Sự phát triển của nền sản xuất xã hội cho đến nay đã trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế - đó là nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp và nền kinh tế hàng hóa mà giai đoạn cao được gọi là nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên ở trình độ thấp của xã hội mà đặc trưng cơ bản của nó là sản xuất mang tính chất tự cấp, tự túc, trao đổi bằng hiện vật, gắn với nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển và lạc hậu. Nền kinh tế này đã từng tồn tại trong các xã hội nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ và phong kiến.
Chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, đánh dấu sự thay đổi căn bản trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội – đó là nền sản xuất dựa trên sự phân công lao động xã hội và những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Trong lịch sử, nền kinh tế hàng hóa đã trải qua ba giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn thứ nhất: Chuyển từ nền kinh tế hàng hóa giản đơn sang nền kinh tế thị trường sơ khai hay dã man.
- Giai đoạn thứ hai: Phát triển kinh tế thị trường tự do, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế.
- Giai đoạn thứ ba: Kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước bên ngoài. Sự tác động của Nhà nước đến kinh tế thị trường, thể hiện ở việc xây dựng các hình thức sở hữu của Nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư sản xuất và tiêu dùng, sử dụng các công cụ kinh tế, như: tài chính, tín dụng, tiền tệ, thuế v.v. để quản lý, điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
Như vậy, kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá-giai đoạn mà mọi quan hệ xã hội của con người đều được thị trường hoá, có thể đem ra trao đổi, mua bán.
Ở Việt nam, trước năm 1975 để phục vụ cho sự nghiệp giải phóng Miền nam, thống nhất đất nước, chúng ta đã chủ trương thực hiện cơ chế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp. Đặc điểm nổi bật của cơ chế quản lý kinh tế đó là :
-Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, bằng cách, giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải hoàn thành các chỉ tiêu đó với bất cứ giá nào, nhằm để có đủ sản phẩm cần thiết phục vụ cho chiến trường, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
-Các doanh nghiệp tiến hành sản xuất theo chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên mà không cần phải tính toán đến lỗ, lãi, đến việc tiêu thụ sản phẩm Nhà nước bao cấp cả về tiền lương, giá cả, vốn , bỏ qua tất cả mọi quan hệ hàng hoá-tiền tệ.
-Bộ máy quản lý bao gồm nhiều cấp trung gian theo một kế hoach tập trung, thống nhất từ trên xuống dưới, nhưng lại không thông thạo nghiệp vụ kinh doanh, nói cách khác, hoạt động quản lý kinh tế dựa vào hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, lấy bộ máy nhà nước để điều hành và quản lý kinh tế.
Với cơ chế quản lý đó, đã giúp chúng ta huy động nhanh nhất, có hiểu quả nhất, sức người, sức của, phục vụ kịp thời cho chiến trường để giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
Sau năm 1975, miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất đi lên CNXH, mọi nguồn viện trợ của các nước đều bị cắt giảm, nền kinh tế đòi hỏi phải đứng vững trên cơ sở của chính nó. Trong khi đó, chúng ta vẫn tiếp tục duy trì cơ chế tập trung, bao cấp-đó là một trong những nguyên nhân chính đã đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào cuộc khủng khoảng kinh tế trầm trọng, kéo dài. Trong công nghiệp thì các doanh nghiệp làm ăn dối trá “lời giả, lỗ thật”. Trong nông nghiệp thì sản xuất trì trệ, sản lượng thấp, hàng triệu gia đình nông dân thiếu lương thực, thực phẩm, làm không đủ ăn. Lưu thông ách tắc, lạm phát tăng với tốc độ “phi mã”; năm 1986 chỉ số giá bán lẻ tăng đến 774,6 %.
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về những chủ trương, chính sách sai lầm mang tính giáo điều, chủ quan, duy ý chí; đồng thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội khẳng định “Những sai lầm và khuyêt điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nghuyên nhân” [1,tr.27]. Đại hội lần thư VII của Đảng (1991) đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000” và khẳng định : “Đổi mới kinh tế, chuyển nền kinh tế mang tính tự cấp, tự túc với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất trong xã hội [2,tr.25]. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996) đã đánh giá công cuộc đổi mới 10 năm của đất nước và khẳng định : “cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN” [3,tr.26] .Mặt khác, Đại hội cũng cho rằng, “cơ chế thị trường có những tác động tiêu cực, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội” [3,tr.72].
10 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2077 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nhân tố quyết định tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH TÍNH ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
TS MAI XUÂN HỢI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐH .K.T.Q.D-HÀ NỘI .
Hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới đất nước đến thành công. Đảng ta khẳng định: phải tiến hành “ Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp” [5,tr19]. “ Phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm” [3, tr14). Trong đổi mới kinh tế, phải “xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế nhiều thị trường” – Phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Bài viết này tập trung lý giải những nhân tố quyết định đến tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
1. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN :
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội cho đến nay đã trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế - đó là nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp và nền kinh tế hàng hóa mà giai đoạn cao được gọi là nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên ở trình độ thấp của xã hội mà đặc trưng cơ bản của nó là sản xuất mang tính chất tự cấp, tự túc, trao đổi bằng hiện vật, gắn với nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển và lạc hậu. Nền kinh tế này đã từng tồn tại trong các xã hội nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ và phong kiến.
Chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, đánh dấu sự thay đổi căn bản trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội – đó là nền sản xuất dựa trên sự phân công lao động xã hội và những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Trong lịch sử, nền kinh tế hàng hóa đã trải qua ba giai đoạn phát triển:
Giai đoạn thứ nhất: Chuyển từ nền kinh tế hàng hóa giản đơn sang nền kinh tế thị trường sơ khai hay dã man.
Giai đoạn thứ hai: Phát triển kinh tế thị trường tự do, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế.
Giai đoạn thứ ba: Kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước bên ngoài. Sự tác động của Nhà nước đến kinh tế thị trường, thể hiện ở việc xây dựng các hình thức sở hữu của Nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư sản xuất và tiêu dùng, sử dụng các công cụ kinh tế, như: tài chính, tín dụng, tiền tệ, thuế v.v... để quản lý, điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
Như vậy, kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá-giai đoạn mà mọi quan hệ xã hội của con người đều được thị trường hoá, có thể đem ra trao đổi, mua bán.
Ở Việt nam, trước năm 1975 để phục vụ cho sự nghiệp giải phóng Miền nam, thống nhất đất nước, chúng ta đã chủ trương thực hiện cơ chế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp. Đặc điểm nổi bật của cơ chế quản lý kinh tế đó là :
-Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, bằng cách, giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải hoàn thành các chỉ tiêu đó với bất cứ giá nào, nhằm để có đủ sản phẩm cần thiết phục vụ cho chiến trường, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
-Các doanh nghiệp tiến hành sản xuất theo chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên mà không cần phải tính toán đến lỗ, lãi, đến việc tiêu thụ sản phẩm… Nhà nước bao cấp cả về tiền lương, giá cả, vốn…, bỏ qua tất cả mọi quan hệ hàng hoá-tiền tệ.
-Bộ máy quản lý bao gồm nhiều cấp trung gian theo một kế hoach tập trung, thống nhất từ trên xuống dưới, nhưng lại không thông thạo nghiệp vụ kinh doanh, nói cách khác, hoạt động quản lý kinh tế dựa vào hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, lấy bộ máy nhà nước để điều hành và quản lý kinh tế.
Với cơ chế quản lý đó, đã giúp chúng ta huy động nhanh nhất, có hiểu quả nhất, sức người, sức của, phục vụ kịp thời cho chiến trường để giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
Sau năm 1975, miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất đi lên CNXH, mọi nguồn viện trợ của các nước đều bị cắt giảm, nền kinh tế đòi hỏi phải đứng vững trên cơ sở của chính nó. Trong khi đó, chúng ta vẫn tiếp tục duy trì cơ chế tập trung, bao cấp-đó là một trong những nguyên nhân chính đã đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào cuộc khủng khoảng kinh tế trầm trọng, kéo dài. Trong công nghiệp thì các doanh nghiệp làm ăn dối trá “lời giả, lỗ thật”. Trong nông nghiệp thì sản xuất trì trệ, sản lượng thấp, hàng triệu gia đình nông dân thiếu lương thực, thực phẩm, làm không đủ ăn. Lưu thông ách tắc, lạm phát tăng với tốc độ “phi mã”; năm 1986 chỉ số giá bán lẻ tăng đến 774,6 %...
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về những chủ trương, chính sách sai lầm mang tính giáo điều, chủ quan, duy ý chí; đồng thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội khẳng định “Những sai lầm và khuyêt điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nghuyên nhân” [1,tr.27]. Đại hội lần thư VII của Đảng (1991) đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000” và khẳng định : “Đổi mới kinh tế, chuyển nền kinh tế mang tính tự cấp, tự túc với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất trong xã hội [2,tr.25]. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996) đã đánh giá công cuộc đổi mới 10 năm của đất nước và khẳng định : “cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN” [3,tr.26] .Mặt khác, Đại hội cũng cho rằng, “cơ chế thị trường có những tác động tiêu cực, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội” [3,tr.72].
Như vậy, có thể hiểu nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng, nó không phải là nền kinh tế dựa trên cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp trước đây, nhưng nó cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường XHCN. Trong nền kinh tế đó, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, nó vừa có, lại vừa chưa có đủ các yếu tố của CNXH. Có thể xem “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta được vận hành theo quy luật kinh tế khách quan của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội của Đảng - mục tiêu dân giảu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Thực chất nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang ở giai đoạn sơ khai, nhưng vì quá trình xây dựng, và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta gắn liền với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, do đó, nó bị chi phối và chịu sự tác động kinh tế thị trường hiện đại. Sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta cũng thể hiện tính hai mặt của nó:
Sự phát triển kinh tế thị trường sẽ làm cho các quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh phát huy tác dụng. Các quy luật đó không chỉ thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển mà ngược lại còn dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, sự tích tụ tập trung sản xuất làm phá sản những doanh nghiệp yếu kém, có thể dẫn đến những xung đột xã hội giữa các ngành nghề, các thành phần kinh tế. Nó chứa đựng khả năng khủng khoảng, suy thoái, gia tăng thất nghiệp và lạm phát của nền kinh tế.
Trong kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp thúc đẩy sản xuất phát triển, song việc khuyến khích lợi ích kinh tế cũng có thể dẫn đến xu hướng ích kỷ, hẹp hòi, không quan tâm đến sự phát triển của cộng đồng xã hội. Việc chạy theo lợi nhuận thuần túy có thể gây ra những hậu quả xấu về môi trường sinh thái, an ninh quốc gia và những vấn đề văn hóa – xã hội khác.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường sẽ dẫn đến vai trò của đồng tiền – vật ngang giá chung trong quan hệ trao đổi, mua bán cũng được tăng lên theo các chức năng xã hội phong phú của nó. Mỗi khi đồng tiền trở thành mục đích cuối cùng chi phối hoạt động của con người nó sẽ làm tha hóa các quan hệ xã hội của con người.
Trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay, kinh tế thị trường mở ra khả năng to lớn để chúng ta tranh thủ tiếp cận và kế thừa những công nghệ kỹ thuật sản xuất tiên tiến của các nước, các giá trị văn hóa và văn minh nhân loại. Song quá trình hội nhập quốc tế không thể tránh khỏi sự thâm nhập của lối sống xa lạ phản giá trị trái với bản chất truyền thống của dân tộc, thậm chí có thể biến nước ta trở thành nơi “tiêu thụ” những công nghệ lỗi thời, lạc hậu, thành bãi rác thải công nghiệp của các nước tiên tiến…
Nét đặc thù của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là ở chỗ, chúng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Bàn về tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, điều cần thiết trước hết là nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đó là:
Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng” [5,tr.25- 26].
Như vậy, kinh tế thị trường ở nước ta chỉ là phương tiện để thực hiện các chính sách xã hội. Do đó, sự phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi phải phát huy được những mặt tích cực, đồng thời phải khắc phục được những mặt hạn chế của kinh tế thị trường. Xét đến cùng, sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là phương tiện để thực hiện mục đích xây dựng thành công CNXH – đó là một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2. Những nhân tố quyết định tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay:
-Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có đủ trình độ năng lực, phẩm chất để đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng : “ Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý là “những cán bộ vừa làm công tác lãnh đạo trong các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng vừa làm công tác quản lý trong bộ máy nhà nước, trong các tổ chức kinh tế” [6,tr.47] .
Cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung và tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay nói riêng. Vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước được thể hiện thông qua năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Họ vừa là những người đề ra các đường lối, chính sách vừa là những người tổ chức cho quần chúng thực hiện các đường lối, chính sách. Sự thành công hay thất bại trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đều do đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý quyết định.
Giải quyết hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội:
Chính sách kinh tế phải phục vụ và giải quyết những vấn đề xã hội, lấy hiệu quả phục vụ xã hội làm thước đo để đánh giá các chính sách kinh tế. Ngược
lại, khi đề ra chính sách xã hội phải tôn trọng các quy luật của kinh tế, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, khai thác có hiệu quả nguồn lực của đất nước vừa đáp ứng được những yêu cầu xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. Chúng ta không thể vì tính định hướng XHCN mà bất chấp các quy luật của kinh tế thị trường, định ra các chính sách và hệ thống pháp luật trái với quy luật của nó. Ngược lại, chúng ta cũng không để cho nền kinh tế thị trường phát triển tự phát theo nền kinh tế thị trường TBCN, mà phải tạo ra những điều kiện, tiền đề cho kinh tế thị trường phát triển, phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Hiện nay, với cơ chế xin – cho, việc đầu tư tràn lan, không tính đến hiệu quả của nó, không quan tâm đúng mức đến hạch toán kinh tế trong quản lý ... Điều đó, nó không chỉ làm giảm hiệu quả của kinh tế thị trường mà còn tạo ra những sơ hở cho những cán bộ lãnh đạo, quản lý dựa vào đó, cậy quyền, cậy thế để tham ô trục lợi.
- Giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống với hiện đại, kế thừa và đổi mới, phát triển.
Dân tộc Việt Nam luôn luôn ca ngợi và trân trọng những đức tính kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù, sáng tạo trong lao động và lên án phê phán những kẻ sống hèn nhát. lười biếng, lạc hậu, bảo thủ. Có thể nói những thành tựu đạt được từ trước đến nay, đặc biệt là trong những năm đổi mới vừa qua đều là kết tinh tinh thần cần cù sáng tạo trong lao động của dân tộc ta. Ngày nay đức tính đó cần phải được kế thừa và phát triển.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay, những người lao động đòi hỏi phải có việc làm - đó là sự đòi hỏi chính đáng mà những người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải quan tâm giải quyết. Thông thường, chúng ta chỉ thấy sự đòi hỏi việc làm của người lao động là xuất phát từ lợi ích của người lao động mà không thấy được rằng, sự đòi hỏi đó cũng là biểu hiện trách nhiệm, lòng yêu nước của họ. Trong xã hội ta hiện nay, không thiếu gì những người lao động, họ sẵn sàng đi đâu, làm bất cứ việc gì để có thu nhập chính đáng. Đó là vấn đề lớn đang đặt ra hiện nay cho Đảng và Nhà nước ta, mà trước hết là những cán bộ lãnh đạo, quản lý, phải suy nghĩ, tìm cách giải quyết. Khai thác được nguồn lực lao động của xã hội ta hiện nay - nhất là những người chưa có công ăn, việc làm; sẽ góp phần ngăn chặn và đẩy lùi những tệ nạn xã hội – đó thực sự là những vấn đề xã hội bức xúc, mà nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay phải quan tâm giải quyết.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải xuất phát từ nhu cầu, lợi ích bên trong của đất nước, của dân tộc, để đặt ra những yêu cầu về quan hệ hợp tác đối với các nước. Mọi hợp tác kinh tế với bên ngoài phải không làm tổn hại đến chính sách xã hội, đến lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia.
Đẩy mạnh dân chủ hóa trong Đảng, Nhà nước và trong toàn xã hội.
Ở nước ta hiện nay, việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường là điều kiện tiên quyết đảm bảo tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Song cùng với việc nâng cao vai trò lãnh đạo, quản lý của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, phải tăng cường đấu tranh chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng trong cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, thực hiện dân chủ hóa trong Đàng, Nhà nước và toàn xã hội.
Việc thực hiện dân chủ hóa cần phải giải quyết những mặt cơ bản sau:
Một là, dân chủ hóa trong việc đề bạt, tuyển dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý của tổ chức Đảng và Nhà nước. Có thể xem đây là nội dung quan trọng nhất của việc thực hiện dân chủ hóa. Bởi vì, đó là điều kiện đảm bảo cho Nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hai là, thực hiện công khai việc kê biên tài sản của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Thực tiễn đã chứng minh rằng, những quan chức giàu lên nhanh chóng sau một thời gian đảm nhận chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước, đều liên quan đến tham nhũng. Do đó, việc kê biên tài sản trở thành cơ sở pháp lý để đánh giá về đạo đức, phẩm chất của cán bộ lãnh đạo, quản lý, ngăn chặn những hiện tượng tham nhũng, lợi dụng chức quyền, để làm giàu bất chính.
Ba là, phát huy quyền dân chủ của các cơ quan ngôn luận trong việc giám sát hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Các cơ quan ngôn luận như báo chí, phim ảnh, truyền hình ... thực hiện sự giám sát về năng lực phẩm chất, đạo đức, lối sống, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời ca ngợi, biểu dương những người tốt, việc tốt. Lên án, phê phán và đấu tranh với những cán bộ lãnh đạo, quản lý, thoái hóa, biến chất. Tạo dư luận xã hội để góp phần xây dựng, củng cố tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước vững mạnh; nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhân tố quyết định sự nghiệp đổi mới nói chung và tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta nói riêng, vì vậy công tác tổ chức và công tác cán bộ của Đảng là “nguyên nhân của mọi nguyên nhân”.
--------------------------------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo.
[1] Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI , Nxb Sự thật, Hà nội.
[2] Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII , Nxb Sự thật, Hà nội.
[3] Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII , Nxb Sự thật, Hà nội.
[4] Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX , Nxb Sự thật, Hà nội.
[5] Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X , Nxb Sự thật, Hà nội.
[6] Mai Xuân Hợi (2005), Vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội.