (1864 -1920) định nghĩa quyền lực (trong
tiếng Đức là Macht) “là cơ hội để ý chí của ai đó chiếm ưu thế trong quan hệ xã hội và
cũng là để chống lại sự phản kháng nó” [dt 9;35], quyền lực có thể biểu hiện bằng sử
dụng hình thức cưỡng bức (force) hay quyền uy (authority). Xã hội và các tổ chức xã hội
quy tụ với nhau dựa trên cơ sở thực hiện quyền lực, chứ không phải thông qua quan hệ
khế ước hay thỏa thuận về đạo lí. Không có quyền lực thì bất kì một tổ chức xã hội nào
cũng không hoạt động bình thường được và đo đó không đạt được mục tiêu xã hội đã đề
ra. Cách hiểu này của Max Weber thiên về định hướng chính trị, gần gũi với khái niệm
pouvoir trong tiếng Pháp nêu trên.
Có thể thấy việc trả lời câu hỏi: Quyền lực là gì không phải là điều dễ dàng. Trong
khái niệm "quyền" có cả hai mặt pháp luật và tập quán, xã hội và cá nhân. Cách hiểu về
quyền đôi khi mơ hồ, không tường minh là vì vậy.
2. Nội dung nghiên cứu
Hiện hữu trong mọi cấu trúc xã hội, hiện tượng quyền/ quyền lực thu hút sự quan
tâm của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau - trong đó có ngôn ngữ học. Lí luận
về quyền/ quyền lực trong giao tiếp ngôn ngữ theo đó cũng có những đường hướng khác
nhau.
34
Những hướng nghiên cứu quyền lực trong giao tiếp ngôn ngữ
2.1. Nghiên cứumối quan hệ quyền lực và ngôn ngữ theo hướng xã hội học
Nhận thức về hiện tượng quyền lực xuất hiện ngay từ thưở sơ khai của xã hội loài
người, song đưa lí luận quyền lực vào trong ngôn ngữ thì phải nhắc đến công lao của triết
gia Pháp- Michael Focault (1926-1984).
Luận điểm của Foucault về quyền lực và ngôn ngữ có ba điểm cơ bản sau: 1) Quyền
lực không đơn giản chỉ là quyền lực nhà nước, được xác định bằng các quan hệ kinh tế,
mà “được phân tán rải rác trong các mối quan hệ xã hội” có mặt ở khắp mọi nơi như
trong các cuộc thăm bệnh của bác sĩ đối với bệnh nhân, cuộc nói chuyện của ông chủ đối
với thư kí, trong bài giảng của thầy giáo đối với học sinh... Quyền lực là mối quan hệ giữa
các lực lượng trong hoạt động xã hội, chứ không phải là sự sở hữu hay chiếm hữu của bất
cứ cá nhân nào hay nhóm xã hội nào. 2) Quyền lực không phải chỉ là sự trấn áp từ bên trên
mà còn là sự phản kháng từ bên dưới, điều này được Foucault phát biểu qua mệnh đề nổi
tiếng: “Ở đâu có quyền lực, ở đó có đấu tranh” [dt 11;15]. 3) Quyền lực không chỉ hiện
hữu bằng pháp luật mà xuyên thấm vào điều khiển cách tư duy và hành xử, cách nói năng
giao tiếp của con người. Đối với Foucault, quyền lực không đơn giản chỉ là sự cưỡng bức,
ngăn trở tự do và ý nguyện của người khác, mà còn là “điều kiện tạo thành tất cả mọi lời
nói” và “Diễn ngôn có thể vừa là một công cụ, vừa là hệ quả của quyền lực.” [dt. 12;15]
Trong bất kì xã hội nào, khi ngôn ngữ ra đời, ngay lập tức nó bị khống chế, sàng lọc, tổ
chức và chi phối lại của mạng lưới quyền lực. Ông cụ thể hóa sự hiện hữu của quyền lực
bằng hình ảnh nhà tù hình tròn, nơi đó, tất cả các phạm nhân đều cảm thấy bị giám sát
bởi một con mắt vô hình. Ở bất cứ nơi đâu, lúc nào, người ta cũng có thể nhận thấy bàn
tay vô hình của quyền lực, áp đặt và kiểm soát chủ thể trong từng thời khắc. Như vậy, có
thể thấy khái niệm quyền lực của Foucault vừa mang tính xã hội, vừa mang tính chính trị.
Cách tiếp cận mối quan hệ ngôn ngữ và quyền lực là cách tiếp cận của xã hội học.
Mối quan hệ quyền lực và ngôn ngữ được Foucault đặt ra tiếp tục được Pierre
Bourdieu (1930-2002) phát triển, mở rộng thêm. Theo [1], Bourdieu đã dựa theo hình
thức chiếm hữu, sử dụng và ra đời của vốn hay tư bản (capital) trong các xã hội khác nhau
để miêu tả quyền lực. Thuật ngữ tư bản, khác với định nghĩa truyền thống trước hết chỉ tư
bản kinh tế, theo quan niệm của Pierre Bourdieu, chỉ mọi nguồn lực xã hội mà cá nhân
tích lũy được và được cá nhân ấy sử dụng trong cạnh tranh xã hội để giành được lợi thế.
Vị thế của mỗi cá nhân trong không gian xã hội không tồn tại tự nó, mà tồn tại trong sự
so sánh với số lượng tư bản do các cá nhân khác sở hữu. Ông phân biệt bốn loại tư bản
chính: tư bản kinh tế (gia sản, các nguồn lợi); tư bản xã hội (mạng lưới quan hệ xã hội) và
tư bản văn hóa với ba dạng: hội nhập vào bản thân mỗi con người (kiến thức, kĩ năng v.v.),
khách quan hóa (sở hữu các vật thể văn hóa) và thể chế hóa (bằng cấp, danh vị v.v); cuối
cùng là tư bản tượng trưng chỉ mọi dạng tư bản (văn hóa, xã hội, kinh tế) được sự thừa
nhận đặc biệt của xã hội. Dạng tư bản tượng trưng này có vai trò quan trọng đối với bất
kì một hoạt động nào. Bourdieu cho rằng tư bản sẽ chuyển hóa thành quyền lực. Chẳng
35
Lương Thị Hiền
hạn: Trong quan hệ giao tiếp, tư bản ngôn ngữ có thể chuyển hóa thành quyền lực, ảnh
hưởng đến vị thế của mỗi người tham gia giao tiếp. Ví dụ xem xét ở phạm vi pháp đình, sự
chênh lệch về nguồn lực ngôn ngữ (lượng từ vựng chuyên ngành luật, khả năng sử dụng
cấu trúc cú pháp phức tạp, hiểu biết về nghi thức giao tiếp ngôn ngữ tòa án...) sẽ đưa đến
sự chênh lệch về quyền lực giữa một bên là những người tiến hành tố tụng (thẩm phán,
công tố viên, luật sư); một bên là những người tham gia tố tụng (bị cáo, những người làm
chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan). Khái niệm quyền lực tượng trưng của
Bourdieu đã cung cấp một khung phân tích cho mối quan hệ quyền lực và ngôn ngữ khá
cụ thể, gắn với những ngữ cảnh cụ thể trong giao tiếp.
Đưa vấn đề quyền lực vào trong ngôn ngữ, các học giả xã hội học như Foucault,
Bourdieu xây dựng nền móng cho một phạm vi nghiên cứu thu hút nhiều nhà ngôn ngữ
học thuộc những đường hướng khác nhau, bao gồm: hướng ngữ dụng học, hướng ngôn
ngữ học xã hội, hướng phân tích hội thoại và hướng phân tích diễn ngôn phê phán. Mỗi
hướng tiếp cận đều cố gắng đưa ra hệ thống khái niệm và mô hình nghiên cứu thích hợp
để phân tích, nhận diện hiện tượng này.
2.2. Nghiên cứu mối quan hệ quyền lực và ngôn ngữ theo hướng ngữ dụng
học
Theo hướng ngữ dụng học, hiện tượng quyền lực trong ngôn ngữ được nhìn nhận
như là một yếu tố gắn liền với vai giao tiếp và phép lịch sự.
Lí thuyết về hành động ngôn từ do các nhà triết học J. Austin (1962) và J. R.Searle
(1968, 1979) đề xướng đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu ngữ dụng và khoa học giao
tiếp. Austin cho rằng “Nói là hành động” và dựa vào động từ ngôn hành, tác giả phân loại
5 phạm trù hành động ở lời: phán xét, bày tỏ, hành xử, ứng xử, cam kết [dt.2]. Khi nêu
ra điều kiện sử dụng của mỗi loại hành động ngôn từ, Austin đã phát hiện ra nghĩa tương
tác xã hội hay nghĩa liên nhân của phát ngôn, bước đầu có đề cập đến quyền lực của các
nhân vật giao tiếp. Trên cơ sở quan niệm hành động ngôn từ của Austin, Searle đã điều
chỉnh, hoàn thiện thành “Lí thuyết hành động ngôn từ” với luận điểm: đơn vị cơ bản của
giao tiếp ngôn ngữ là hành động ngôn từ; giao tiếp ngôn ngữ là một bộ phận của khoa
học hành động xã hội [dt. 5]. Searle cho rằng hàng loạt những quy tắc mà hành động của
nhân loại phải tuân thủ cũng đồng thời là quy tắc mà hành động ngôn từ phải tuân theo.
So sánh với Austin, Searle đã làm sáng rõ hơn vai trò của những nhân tố xã hội bên ngoài
hệ thống ngôn ngữ.
Bên cạnh việc xác định quyền lực với tư cách là điều kiện để tạo lập hành động
ngôn từ, các nhà ngữ dụng học còn gắn quyền lực với hiện tượng lịch sự có tính phổ biến
đối với các văn hóa và ngôn ngữ. Có 2 quan điểm về lịch sự, trong đó vai trò của quyền lực
thể hiện khác nhau. Từ quan điểm lịch sự chuẩn mực, Hu (1944), Hill (1986), Idle (1986),
Gu (1990) [dt. 3]... nhấn mạnh hình ảnh xã hội, tức uy tín và danh dự của một cá nhân
36
Những hướng nghiên cứu quyền lực trong giao tiếp ngôn ngữ
trong cộng đồng. Quyền lực được xác định thông qua sự tôn trọng trật tự thứ bậc trong
quan hệ xã hội và sự thừa nhận vị thế xã hội của người đối thoại. Từ quan điểm lịch sự
chiến lược, Brown và Levison (1978) xây dựng khái niệm thể diện (face) gồm có hai mặt
vừa thống nhất, vừa đối lập nhau: mặt dương tính - nhấn mạnh ý muốn hòa đồng của các
cá nhân; mặt âm tính - nhấn mạnh ý muốn độc lập của cá nhân. Mọi hành vi giao tiếp đều
tiềm tàng khả năng đe dọa thể diện. Đe dọa càng lớn thì nỗ lực bù đắp càng cao, và phát
ngôn sẽ có giá trị lịch sự lớn. Các tác giả xác định ba nhân tố cơ bản để xác định mức độ
đe dọa thể diện (Wx) của người nói (S) đối với người nghe (H) là quyền lực (P ) (power),
khoảng cách xã hội (D) (distance) và mức độ áp đặt đến thể diện tiêu cực hay tích cực (R)
(ranking), được tính toán theo công thức như sau:Wx = D(S;H) + P (H;S) +Rx. Trên
cơ sở xác định mức độ đe dọa thể diệnWx mà người nói lựa chọn chiến lược thích hợp.
Kế thừa những luận điểm mà Austin, Searle đã đề xuất, ở Việt Nam, khái niệm vị
thế xã hội cũng có thể dễ dàng tìm thấy trong bất cứ cuốn giáo trình nghiên cứu ngữ dụng
học kinh điển nào. Các nhà ngữ dụng học trên dường như khá thống nhất ở luận điểm:
Thừa nhận bình diện quyền lực như là một mặt quan trọng tạo nên quan hệ liên cá nhân
trong tương tác hội thoại “mặt đối mặt” (face to face). Nhìn chung, đối với các nhà ngữ
dụng học, hiện tượng quyền lực trong ngôn ngữ chưa thực sự được giải quyết triệt để, các
tác giả mới phân tích mối quan hệ này thuần túy ở phương diện tính logic của ngôn ngữ
chứ chưa đi sâu vào điều kiện sử dụng của hành động ngôn từ ở phương diện xã hội, ở
thuộc tính quan hệ trong các tổ chức, thiết chế. Đóng góp to lớn của ngữ dụng học chủ
yếu là đã đề cập trực diện đến vai trò của quyền lực đối với việc đảm bảo điều kiện thuận
lợi cho thực hiện hành động ngôn từ; đảm bảo lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ, từ đó xây
dựng những chiến lược giao tiếp phù hợp với những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
2.3. Nghiên cứu mối quan hệ quyền lực và ngôn ngữ theo hướng ngôn ngữ
học xã hội
Theo hướng nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội, mặc dù thống nhất ở sự thừa nhận về
sự tồn tại của quyền lực (hoặc quyền) trong ứng xử ngôn ngữ, song các nhà khoa học tuỳ
theo mô hình lí thuyết, cứ liệu ngôn ngữ mà tiếp cận, khai thác quyền lực theo những cách
khác nhau.
Theo Brown và Gilman (1960), quyền “là mối quan hệ giữa ít nhất hai cá thể...
người này có quyền với người kia khi anh ta có khả năng kiểm soát được hành vi của
người kia” [dt. 5]. Khảo sát hình thức đại từ nhân xưng trong tiếng Pháp, Đức, Italia, Tây
Ban Nha, Brown và Gilman đi đến kết luận rằng phương tiện ngôn ngữ này đánh dấu sự
duy trì và nhấn mạnh quan hệ quyền lực giữa những người tham gia giao tiếp. Chẳng hạn,
trong tiếng Pháp, việc sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ hai sẽ cho biết tương quan quyền
lực giữa hai bên: người có quyền lực sử dụng T để gọi người không có quyền lực, còn
người không có quyền lực phải sử dụng V khi gọi người có quyền lực. Ở những người có
37
Lương Thị Hiền
quyền lực ngang nhau, việc xưng hô lúc đầu không có sự khu biệt (mà chỉ căn cứ vào địa
vị cao thấp trong xã hội để sử dụng T hoặc V); về sau thì nếu hai người có quyền lực mà
có “điểm chung” thì xưng gọi nhau là T, không có “điểm chung” thì xưng là V. Ý nghĩa
của đại từ xưng hô ngôi thứ hai tiếp tục được phân hóa về mặt tính chất “kết liên”: đại từ
V thường sử dụng “đơn hướng” xác định địa vị xã hội của người nói và người nghe trong
giao tiếp quy thức; đại từ T thể hiện quan hệ gần gũi trong giao tiếp phi quy thức. Và cách
sử dụng T và V tiếp tục thay đổi giữa những người có quan hệ quyền lực bất bình đẳng:
chỉ cần có điểm chung thì gọi nhau là T, không có điểm chung thì gọi nhau là V. Như vậy,
sử dụng T hay V có quan hệ mật thiết đến cấu trúc xã hội và ý thức cộng đồng; cũng như
tâm tư thái độ nhất thời của những người tham gia giao tiếp [dt. 4].
Nhà ngôn ngữ học xã hội Lakoff cho rằng bản chất quyền lực là sức ảnh hưởng và
chi phối suy nghĩ và hành động người khác bằng ngôn ngữ. Lakoff cho rằng “Giao tiếp
thường ngày của chúng ta là một loại chính trị. Cho dù là về mặt chủ quan chúng ta có
cố ý làm như vậy không. Hành vi ngôn ngữ mỗi ngày của chúng ta đều truyền đạt được
quyền lực tương đối của chúng ta. . . Khi tiến hành giao tiếp, chúng ta có thể vô tình “đóng
vai” người thao túng hay người bị thao túng - nhưng chúng ta vẫn luôn đang thuyết phục,
cố gắng thuyết phục để người khác nhìn thế giới bằng cách thức của chúng ta, đồng thời
hành động theo phương thức của chúng ta. Nếu chúng ta thành công vậy chúng ta có
quyền lực” [dt 14].
Quyền có khi lại được tiếp cận từ góc độ bất bình đẳng về giới trong ứng xử ngôn
ngữ theo quan niệm của những người đấu tranh cho sự bình đẳng nam nữ Gregory M.
Matoesian (1993), Conley và O’Barr (1998). Phân tích cùng một nguồn ngữ liệu từ
bản ghi âm quá trình xét xử những vụ án hiếp dâm, nhà ngôn ngữ học Gregory M.
Matoesian (1993) trong “Tái tạo vụ án hiếp dâm: sự chi phối đối với hội thoại pháp
đình” (Reproducing rape: Domination through talk in the courtroom) và Conley, J. M. và
William M. O’Barr (1998) trong “Những từ ngữ đáng giá: Pháp luật, ngôn ngữ và quyền
lực” (Just Words: Law, Language, and Power) [dt. 9] đã chỉ ra hiện tượng “bạo lực” ngôn
ngữ đối với nạn nhân là nữ. Người này trước đó đã chịu bạo hành tình dục, bị xâm hại cơ
thể. Nhưng trong phiên tòa, những xét hỏi của luật sư bào chữa để bình luận sự việc, chất
vấn tiền sử quan hệ tình dục, năng lực nhận thức của bị hại... đã biến người phụ nữ đó
“tiếp tục trở thành nạn nhân”một lần nữa. Trong một nghiên cứu khác về những cuộc hội
thoại hòa giải trong những vụ án li hôn, Conley, J. M. và William M. O’Barr (1998) phân
tích ngôn ngữ trong quá trình hòa giải, kết quả cho thấy: 1) Tính chất trung lập của những
người hòa giải chỉ là giả tưởng, không thực tế; 2) Những người hòa giải sử dụng kĩ năng
ngôn ngữ trong tương tác lời nói đối với những đối tượng cần hòa giải để đạt mục đích
họ đặt ra, khi phát biểu hay thảo luận họ thường nghiêng về quyền lợi, nhu cầu của một
bên, không thực sự quan tâm đến bên kia; 3) Chiến lược ngôn ngữ của những người hòa
giải thường áp đặt quyền chi phối của nam giới đối với nữ giới - chẳng hạn trong những
vụ án li hôn, khi đề cập đến vấn đề tài chính, khả năng đàm phán tài chính của nữ giới rõ
38
Những hướng nghiên cứu quyền lực trong giao tiếp ngôn ngữ
ràng không bằng nam giới; 4) Phụ nữ dễ nghe lời người hòa giải hơn đàn ông, có khuynh
hướng thỏa hiệp, làm dịu hóa giao tiếp nên thường ở vị thế bất lợi hơn đàn ông [dt 9].
Như vậy, ở chốn pháp đình, mặc dù người ta về nguyên tắc cố gắng đưa ra luật định bảo
vệ sự bình đẳng trước pháp luật cho cả nam và nữ; song thực tế bằng chứng ngôn ngữ học
lại chỉ ra sự bất bình đẳng về quyền lực, do đó vị thế bất lợi hơn thường rơi vào giới nữ.
Nghiên cứu của Gregory M. Matoesian, Conley, J. M. và William M. O’Barr một lần nữa
minh chứng cho một tiên đề về sự bất bình đẳng nam - nữ “Pháp luật là nam” (The law
is male).
Quyền có khi được hiểu như một sự chênh lệch vị thế giữa những người thuộc các
vị thế xã hội khác nhau giữa những người thuộc các giai cấp khác nhau (Bernstein, 1970),
giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau (Hill, 1993; Walsh và Diana Eades, 1994)).
Quyền được coi là điểm mấu chốt của mối quan hệ vị thế giữa những phương ngữ nhất
định trong một ngôn ngữ (Bourdieu, 1977), giữa những ngôn ngữ nhất định trong môi
trường đa ngữ (Harries, 1988) v.v... [dt. 4]. Chẳng hạn, Michael Walsh và Diana Eades
(1994) khi phân tích ngôn ngữ tại phiên tòa tố tụng của người Australia đã chứng minh do
sự hạn chế về khả năng tiếng Anh của người bản địa với những người sử dụng tiếng Anh
chính thống mà họ luôn có địa vị quyền lực thấp trong các vụ kiện, không được hưởng chế
độ đãi ngộ thực sự bình đẳng khi xét xử [dt. 14].
Điểm thành công trong các công trình nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội là phân tích
ngôn ngữ và quyền lực trong quan hệ với các các nhân tố xã hội. Những cách tiếp cận
quyền lực khác nhau như trên có nguyên nhân sâu xa nằm ở sự biến đổi của ngôn ngữ với
tư cách một phương ngữ xã hội.
2.4. Nghiên cứu mối quan hệ quyền lực và ngôn ngữ theo hướng phân tích
hội thoại
Phân tích hội thoại có đối tượng nghiên cứu là ngôn ngữ nói trong tương tác (talk -
in - interaction), mục tiêu là khám phá cách thức những người tham gia giao tiếp hiểu và
hồi đáp người khác trong lời nói của mình, tập trung vào cấu trúc chuỗi bước thoại nảy
sinh trong tương tác. Các nhà phân tích hội thoại quy tụ theo hai xu hướng: nghiên cứu hội
thoại đời thường (phân tích hội thoại thuần túy - pure conversation analysis) hoặc nghiên
cứu hội thoại thể chế (phân tích hội thoại ứng dụng- applied). Quyền lực và quan hệ quyền
lực bất bình đẳng (asymmetry) là tâm điểm phân tích của phân tích hội thoại thể chế.
Thornborrow (2002) cho rằng tính chất bất bình đẳng biểu hiện chủ yếu ở không
gian tương tác và p