TÓM TẮT
Trên cơ sở quan điểm của Lí thuyết Ngữ pháp chức năng, tác giả bài viết trình bày những thuộc
tính ngữ pháp tính xác định, vị trí đầu câu, tính không thể lược bỏ, kiểm định đại từ mình,
kiểm định việc sử dụng từ đều tạo thành cương vị ngữ pháp của Đề trong cấu trúc cú pháp cơ
bản của câu tiếng Việt. Cương vị ngữ pháp của Đề khiến cho cái ngữ đoạn làm Đề mang những
thuộc tính ngữ pháp mà các ngữ đoạn khác trong câu không thể có được. Do vậy, có thể nhận
diện Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt nhờ các thuộc tính ngữ pháp của nó.
Việc nghiên cứu những thuộc tính ngữ pháp của Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng
Việt, cùng với việc nghiên cứu Đề trên bình diện nghĩa học và bình diện dụng pháp, có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc tường minh và khẳng định cương vị ngôn ngữ học của Đề (mà
không phải là Chủ ngữ) trong câu tiếng Việt.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những thuộc tính ngữ pháp của đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG THUỘC TÍNH NGỮ PHÁP CỦA ĐỀ TRONG CẤU TRÚC
CÚ PHÁP CƠ BẢN CỦA CÂU TIẾNG VIỆT
NGUYỄN VĂN BẰNG(*)
TÓM TẮT
Trên cơ sở quan điểm của Lí thuyết Ngữ pháp chức năng, tác giả bài viết trình bày những thuộc
tính ngữ pháp tính xác định, vị trí đầu câu, tính không thể lược bỏ, kiểm định đại từ mình,
kiểm định việc sử dụng từ đều tạo thành cương vị ngữ pháp của Đề trong cấu trúc cú pháp cơ
bản của câu tiếng Việt. Cương vị ngữ pháp của Đề khiến cho cái ngữ đoạn làm Đề mang những
thuộc tính ngữ pháp mà các ngữ đoạn khác trong câu không thể có được. Do vậy, có thể nhận
diện Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt nhờ các thuộc tính ngữ pháp của nó.
Việc nghiên cứu những thuộc tính ngữ pháp của Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng
Việt, cùng với việc nghiên cứu Đề trên bình diện nghĩa học và bình diện dụng pháp, có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc tường minh và khẳng định cương vị ngôn ngữ học của Đề (mà
không phải là Chủ ngữ) trong câu tiếng Việt.
ABSTRACT
On the point of view of Functional Grammar Theory, the author analyses the grammatical
properties of the Topic in the basic syntactic structure in Vietnamese sentences : definiteness, the
first position in the sentence, non-omittedness, mình control, đều control. These grammatical
properties make the grammatical status of the Topic in sentences in Vietnamese. Other noun
phrases which are not Topics of sentences haven’t these properties. Thus, the Topic can be
identified by these properties. The study of the grammatical properties of the Topic in the basic
syntactic structure in Vietnamese sentennces, with the study of its properties in semantic and
pragmatic levels, has an important meaning in the explanation and the affirmation of the
grammatical status of Topic (not Subject) in sentences in Vietnamese.
1. MỞ ĐẦU
Nói ra một câu, thông thường, là thực hiện một hành động mệnh đề (propositional act), cùng với
một hành động ngôn trung (illocutionary act) và / cùng với một hành động xuyên ngôn
(perlocutionary act). Mệnh đề do câu biểu đạt [1] được Lô gích học miêu tả như một cấu trúc
gồm hai phần : Sở đề (Subjectum) và Sở thuyết (Praedicatum). Sở đề chỉ “cái được nói đến” và
Sở thuyết chỉ “điều nói về Sở đề”. Chẳng hạn :
(1) a. Tôi sẽ gặp anh vào lúc 8 giờ.
b. Hôm qua mưa đá.
Sở đề của mệnh đề được diễn đạt ở câu (1)a là tôi, ở câu (1)b là hôm qua, và Sở thuyết ở câu
(1)a là sẽ gặp anh vào lúc 8 giờ, ở câu (1)b là mưa đá.
Diễn đạt một mệnh đề, tức là thực hiện một hành động mệnh đề, là thực hiện:
(*)
TS, Khoa Thư viện Thông tin, Trường Đại học Sài Gòn
1.1. hành động quy chiếu (reference) nhằm mục đích, khi cần thiết, chỉ vào (các) thực thể trong
cái thế giới (thế giới hiện thực hoặc một thế giới nào đó) hữu quan, chẳng hạn, các thực thể được
chỉ ra ở câu (1)a là tôi, bạn, lúc 8 giờ, ở câu (1)b là hôm qua
1.2. hành động nhận định (predication) về một hành động (act), một quá trình (process), một tư
thế (position), một trạng thái (state) có liên quan đến (các) thực thể ấy. Hành động nhận định ấy
được thực hiện trên cơ sở một cấu trúc cú pháp. Nói cách khác, câu diễn đạt được một mệnh đề
là nhờ cấu trúc cú pháp. Nói theo cách định nghĩa của E. Sapir thì “câu là sự thể hiện ngôn ngữ
của một mệnh đề” “It is the linguistic expression of a proposition” (Sapir E. 1921)
Cái cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt dùng để diễn đạt một mệnh đề tương ứng
một đối một với cấu trúc của mệnh đề, trong đó thành phần thứ nhất – Đề (Topic) – biểu
thị Sở đề, và thành phần thứ hai – Thuyết (Comment) – biểu thị Sở thuyết của mệnh đề.
Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt mang những thuộc tính nghĩa học, thuộc
tính ngữ pháp và thuộc tính dụng pháp. Bài viết này chỉ trình bày những thuộc tính ngữ pháp của
Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản (i.e. Nội Đề) của câu tiếng Việt.
2. NHỮNG THUỘC TÍNH NGỮ PHÁP CỦA ĐỀ
2.1. Tính xác định (definiteness)
Tính xác định / tính không xác định (indefiniteness) là những thuộc tính ngữ pháp đối lập liên
quan đến ngữ danh từ. Trong tiếng Việt, một ngữ danh từ đảm đương phần Đề trong cấu trúc cú
pháp cơ bản của câu phải có tính xác định. Trong những câu như :
(2) a. Quyển này rất hay.
b. Người ấy vừa đi khỏi đây.
c. Những học sinh đoạt giải trong kì thi vừa qua đều được khen thưởng.
d. Những quyển sách anh cho mượn đều đáng đọc.
Đề của câu (2)a là quyển này, (2)b là người ấy, (2)c là những học sinh đoạt giải trong kì thi
vừa qua, và (2)d là những quyển sách anh cho mượn. Những ngữ đoạn đảm đương phần Đề
trong những câu này đều là ngữ danh từ. Những ngữ danh từ này đều có tính xác định.
Tính xác định của một ngữ danh từ tiếng Việt được biểu hiện nhờ những từ trực chỉ này, ấy, nhờ
ngữ vị từ hoặc tiểu cú (cấu trúc Đề - Thuyết bậc dưới câu), v.v. đặt sau trung tâm của ngữ danh
từ, chẳng hạn : quyển này, người ấy, những học sinh đoạt giải trong kì thi vừa qua, những
quyển sách anh cho mượn trong các câu (2)a, b, c, d nêu trên. Có nhiều trường hợp, tính xác
định của một ngữ danh từ phải nhờ vào ngữ cảnh mới nhận ra được. Chính nhờ tính xác định này
mà ngữ danh từ mới có thể có Sở chỉ (referent). Nói cách khác, một ngữ danh từ muốn chỉ vào
một / những thực thể cụ thể trong hiện thực thì phải có tính xác định.
Sở dĩ Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt phải có tính xác định là vì Đề chỉ ra
cái phạm vi ứng dụng của điều được nói ở phần Thuyết. Cái phạm vi ứng dụng ấy có thể là một
thực thể cụ thể trong hiện thực do một ngữ danh từ (đại từ nhân xưng, đại từ hồi chỉ, tên riêng,
ngữ đoạn có danh từ đơn vị / khối làm trung tâm) biểu thị, có thể là một sự tình (state of affairs)
do một ngữ vị từ hoặc một tiểu cú biểu thị. Chẳng hạn những câu (2)a, b, c, d nêu trên, và những
câu (3) sau đây :
(3) a. Hắn vừa rời khỏi chỗ này.
b. Nam đi học.
c. Mẹ đã về.
d. Tham thì thâm.
e. Mai đi thì muộn.
Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét đến một kiểu câu tiếng Việt trong đó Đề do một ngữ danh từ
không xác định đảm đương. Chẳng hạn trong những câu sau đây :
(4) a. Một số người không biết việc ấy.
b. Một người bi xử tử hình vì can tội sát nhân.
c. Một số tác giả lại nhận định khác hẳn.
Đề (phần in đậm nghiêng) một số người (4)a, một người (4)b, một số tác giả (4)c là những ngữ
danh từ không xác định.
Một ngữ danh từ không xác định làm Đề của một câu như những câu nêu trên thường giả định sự
tồn tại của cái sở chỉ của ngữ danh từ hữu quan. Do đó, có thể lí giải một câu như (4)a là sự hợp
nhất hai câu :
(5) a. Có một số người.
b. Số người này không biết việc ấy.
Cũng do vậy mà về cú pháp, có thể coi toàn bộ câu này là bổ ngữ của vị từ tồn tại có tạo thành
một câu :
(6) Có một số người không biết việc ấy.
đề thuyết
bổ ngữ
Việc giả định một sự tồn tại như vậy có tác dụng như một cách giới thiệu một đề tài mới (Givón
T. 1976). Như vậy, có thể nói rằng, trừ Đề ở kiểu câu (4) nêu trên, Đề trong cấu trúc cú pháp cơ
bản của câu tiếng Việt bao giờ cũng phải có tính xác định. Bất kì một ngữ đoạn nào đảm đương
phần Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt cũng đều phải được đánh dấu (marked)
tính xác định. Cái lí do đơn giản, như đã nêu ở phần trên, là tính xác định của ngữ đoạn làm Đề,
một thuộc tính thuộc bình diện ngữ pháp, liên hệ mật thiết với việc chỉ ra cái phạm vi ứng dụng
của Đề.
2.2. Tính không thể lược bỏ
Trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt, Đề, nói chung, không thể lược bỏ. Sở dĩ không
thể lược bỏ Đề là vì nó chỉ ra cái phạm vi để cho điều nói ở phần Thuyết trong cấu trúc cú pháp
cơ bản của câu có hiệu lực. Những câu (7) sau đây
(7) a. Anh thì muốn gì mà chẳng được.
b. Giàu thì ai lại không muốn.
c. Quyển sách này tôi đọc rồi.
được thừa nhận là có Đề, trong (7)a là anh, (7)b là giàu, và (7)c là quyển sách này.
Một số tác giả lại coi những ngữ đoạn in đậm nghiêng ở những câu (7) nêu trên nằm ngoài cấu
trúc cú pháp cơ bản của câu hoặc là một thành phần phụ của câu. Nếu như vậy thì có thể lược bỏ
phần này của câu. Tình hình lại không phải như vậy khi lược bỏ cái phần được coi là nằm ngoài
cấu trúc cú pháp cơ bản hoặc là thành phần phụ. Các câu (7) nêu trên nếu lược bỏ phần in đậm
nghiêng, vốn là Đề, thì sẽ sai ngữ pháp hoặc ít nhất cũng mất đi cái nghĩa vốn có của nó. So sánh
các câu (7) với những câu (8) sau đây :
(8) a. (?) thì muốn làm gì mà chẳng được.
b. (?) thì ai lại không muốn.
c. (?) tôi đọc rồi.
Sở dĩ như vậy là vì những câu (8) đã bị lược bỏ cái phần chỉ ra cái phạm vi ứng dụng của điều
được nói ở phần Thuyết : ở câu (7)a là anh, (7)b là giàu, và (7)b là quyển sách này. Câu (8)c có
vẻ như vẫn có thể chấp nhận được nhưng thực ra, nó đã bị tước bỏ cái phần chỉ ra phạm vi ứng
dụng là quyển sách này, nghĩa là câu (8)c nói về tôi chứ không phải là nói về quyển sách này
((7)c).
(7) c. Quyển sách nàyi tôij đọc i rồi.
(8) c. Tôij đọc i rồi.
Cũng cần nói thêm, tính không thể lược bỏ của Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng
Việt có tính tương đối, nghĩa là trong một số trường hợp, có thể tỉnh lược Đề. Đó là trường hợp
ngữ danh từ đảm đương Đề chỉ người nói (ngôi thứ nhất), chỉ người nghe (ngôi thứ hai), chỉ thời
điểm nói ra câu ấy (bây giờ), chỉ nơi nói ra câu ấy (ở đây) ; đó còn là trường hợp người nói ước
đoán rằng, nhờ ngữ cảnh, người nghe có thể nhận ra sở chỉ của ngữ danh từ làm Đề của câu, như
câu (7)c. Trong những trường hợp như vậy, người nói không cần phải nói ra phần Đề ấy nữa.
Chẳng hạn trong những câu như
(9) a. Đi đâu thế ?
b. Đi đằng này một tí.
c. Mưa.
d. Nóng quá !
Đề được tỉnh lược ở câu (9)a chỉ người nghe (ngôi thứ hai), ở câu (9)b chỉ người nói (ngôi thứ
nhất), ở câu (9)c chỉ thời điểm nói ra câu này, và ở câu (9)c chỉ nơi nói ra câu này.
2.3. Vị trí đầu câu
Trong một câu cơ bản, loại câu có cấu trúc cú pháp tối giản mà không có những bộ phận xác lập
mối quan hệ giữa câu với văn bản hoặc với tình huống đối thoại, Đề có vị trí đầu câu (Li CH.N.
& Thompson S.A. 1976) và thường đặt trước phần Thuyết (Cao Xuân Hạo 1991). Thuộc tính vị
trí đầu câu của Đề được coi là hiển nhiên, vì Đề, như trên đã nói, chỉ ra cái “phạm vi ứng dụng
của điều được nói ở phần Thuyết”. Nó thuộc về chiến lược phát ngôn (discourse strategies) trong
đó Đề là cái phần được đưa vào trước tiên. Chẳng hạn trong những câu (10) sau đây :
(10) a. Hôm qua mưa.
b. Trong nhà có khách.
c. Mỗi ngày một lá thư.
các ngữ danh từ hôm qua ở câu (10)a, trong nhà ở câu (10)b, và mỗi ngày ở câu (10)c là Đề và
chiếm lĩnh vị trí đầu câu, trước các ngữ đoạn làm Thuyết mưa ở câu (10)a, có khách ở câu
(10)b, và một lá thư ở câu (10)c. Vị trí đầu câu của Đề trong quan hệ với Thuyết trong cấu trúc
cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt có thể kiểm định được bằng từ thì. Ở các câu (10) nêu trên, có
thể đặt từ thì ở ranh giới của Đề và Thuyết :
(11) a. Hôm qua (thì) mưa.
b. Trong nhà (thì) có khách.
c. Mỗi ngày (thì) một lá thư.
Trong khi đó, nếu thay đổi vị trí của Đề và Thuyết thì không thể kiểm định vị trí của Đề bằng từ
thì được nữa :
(12) a. Mưa (*[2]thì) hôm qua.
b. Có khách (*thì) trong nhà.
c. Một lá thư (*thì) mỗi ngày.
2.4. Các quá trình ngữ pháp (grammatical processes)
Trong trường hợp Đề có được cái cương vị “đối tượng của tư duy”, (i.e. có cương vị Chủ Đề)
[3], nó có những thuộc tính về quá trình ngữ pháp. Các quá trình ngữ pháp này liên quan đến các
hiện tượng tỉnh lược đồng sở chỉ (coreferential deletion), kết cấu phản thân (reflexivization), cấu
trúc bị động (passivization), v.v. (Keenan E.L. 1976). Trong một câu, kể cả câu cơ bản và câu
khai triển (câu gồm nhiều bậc cú pháp (Cao Xuân Hạo 1991; Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn
Bằng, Bùi Tất Tươm, Cao Xuân Hạo (chủ biên) 1992). Đề của câu do ngữ danh từ đảm đương có
những thuộc tính về quá trình ngữ pháp sau đây :
2.4.1. Đề của câu là Chủ Đề kiểm định việc tỉnh lược ngữ danh từ đồng sở chỉ
Trong những câu (13) sau đây :
(13) a. Tôii có một điều Þi muốn thú thật với ông.
b. Quyển sách nàyi tôij đọc i rồi.
phần Đề tôi ở câu (13)a, quyển sách này ở câu (13)b kiểm định những ngữ danh từ đồng sở chỉ
được tỉnh lược (Þ), nghĩa là ngữ danh từ tôi có sở chỉ như thế nào thì ngữ danh từ tỉnh lược (Þ)
sau đó cũng có sở chỉ như vậy ; cùng một cách như vậy là ngữ danh từ quyển sách này và ngữ
danh từ được tỉnh lược (Þ) sau đó .
2.4.2. Đề của câu là Chủ Đề kiểm định việc sử dụng đại từ mình
Trong những câu (14) sau đây :
(14) a. Ông ấyi nhận là mìnhi thiếu quan tâm về vấn đề này.
b. Aii cũng chỉ nghĩ đến mìnhi thì hỏng việc.
c. Người viếti thường cho văn mìnhi là nhất.
thì phần Đề ông ấy ở câu (14)a, ai ở câu (14)b, và người viết ở câu (14)c kiểm định đại từ phản
thân mình, nghĩa là mình đồng sở chỉ với Đề của câu.
2.4.3. Đề của câu là Chủ Đề kiểm định việc sử dụng từ đều
Nghĩa của từ đều bao giờ cũng liên quan đến một lượng phức các thực thể. Trong những câu
(15) sau đây :
(15) a. Những thứ gì hay mắt nó đều mua.
b. Những ai cần được quan tâm thì ông ấy đều đã quan tâm.
phần Đề của câu (15)a những gì hay mắt, của câu (15)b những ai cần được quan tâm (chứ
không phải là nó ở câu (15)a, và ông ấy ở câu (15)b) kiểm định việc sử dụng từ đều, nghĩa là cho
phép sử dụng từ đều ở những câu này. Do vậy những câu (16) sau đây không thể chấp nhận
được:
(16) a. *Nó đều mua những thứ gì hay mắt.
b. *Ông ấy đều đã quan tâm đến những ai cần được quan tâm.
3. KẾT LUẬN
Tóm lại, những thuộc tính ngữ pháp tính xác định, vị trí đầu câu, tính không thể lược
bỏ, kiểm định đại từ mình, kiểm định việc sử dụng từ đều tạo thành cương vị ngữ pháp của
Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt. Ngược lại, cương vị ngữ pháp của Đề khiến
cho cái ngữ đoạn làm Đề mang những thuộc tính ngữ pháp mà các ngữ đoạn khác trong câu
không thể có được. Do vậy, có thể nhận diện Đề trong cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt
nhờ các thuộc tính ngữ pháp của nó. Việc nghiên cứu những thuộc tính ngữ pháp của Đề trong
cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt có vai trò đặc biệt quan trọng, cùng với việc nghiên
cứu Đề trên bình diện nghĩa học và bình diện dụng pháp, trong việc tường minh và khẳng định
cương vị của Đề (mà không phải là Chủ ngữ) trong câu tiếng Việt.
CHÚ THÍCH
[1]. Có những câu không có nội dung mệnh đề, chẳng hạn: Á!, Ối!, Hoan hô!, Bravo!, v.v.
[2]. Dấu * chỉ phần đi sau không thể chấp nhận được
[3]. Nội Đề gồm 2 loại: Chủ Đề và Khung Đề. Chủ Đề chỉ “đối tượng của tư duy”, tức là cái
thực thể được nói đến, Khung Đề chỉ cái “khung cảnh huống” trong đó một sự tình diễn ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dik S.C (1981), Functional Grammar, Foris publications – Dordrecht.
2. Dik S.C (1989), The Theory of Functional Grammar, Foris publications – Dordrecht.
3. Dyvik H.J.J (1984), Subject or Topic in Vietnamese ? University of Bergen, Deparment of
Linguistics and Phonetics.
4. Givón T (1976), Topic, Pronoun, and Grammatical Agreement, In: Ch.Li (ed), 147 – 188.
5. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt. Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Q.1, NXB Khoa học xã hội.
6. Cao Xuân Hạo (1991), Mấy tiền đề cho việc phân tích cú pháp tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 2.
7. Cao Xuân Hạo (chủ biên), Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tất Tươm, (1992),
Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, Q.1, Câu trong tiếng Việt. Ngữ pháp – Nghĩa – Công dụng.
NXB Giáo dục.
8. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt. Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, NXB Giáo
dục.
9. Cao Xuân Hạo (chủ biên), Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất Tươm (2005), Ngữ
pháp chức năng tiếng Việt, Q.2, Ngữ đoạn và Từ loại. NXB Giáo dục
10. Keenan E.L (1976), Towards a Universal Definition of “Subject”, In: Ch.Li (ed.), 305 – 333.
11. Li CH.N. & Thompson S.A. (1976), Subject and Topic: a New Typology of Language, In:
Ch.Li (ed.) 457 – 489.
12. Li CH.N (1976), Subject and Topic, New York: Academic Press.
13. Sapir E. (1921), Language, An Introduction to the Study of Speech, New York
14. Siewierska A. (1991), Functional Grammar, Routledge, London and New York.
15. Bùi Tất Tươm, Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Cố vấn : Cao Xuân Hạo (1994), Ứng
dụng ngữ pháp chức năng vào việc xây dựng một hệ thống ngữ pháp tiếng Việt trong nhà
trường, Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường Tp. HCM
16. Bùi Tất Tươm (chủ biên), Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm (1997), Giáo trình Cơ sở
ngôn ngữ học và Tiếng Việt, NXB Giáo dục.