1. Đặt vấn đề(*)
Tương quan lực lượng là một nhân
tố cốt lõi dẫn đến phân bố quyền lực giữa
các quốc gia để từ đó hình thành nên cấu
trúc quốc tế. Những thay đổi tương quan
lực lượng trong lịch sử đã từng dẫn đến các
cuộc chiến tranh. Ngày nay, các quốc gia
vẫn không ngừng củng cố sức mạnh nhưng
theo một cách toàn diện hơn thay vì chỉ tập
trung phát triển lực lượng quân sự để thực
thi và đảm bảo các lợi ích của mình trong
quan hệ quốc tế. Trong một thập kỷ đầu
sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ trải
qua “khoảnh khắc đơn cực” với sức mạnh
nổi trội toàn diện về kinh tế, quân sự, khoa
học công nghệ và các nguồn lực mềm mà
không có quốc gia nào có khả năng thách
thức. Bước vào thế kỷ XXI, từ năm 2001
tương quan lực lượng bắt đầu có sự chuyển
biến rõ rệt.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 423 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những thay đổi trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn từ năm 2001 đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin Khoa học xã hội, số 6.201844
Những thay đổi trong tương quan lực lượng
giữa các nước lớn từ năm 2001 đến nay(*)
Vũ Vân Anh(**)
Tóm tắt: Bài viết làm rõ sự thay đổi trong tương quan sức mạnh tổng hợp giữa các nước
lớn từ năm 2001 đến 2017, xét trên các phương diện: kinh tế, quân sự, khoa học và công
nghệ, sức mạnh tinh thần.
Từ khóa: Mỹ, Trung Quốc, Sức mạnh tổng hợp quốc gia
Abstract: The article analyses the changes in comprehensive national power among
great powers in terms of economic, military, scientifi c and technilogical factors as well
as moral strength in the period of 2001-2017.
Key words: The United States, China, Comprehensive National Power
1. Đặt vấn đề(*)
Tương quan lực lượng là một nhân
tố cốt lõi dẫn đến phân bố quyền lực giữa
các quốc gia để từ đó hình thành nên cấu
trúc quốc tế. Những thay đổi tương quan
lực lượng trong lịch sử đã từng dẫn đến các
cuộc chiến tranh. Ngày nay, các quốc gia
vẫn không ngừng củng cố sức mạnh nhưng
theo một cách toàn diện hơn thay vì chỉ tập
trung phát triển lực lượng quân sự để thực
thi và đảm bảo các lợi ích của mình trong
quan hệ quốc tế. Trong một thập kỷ đầu
sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ trải
(*) Bài viết là một sản phẩm của Đề tài cấp quốc gia
KX.01.12/16-20 thuộc Chương trình KH&CN trọng
điểm cấp quốc gia KX.01/16-20 của Bộ Khoa học
và Công nghệ.
(**) NCS. Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội;
Email: vananh.vu1611@gmail.com
qua “khoảnh khắc đơn cực” với sức mạnh
nổi trội toàn diện về kinh tế, quân sự, khoa
học công nghệ và các nguồn lực mềm mà
không có quốc gia nào có khả năng thách
thức. Bước vào thế kỷ XXI, từ năm 2001
tương quan lực lượng bắt đầu có sự chuyển
biến rõ rệt.
Sự suy giảm vai trò của Mỹ chủ yếu
xuất phát từ sự trỗi dậy nhanh mạnh của
các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung
Quốc. Tuy nhiên, kinh tế của các quốc gia
này vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bên trong
và phát triển thiếu tính bền vững. Hơn nữa,
kinh tế dù quan trọng như một nguồn cho
các sức mạnh khác nhưng chỉ bản thân kinh
tế cũng không thể phản ánh đầy đủ và toàn
diện sức mạnh tổng hợp quốc gia. Vì thế,
khi xét tổng thể các nguồn lực khác, bài
viết đi đến nhận định rằng tương quan lực
lượng giữa các cường quốc - cụ thể trong
Những thay đổi 45
phạm vi của bài viết là Mỹ, các đồng minh
châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga và
Ấn Độ, có sự thay đổi nhưng chưa đem lại
sự đảo ngược của cán cân.
2. Tương quan sức mạnh kinh tế
Thứ nhất, xét về quy mô nền kinh tế
Theo số liệu thống kê của IMF, năm
2001, GDP của Mỹ đứng đầu các quốc gia
trên thế giới, cao hơn cả GDP của 27 nước
thành viên EU cộng lại; gấp hơn 8,5 lần nền
kinh tế của Trung Quốc; gấp hơn 21,5 lần
nền kinh tế Ấn Độ và gấp hơn 39,5 lần nền
kinh tế Nga. Mặt khác, Mỹ cùng các đồng
minh châu Âu (EU) và Nhật Bản chiếm
khoảng 71% quy mô nền kinh tế thế giới.
Như vậy, khi bước vào thế kỷ XXI, tương
quan lực lượng nghiêng hẳn về phía Mỹ
cùng các đồng minh.
Chưa đầy hai thập niên từ sau cải cách
mở cửa, Trung Quốc luôn duy trì tăng
trưởng ở mức cao. Khoảng cách giữa nền
kinh tế Mỹ và Trung Quốc đã được thu hẹp
lại. Trung Quốc từ một nền kinh tế chỉ bằng
1/5 của Nhật Bản, 1/8 của EU năm 2010 đã
vượt cả EU và Nhật Bản trở thành nền kinh
tế lớn thứ 2 thế giới (theo GDP danh nghĩa)
và đứng đầu thế giới (theo GDP PPP) vào
năm 2016. Hơn nữa, quy mô ba nền kinh
tế mới nổi phát triển mạnh mẽ đã vươn lên
chiếm hơn 1/5 GDP toàn thế giới. Nhìn
tổng thể, cán cân kinh tế đang nghiêng dần
về nhóm các quốc gia mới nổi Trung Quốc,
Nga, Ấn Độ(*).
Thứ hai, xét về chất lượng nền kinh tế
GDP tổng sản phẩm quốc nội chỉ phản
ánh được độ lớn của nền kinh tế. Một nền
kinh tế mạnh còn phải là một nền kinh tế
phát triển lành mạnh và bền vững. Nếu so
(*) Tổng hợp từ số liệu của IMF, World Economic
Outlook Database,
data.htm
sánh về thu nhập bình quân đầu người để
đánh giá đúng đắn hơn mức sống của người
dân hay mức độ giàu có của các quốc gia
thì Trung Quốc vẫn còn kém hơn nhiều so
với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới. Nhìn vào các số liệu GDP đầu người
từ 2001-2016, khoảng cách giữa Mỹ cùng
các đồng minh so với ba nền kinh tế mới
nổi là rất lớn. Năm 2016, GDP đầu người
của Trung Quốc là 1581,59 USD, chỉ bằng
gần 1/7 con số này của Mỹ và bằng 1/4 so
với Nhật Bản (https://data.worldbank.org/
indicator/NY...). Như vậy, Trung Quốc và
Ấn Độ mặc dù nằm trong nhóm 10 nền
kinh tế lớn nhất thế giới nhưng mức sống
trung bình của người dân lại không phải là
cao. Điều này phản ánh sự phân hóa giàu -
nghèo sâu sắc trong xã hội các nền kinh tế
mới nổi này.
Giá trị đồng nội tệ cũng đóng vai trò rất
lớn trong nền kinh tế, mức độ lạm phát thông
qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI) phản ánh được
phần nào mức độ ổn định của giá trị đồng
tiền cũng như kinh tế vĩ mô nói chung. Nếu
so sánh chỉ số CPI của các quốc gia qua các
năm từ 2001 đến 2017, có thể thấy rằng, Mỹ,
Anh và Trung Quốc là ba quốc gia luôn duy
trì lạm phát ở mức dưới 4%, trong khi CPI
của Ấn Độ và Nga có lúc lên tới 12,11% và
21,61% ( ation.eu). Trong khi
đó, Nhật Bản rơi vào tình trạng giảm phát
trong suốt hơn một thập niên đầu của thế kỷ
XXI. Gần đây, từ năm 2015-2017, mức lạm
phát ở các quốc gia này mới có xu hướng
ổn định trở lại. Như vậy, trong các nền kinh
tế mới nổi, chỉ có Trung Quốc là quốc gia
có nền kinh tế vĩ mô được duy trì một cách
tương đối ổn định.
Thứ ba, xét về thương mại
Thương mại phát triển mạnh cũng là
một lợi thế lớn vì đem lại sự phát triển và
tạo ra những sợi dây ràng buộc với các
Thông tin Khoa học xã hội, số 6.201846
quốc gia khác. Trung Quốc đang chứng tỏ
quốc gia này là một “cỗ máy tiêu thụ” chứ
không chỉ là “công xưởng của thế giới”
khi quốc gia này chính thức vượt Mỹ về
thương mại trong quý I/2013. Đầu thế
kỷ XXI, Trung Quốc chưa phải là đối tác
thương mại hàng đầu của bất kỳ quốc gia
nào trong nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế
giới (G-20), nhưng đến nay Trung Quốc
đã trở thành đối tác thương mại số 1 của
6 quốc gia trong nhóm này, gồm Úc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga và Nam Phi.
Trong số 180 quốc gia mà cả hai nước Mỹ
và Trung Quốc cùng giao thương, Trung
Quốc là bạn hàng lớn của 124 nước, bao
gồm một số đồng minh chính trị và kinh
tế quan trọng của Mỹ. Cuối cùng, Trung
Quốc đã có những bước tiến vững chắc
nhằm đạt mục tiêu trở thành nhà đầu tư,
xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp thiết bị
và tín dụng trong thế giới các nước đang
phát triển. Phần lớn châu Á, châu Âu và
châu Mỹ Latinh giờ đây đều phụ thuộc vào
Trung Quốc về kinh tế (Pankaj Ghemawat
and Thomas Hout, 2016). Mặt khác, nhìn
vào xu hướng trong cán cân thương mại
của các cường quốc từ năm 2001 đến 2017
(https://tradingeconomics.com/country...),
Mỹ và Anh luôn phải đối mặt với tình
trạng thâm hụt thương mại, Nhật Bản giữ
mức thặng dư thương mại ở mức thấp,
trong khi đó Trung Quốc và Nga từ tình
trạng thâm hụt thương mại ở những năm
2001 đã có bước nhảy vọt đạt giá trị thặng
dư ở mức cao trong năm 2017. Như vậy,
cán cân thương mại đang nghiêng về phía
các quốc gia này.
Thứ tư, xét về đầu tư
Nhìn vào dòng tiền từ đầu tư nước
ngoài FDI đổ về mỗi quốc gia, Mỹ vẫn
là quốc gia có dòng vốn FDI vào và ra
nhiều nhất. Trong năm 2015, dòng tiền đầu
tư nước ngoài vào Mỹ đạt mức kỷ lục là
506,2 tỷ USD. Tuy nhiên, so với các quốc
gia mới nổi khác như Nga và Ấn Độ, thậm
chí là Nhật Bản, dòng vốn đầu tư từ nước
ngoài đổ vào Trung Quốc đã tăng trưởng
một cách đáng kể. Trong đó, năm 2013-
2014 Trung Quốc còn vượt Mỹ hơn 288 tỷ
USD. Tuy nhiên những năm gần đây, dòng
tiền vào Trung Quốc có xu hướng giảm.
Ngược lại, dòng tiền đầu tư nước ngoài
từ Trung Quốc ra các quốc gia khác lại
có xu hướng tăng, từ năm 2014, quốc gia
này đã chính thức vượt qua cả Nhật Bản
trở thành quốc gia có lượng đầu tư nước
ngoài cao nhất châu Á và là nhà đầu tư lớn
thứ hai trên thế giới sau Mỹ (https://data.
worldbank.org/indicator/BX.KLT...).
Nhìn vào tổng thể tương quan sức mạnh
kinh tế từ năm 2001-2017, có thể thấy thay
đổi lớn bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ
của các cường quốc mới nổi phương Đông
là Trung Quốc, Nga và Ấn Độ bên cạnh sự
phát triển ở mức ổn định của các cường
quốc phương Tây. Tuy vậy, còn nhiều vấn
đề và những nguy cơ bất ổn tồn tại trong
các nền kinh tế mới nổi này khiến cho tốc
độ phát triển của các quốc gia này sẽ có thể
chậm lại.
3. Tương quan sức mạnh quân sự
Để có được những đánh giá về sức
mạnh quân sự là một vấn đề không đơn
giản, bởi các số liệu được công bố ở các
nguồn khác nhau luôn có sự chênh lệch
nhất định, đó là chưa kể các dữ liệu bí mật
quân sự không tiếp cận được. Hơn nữa,
sức mạnh quân sự không chỉ phụ thuộc
vào mức đầu tư cho quân đội; số lượng
nhân lực, vũ khí, khí tài, các trang thiết bị
phục vụ quân đội mà còn phụ thuộc nhiều
vào sức công phá của vũ khí, tinh thần
dũng cảm, chiến lược, chiến thuật và kỹ
năng tác chiến của quân nhân.
Những thay đổi 47
Thứ nhất, xét về chi tiêu quân sự
Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Hòa
bình Stockholm, về tổng thể, Mỹ vẫn là
quốc gia có mức chi tiêu quân sự lớn nhất
thế giới, thậm chí tỷ lệ chi tiêu quân sự của
Mỹ so với thế giới còn có xu hướng tăng
lên từ năm 2001 đến 2017. Tuy nhiên, sự
thay đổi lớn nằm ở các cường quốc còn lại.
Trong khi các đồng minh thân cận của Mỹ
là Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản có xu hướng
không tăng, thậm chí cắt giảm chi tiêu quân
sự, thì Trung Quốc, Nga và Ấn Độ có xu
hướng tăng mạnh chi tiêu quân sự, đặc biệt
là Trung Quốc. Cụ thể, năm 2001, Trung
Quốc chi tiêu quân sự 27.875 tỷ USD, chỉ
bằng 1/10 của Mỹ và chỉ chiếm 3% chi tiêu
quân sự toàn thế giới. Trong 3 năm (2010-
2012), Trung Quốc không ngừng gia tăng
chi tiêu quân sự với mức hơn 10% mỗi
năm. Đến năm 2016, mức chi tiêu quân sự
của Trung Quốc lên tới 215.176 tỷ USD,
lớn hơn của Anh, Pháp, Đức, Nhật cộng lại;
rút ngắn khoảng cách với mức chi tiêu của
Mỹ (hơn 1/3 mức chi tiêu quân sự của Mỹ)
và trở thành quốc gia đứng thứ 2 thế giới
về chi tiêu quân sự (https://www.sipri.org/
databases/milex).
Thứ hai, xét về nhân lực quân đội
Trung Quốc và Ấn Độ luôn là hai quốc
gia có nguồn nhân lực trong quân đội lớn
nhất cũng bởi đây là hai quốc gia đông
dân nhất thế giới. Từ năm 2001 đến 2015,
trong khi các quốc gia khác không có nhiều
sự thay đổi thì nguồn nhân lực của Trung
Quốc có xu hướng thu hẹp lại (https://
data.worldbank.org/indicator/MS.MIL...).
Nguyên nhân của sự suy giảm này phần
lớn là do chính sách một con nhằm kiểm
soát gia tăng dân số của Trung Quốc. Tuy
có sự suy giảm, số lượng quân nhân của
Trung Quốc với gần 2,8 triệu người cũng
gấp đôi so với Mỹ khoảng gần 1,4 triệu
người. Trong đó, 1,6 triệu người thuộc
quân số của Lục quân Quân Giải phóng
Nhân dân khiến cho Trung Quốc trở thành
quốc gia sở hữu lực lượng bộ binh lớn
nhất thế giới.
Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng, số
lượng không phản ánh đầy đủ sức mạnh của
một đội quân, mức độ tinh nhuệ của quân
nhân cũng có thể khắc phục điểm yếu về
số lượng trong so sánh với các nước khác.
Theo xếp hạng về mức độ tinh nhuệ của các
lực lượng quân đội trên The Top Ten, dựa
trên tiêu chí về mức độ khắc nghiệt trong
quá trình rèn luyện và khả năng hoàn thành
các nhiệm vụ khó khăn, Trung Quốc không
nằm trong số 20 nước dẫn đầu trong khi Ấn
Độ xếp thứ 11. Lực lượng đặc nhiệm đường
không SAS (Special Air Service) của quân
đội Hoàng gia Anh dẫn đầu trong bảng xếp
hạng, theo sau đó là Đặc nhiệm SEAL hải
quân Mỹ xếp thứ 2 và Đặc nhiệm Spetsnaz
của Nga xếp thứ 3 (
com/ most-well-trained).
Thứ ba, xét về vũ khí, khí tài
Từ năm 2001 đến nay, Trung Quốc và
Ấn Độ là hai quốc gia nhập khẩu vũ khí
nhiều nhất (portal.sipri.org/publications/
pages/transfer/splash). Điều này một mặt
phản ánh công nghệ quân sự của các quốc
gia này vẫn còn hạn chế và phụ thuộc nhiều
vào nguồn cung cấp vũ khí từ bên ngoài,
nhưng mặt khác cũng cho thấy kho vũ khí
tiềm năng mà hai quốc gia mới nổi này
đang và sẽ sở hữu.
Về kho vũ khí, khí tài mà các quốc gia
sở hữu, hiện nay Trung Quốc đang đứng
đầu về số lượng vũ khí, trang thiết bị quân
sự phục vụ hải quân, trong khi đó Mỹ đứng
đầu về không quân và Nga đứng đầu về lục
quân. Tuy vậy, khoảng cách giữa Trung
Quốc và các quốc gia khác về trang thiết bị
hải quân không nhiều, trong khi độ chênh
Thông tin Khoa học xã hội, số 6.201848
lệch đó giữa Mỹ về không quân và Nga về
lục quân so với Trung Quốc và Ấn Độ xếp
thứ 3 và thứ 4 là rất lớn (
eu/compare/...).
Hơn nữa, nhìn vào cơ cấu các loại vũ
khí - khí tài cụ thể trong mỗi lực lượng vũ
trang (
có thể nhận thấy rằng dù số lượng khí tài
trong hải quân Mỹ ít hơn so với Trung
Quốc nhưng số lượng tàu khu trục, tàu sân
bay - các loại khí tài hạng nặng và tân tiến
với sức công phá mạnh hơn - của Mỹ lại
nhiều hơn hẳn. Tương tự như vậy trong cơ
cấu khí tài lục quân, Mỹ và Nga sở hữu
khối lượng các trang thiết bị tối tân hơn hẳn
so với Trung Quốc cả về số lượng và chất
lượng, trong khi Trung Quốc mạnh hơn về
nhân lực.
Thứ tư, xét về vũ khí hạt nhân
Trung Quốc và Ấn Độ được đánh giá
là cường quốc quân sự xếp thứ 3 và thứ
4 trên thế giới, nếu không tính đến vũ khí
hạt nhân ( repower.com/
countries...), nhưng trên thực tế, vũ khí hạt
nhân có thể làm thay đổi cục diện xếp hạng
sức mạnh quân sự bởi sức công phá của nó
và đây là một nhân tố cần tính đến. Theo
các báo cáo của Viện Nghiên cứu Hòa bình
Stockholm (SIPRI), năm 2001 Nga và Mỹ
cùng nhau sở hữu 93% trong tổng số 17.150
đầu đạn hạt nhân, Trung Quốc sở hữu 400
đầu đạn, Pháp 348, Anh khoảng 200 và Ấn
Độ 35 (Kristensen, Hans M., and Joshua
Handler, 2002). Mặc dù các quốc gia đang
có những nỗ lực giải trừ vũ khí hạt nhân
nhưng theo số liệu mới nhất năm 2017, Nga
đang sở hữu 7.000 đầu đạn hạt nhân, trong
đó có 1.910 đầu đạn ở tình trạng trực chiến,
là quốc gia sở hữu số lượng đơn vị hạt nhân
lớn nhất thế giới. Tiếp sau đó là Mỹ đứng
thứ 2 với con số là 6.800, trong đó có 1.800
đầu đạn đang ở trong tình trạng trực chiến.
Trung Quốc đã cắt giảm chỉ có 270 đầu đạn
hạt nhân. Đặc biệt, Ấn Độ có số lượng đầu
đạn hạt nhân tăng lên sau Chiến tranh Lạnh
đến 130 đầu đạn (Hans M. Kristensen,
Robert S. Norris, 2018).
Trong tương quan sức mạnh quân sự
trong gần 2 thập niên qua, có thể thấy Nga
và Mỹ vẫn là hai cường quốc quân sự hàng
đầu thế giới, trong khi các quốc gia mới nổi
như Trung Quốc và Ấn Độ có xu hướng tập
trung phát triển sức mạnh cứng trong đó có
tăng cường sức mạnh quân sự. Tuy nhiên,
khi so sánh cụ thể lực lượng quân sự hiện
nay với các cường quốc như Nga, Mỹ thì
quân đội của Trung Quốc và Ấn Độ được
đánh giá là mạnh về số lượng nhưng yếu
về kỹ năng tác chiến cũng như công nghệ
quân sự.
4. Tương quan sức mạnh khoa học và
công nghệ
Khoa học công nghệ là sức mạnh nền
tảng để phát triển kinh tế và quân sự. Sau
Chiến tranh Lạnh, Mỹ, Nhật Bản và EU
nắm trong tay công nghệ tiên tiến đã đạt
được sự phát triển ổn định về kinh tế cũng
như sở hữu những lực lượng vũ trang tiên
tiến, trong khi các quốc gia như Trung
Quốc, Ấn Độ lúc bấy giờ còn lạc hậu nên
khả năng phát triển này còn bị cản trở.
Thứ nhất, xét về chi tiêu cho nghiên
cứu và phát triển
Xét chi tiêu cho lĩnh vực nghiên cứu
và phát triển (R&D) có thể thấy được mức
đầu tư của các quốc gia cho việc cải tiến
khoa học công nghệ. Từ năm 2001 đến
nay, xu hướng chung là các quốc gia đều
chú trọng đầu tư cho khoa học công nghệ.
Đặc biệt Trung Quốc có sự đầu tư nhanh và
mạnh mẽ hơn cả trong lĩnh vực này, mức
đầu tư còn vượt cả khối EU với 28 quốc
gia cộng lại (https://data.oecd.org/rd/gross-
domestic-spending).
Những thay đổi 49
Thứ hai, xét về số lượng nhà khoa học
Số lượng nhà khoa học trên 1.000
người lao động cũng phản ánh về số lượng
nguồn nhân lực trong nghiên cứu khoa học
công nghệ. Theo số liệu năm 2013, Nhật
Bản (10,2 người/ 1.000 lao động) và Hàn
Quốc (12,8 người/ 1.000 lao động) đứng ở
nhóm 10 quốc gia đứng đầu trên thế giới;
Pháp đứng thứ 10, Anh đứng thứ 16, Mỹ
đứng thứ 17, Đức đứng thứ 20 và Trung
Quốc đứng thứ 36(*). Đặc biệt, Trung Quốc
và Nga là hai quốc gia phải đối mặt với tình
trạng chảy máu chất xám sang Mỹ và EU ở
mức cao. Từ năm 2001 đến nay, khi Trung
Quốc áp dụng các chính sách thu hút và
tạo điều kiện cho các nhà khoa học thì tỷ
lệ các nhà khoa học trở về quê hương so
với tỷ lệ người ở lại nước sở tại ngày càng
tăng lên. Ngược lại, tại Nga từ giữa những
năm 2000 đến nay xu hướng này lại tăng
đột biến (Elena Holodny, 2014), có thể do
kinh tế suy giảm bởi bị cấm vận sau sự kiện
Crimea 2014.
Thứ ba, xét về số lượng bằng sáng chế
và giải thưởng Nobel
Số lượng bằng sáng chế và giải thưởng
Nobel phản ánh chất lượng của các nghiên
cứu khoa học công nghệ. Tính đến năm
2015, 5 quốc gia được nhiều giải Nobel
nhất trên thế giới đều là các quốc gia
phương Tây, đứng đầu là Mỹ với 336 giải
Nobel, sau đó đến Anh, Đức, Pháp và Thụy
Sỹ. Nga và Nhật Bản xếp thứ 6 và 7 trong
danh sách này (Kirk, Ashley, 2015). Về
(*) Theo số liệu thống kê năm 2013 của OECD:
Số nhà khoa học và nhà nghiên cứu/1.000 người
được tuyển dụng (làm việc toàn thời gian) trên cơ
sở so sánh giữa các quốc gia năm 2013 (Xem tại:
https://www.statista.com/statistics/264644/ranking-
of-oecd-countries-by-number-of-scientists-and-
researchers/)
số lượng bằng sáng chế cho khoa học kỹ
thuật, Mỹ, Nhật Bản và Pháp là ba quốc
gia hàng đầu với số lượng bằng sáng chế
lần lượt chiếm 40%, 27% và 11% tổng các
sáng chế. Trung Quốc là quốc gia được ghi
nhận là một nhà sáng chế tích cực nhưng
lại không nằm trong danh sách, có thể do
quốc gia này tập trung vào thị trường nội
địa trước nên không chú ý tới các nhân tố
mang tầm toàn cầu và có tính tiên phong
(Thomson Reuters, 2011).
Như vậy, trong giai đoạn này, dù Trung
Quốc đầu tư mạnh mẽ về nghiên cứu khoa
học công nghệ nhưng các thành tựu đạt
được vẫn còn hạn chế so với các nước phát
triển ở phương Tây và so với Nhật Bản,
Hàn Quốc ở châu Á.
5. Tương quan sức mạnh tinh thần
Thứ nhất, xét về các giá trị tư tưởng
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc,
các giá trị tư tưởng gồm tự do, dân chủ,
nhân quyền được thúc đẩy mạnh mẽ cùng
với các chính sách can thiệp của Mỹ và
phương Tây. Ngay từ khi Chiến tranh Lạnh
đi vào thoái trào, cùng với sự tự sụp đổ của
Liên Xô, hệ tư tưởng xã hội bị giảm sút sự
hấp dẫn, trong khi đó chưa có hệ tư tưởng
nào hoàn chỉnh có khả năng trở thành đối
trọng với các giá trị tư tưởng của Mỹ và
phương Tây, đặc biệt trong thập niên cuối
thế kỷ XX.
Bước vào những năm đầu của thế kỷ
XXI, những hệ lụy an ninh của các chính
sách can thiệp do Mỹ và phương Tây thực
thi kích động làn sóng chống Mỹ và khiến
dư luận đặt nghi ngờ vào các giá trị tự do,
dân chủ và nhân quyền của họ. Hơn cả, nền
kinh tế thị trường phát triển đến ngưỡng
bộc lộ những mặt trái như tình trạng bất
bình đẳng, phân hóa xã hội ngày càng lớn...
Mặt khác, sự phát triển thần kỳ trong giai
đoạn đầu thế kỷ XXI của nền kinh tế Trung
Thông tin Khoa học xã hội, số 6.201850
Quốc và sự phục hồi của Nga đã thu hút sự
chú ý của thế giới vào những mô hình phát
triển thành công khác với Mỹ và phương
Tây. Đây cũng là cơ hội để Trung Quốc
phổ biến các giá trị tư tưởng của mình.
Gần đây, chính quyền của ông Tập Cận
Bình mới có những chính sách phổ biến
tư tưởng về “trỗi dậy hòa bình”, “thế giới
hài hòa”, “giải pháp cùng thắng”; đặc biệt
là phát triển tư tưởng Nho giáo, Khổng Tử
mới. Những đầu tư cho việc mở rộng hệ
thống Học viện Khổng tử trên khắp thế giới
đã phản ánh điều đó (Nguyên Hải, 2015).
Điều