Nội dung ôn tập cuối khóa môn kinh tế chính trị

Câu 1: phân tích các nội dung của tái sản xuất xã hội. ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước ta: 1. Nội dung của tái sản xuất xã hội. a. Tái sản xuất của cải vật chất. Của cải vật chất là toàn bộ những tài sản vật chất mà xã hội đã tích lũy đến thời điểm nào đó. Đối với quốc gia là tài sản quốc dân bao gồm của cải vật chất và của cải tinh thần. của cải tinh thần như là : truyền thống văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, bảng hiệu, bí quyết nghề nghiệp, uy tín… Của cải vật chất có thể được thể hiện ở dạng giá trị hay ở dạng hiện vật và chúng có thể chuyển hóa qua lại với nhau nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường. dưới dạng hiện vật thì biểu hiện ra là: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Dạng giá trị rất phổ biến, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển. tái sản xuất ra của cải vật chất đặt ra vấn đề làm thế nào để nó không ngừng được tái tạo và tăng cường. - Cần phải nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. hiệu quả là tiêu chí liên quan đến kinh tế thị trường, đến điều kiện tự nhiên, khách quan và bao hàm cả hai tiêu chí kia. - Cần phân biệt vật chất cố định và vật chất lưu động, vật chất sản xuất với vật chất phi sản suất. - Việc tái sản xuất tư liệu sản xuất có yếu tố quyết định đối với sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Việc tái sản xuất tư liêu tiêu dùng lại có yếu tố quyết định đối với tái sản xuất sức lao động của con người. - Cần phải tính đến các hao mòn hữu hình cũng như hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất cũng như về giá trị sử dụng hay do trải qua thời gian. Hao mòn vô hình là hao mòn về mặt giá trị, đó là trường hợp sử dụng máy móc tài sản vẫn còn nguyên vẹn nhưng giá trị của nó bị sụt giảm vì có cái tương tự xuất hiện mà tốt hơn, rẻ hơn. b. Tái sản xuất sức lao động. Sức lao động là toàn bộ khả năng lao động của con người, bao gồm những khả năng thể lực, trí lực và tâm lực tồn tại trong cơ thể sống của con người cụ thể, có thể được sử dụng để tạo ra lợi ích nào đó Lao động chính là việc sử dụng sức lao động của con người nhằm tạo ra những sản phẩm có ích Sức lao động xã hội bao gồm hai phần: một phần được sử dụng và một phần còn tiềm năng. Sức lao động không thể dự trữ, để dành mà đòi hỏi phải sử dụng thường xuyên . nếu sức lao động không được sử dụng hoặc chưa sử dụng thì cũng phải tốn kém chi phí để duy trì nó, để nuôi sống người lao động. Tái sản xuất sức lao động là sự tái tạo, khôi phục và tăng cường sức lao động cho người lao động cũng như cho xã hội. Theo Karl Marx: “phát triển con người, cả hiện tại, tương lai là một phần của tái sản xuất xã hội”. Tái sản xuất sức lao động gắn liền với tái sản xuất của cải vật chất, bởi vì những tư liệu tiêu dùng được tái sản xuất sẽ giúp tái tạo lại sức lao động. Ngược lại, sức lao động lại là yếu tố quyết định tái tạo lại của cải vật chất. Những doanh nghiệp thường chỉ quan tâm bảo toàn vốn, tư liệu sản xuất, hạ chi phí sản xuất kinh doanh để tăng lợi nhuận nhưng lại không chú ý bảo toàn vốn nhân lực qua việc đảm bảo mức thu nhập thực tế của người lao động. Vấn đề đặt ra đối với nước ta không chỉ là việc tái tạo sức lao động, mà còn là làm sao sử dụng hầu hết sức lao động tiềm năng, khắc phục tình trạng thất nghiệp trong xã hội. Muốn vậy, cần phải gia tăng đầu tư mở rộng sản xuất, đa dạng hóa nghành nghề, tạo việc làm cho xã hội, phát triển thị trường lao động. thúc đẩy khả năng tự tạo việc làm cho người lao động. bên cạnh đó còn cần phải chú ý nâng cao chất lượng lao động bằng cách gia tăng đầu tư cho giáo dục, y tế…..và giảm sức lao động tiềm năng bằng cách giảm gia tăng dân số c. Tái sản xuất quan hệ sản xuất Để quá trình tái sản xuất được diễn ra thì quan hệ sản xuất (yếu tố xã hội của sản xuất) cũng phải được tái tạo tùy theo trình độ của lực lượng sản xuất và phát triển theo cả ba mặt theo hướng xã hội hóa mà trước hết là tái tạo chủ thể của nó. Tái sản xuất quan hệ sản xuất là quá trình tái tạo củng cố hoàn thiện và phát triển quan hệ sản xuất. để đảm bảo cho quá trình này thì nhất thiết phải đảm bảo sự hài hòa về lợi ích kinh tế của các chủ thể trong quan hệ sản xuất kinh tế ấy. Nhìn chung, các quan hệ sản xuất trong xã hội sẽ được tái tạo dù có sự phá vỡ cục bộ bởi vì đồng thời sẽ có những mối quan hệ được hình thành nơi khác và lúc khác. Như vậy trong điều kiện bình thường, sự mất đi hoặc xuất hiện của các chủ thế cá biệt nào đó sẽ không làm thay đổi cơ cấu xã hội. tuy nhiên nhà nước cần phải can thiệp để hạn chế những tác hại của sự phá vỡ với quy mô lớn. d. Tái sản xuất môi trường tự nhiên. Môi trường cũng có thể coi là một yếu tố của sản xuất, dù là điều kiện gián tiếp nhưng rất quan trọng. môi trường có nhiều dạng như: môi trường xã hội, kinh tế, tự nhiên, lao động….. Trong quá trình tái sản xuất xã hội thì môi trường tự nhiên cần phải được tái tạo với hai yêu cầu như sau. - Đảm bảo nguồn dự trữ, không được là cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, cần khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả, bởi vì hầu hết tài nguyên đều không tái tạo lại được. - Môi trường sống không bị hủy hoại, đảm bảo sự cân bằng sinh thái. Vấn đề là không phải tái tạo môi trường mà còn cải tạo môi trường hiện tại, tuy nhiên ngăn ngừa thì tốt hơn cải tạo. Cần có chính sách quy định, quy hoạch, biện pháp chế tài, chi tiêu nhà nước, của các doanh nghiệp. điều quan trọng là sự giác ngộ của các chủ thể xã hội. Quá trình tái sản xuất của cải vật chất và tái sản xuất sức lao động có thể làm ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên. Các nội dung của tái sản xuất xã hội có quan hệ mật thiết và luôn luôn tác động lẫn nhau, đòi hỏi trong quá trình vận dụng không xem nhẹ nội dung nào. ...

docx15 trang | Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2197 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nội dung ôn tập cuối khóa môn kinh tế chính trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG ÔN TẬP CUỐI KHÓA MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ Câu 1: phân tích các nội dung của tái sản xuất xã hội. ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước ta: Nội dung của tái sản xuất xã hội. Tái sản xuất của cải vật chất. Của cải vật chất là toàn bộ những tài sản vật chất mà xã hội đã tích lũy đến thời điểm nào đó. Đối với quốc gia là tài sản quốc dân bao gồm của cải vật chất và của cải tinh thần. của cải tinh thần như là : truyền thống văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, bảng hiệu, bí quyết nghề nghiệp, uy tín… Của cải vật chất có thể được thể hiện ở dạng giá trị hay ở dạng hiện vật và chúng có thể chuyển hóa qua lại với nhau nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường. dưới dạng hiện vật thì biểu hiện ra là: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Dạng giá trị rất phổ biến, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển. tái sản xuất ra của cải vật chất đặt ra vấn đề làm thế nào để nó không ngừng được tái tạo và tăng cường. Cần phải nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. hiệu quả là tiêu chí liên quan đến kinh tế thị trường, đến điều kiện tự nhiên, khách quan và bao hàm cả hai tiêu chí kia. Cần phân biệt vật chất cố định và vật chất lưu động, vật chất sản xuất với vật chất phi sản suất. Việc tái sản xuất tư liệu sản xuất có yếu tố quyết định đối với sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Việc tái sản xuất tư liêu tiêu dùng lại có yếu tố quyết định đối với tái sản xuất sức lao động của con người. Cần phải tính đến các hao mòn hữu hình cũng như hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất cũng như về giá trị sử dụng hay do trải qua thời gian. Hao mòn vô hình là hao mòn về mặt giá trị, đó là trường hợp sử dụng máy móc tài sản vẫn còn nguyên vẹn nhưng giá trị của nó bị sụt giảm vì có cái tương tự xuất hiện mà tốt hơn, rẻ hơn. Tái sản xuất sức lao động. Sức lao động là toàn bộ khả năng lao động của con người, bao gồm những khả năng thể lực, trí lực và tâm lực tồn tại trong cơ thể sống của con người cụ thể, có thể được sử dụng để tạo ra lợi ích nào đó Lao động chính là việc sử dụng sức lao động của con người nhằm tạo ra những sản phẩm có ích Sức lao động xã hội bao gồm hai phần: một phần được sử dụng và một phần còn tiềm năng. Sức lao động không thể dự trữ, để dành mà đòi hỏi phải sử dụng thường xuyên . nếu sức lao động không được sử dụng hoặc chưa sử dụng thì cũng phải tốn kém chi phí để duy trì nó, để nuôi sống người lao động. Tái sản xuất sức lao động là sự tái tạo, khôi phục và tăng cường sức lao động cho người lao động cũng như cho xã hội. Theo Karl Marx: “phát triển con người, cả hiện tại, tương lai là một phần của tái sản xuất xã hội”. Tái sản xuất sức lao động gắn liền với tái sản xuất của cải vật chất, bởi vì những tư liệu tiêu dùng được tái sản xuất sẽ giúp tái tạo lại sức lao động. Ngược lại, sức lao động lại là yếu tố quyết định tái tạo lại của cải vật chất. Những doanh nghiệp thường chỉ quan tâm bảo toàn vốn, tư liệu sản xuất, hạ chi phí sản xuất kinh doanh để tăng lợi nhuận nhưng lại không chú ý bảo toàn vốn nhân lực qua việc đảm bảo mức thu nhập thực tế của người lao động. Vấn đề đặt ra đối với nước ta không chỉ là việc tái tạo sức lao động, mà còn là làm sao sử dụng hầu hết sức lao động tiềm năng, khắc phục tình trạng thất nghiệp trong xã hội. Muốn vậy, cần phải gia tăng đầu tư mở rộng sản xuất, đa dạng hóa nghành nghề, tạo việc làm cho xã hội, phát triển thị trường lao động. thúc đẩy khả năng tự tạo việc làm cho người lao động. bên cạnh đó còn cần phải chú ý nâng cao chất lượng lao động bằng cách gia tăng đầu tư cho giáo dục, y tế…..và giảm sức lao động tiềm năng bằng cách giảm gia tăng dân số Tái sản xuất quan hệ sản xuất Để quá trình tái sản xuất được diễn ra thì quan hệ sản xuất (yếu tố xã hội của sản xuất) cũng phải được tái tạo tùy theo trình độ của lực lượng sản xuất và phát triển theo cả ba mặt theo hướng xã hội hóa mà trước hết là tái tạo chủ thể của nó. Tái sản xuất quan hệ sản xuất là quá trình tái tạo củng cố hoàn thiện và phát triển quan hệ sản xuất. để đảm bảo cho quá trình này thì nhất thiết phải đảm bảo sự hài hòa về lợi ích kinh tế của các chủ thể trong quan hệ sản xuất kinh tế ấy. Nhìn chung, các quan hệ sản xuất trong xã hội sẽ được tái tạo dù có sự phá vỡ cục bộ bởi vì đồng thời sẽ có những mối quan hệ được hình thành nơi khác và lúc khác. Như vậy trong điều kiện bình thường, sự mất đi hoặc xuất hiện của các chủ thế cá biệt nào đó sẽ không làm thay đổi cơ cấu xã hội. tuy nhiên nhà nước cần phải can thiệp để hạn chế những tác hại của sự phá vỡ với quy mô lớn. Tái sản xuất môi trường tự nhiên. Môi trường cũng có thể coi là một yếu tố của sản xuất, dù là điều kiện gián tiếp nhưng rất quan trọng. môi trường có nhiều dạng như: môi trường xã hội, kinh tế, tự nhiên, lao động….. Trong quá trình tái sản xuất xã hội thì môi trường tự nhiên cần phải được tái tạo với hai yêu cầu như sau. Đảm bảo nguồn dự trữ, không được là cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, cần khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả, bởi vì hầu hết tài nguyên đều không tái tạo lại được. Môi trường sống không bị hủy hoại, đảm bảo sự cân bằng sinh thái. Vấn đề là không phải tái tạo môi trường mà còn cải tạo môi trường hiện tại, tuy nhiên ngăn ngừa thì tốt hơn cải tạo. Cần có chính sách quy định, quy hoạch, biện pháp chế tài, chi tiêu nhà nước, của các doanh nghiệp. điều quan trọng là sự giác ngộ của các chủ thể xã hội. Quá trình tái sản xuất của cải vật chất và tái sản xuất sức lao động có thể làm ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên. Các nội dung của tái sản xuất xã hội có quan hệ mật thiết và luôn luôn tác động lẫn nhau, đòi hỏi trong quá trình vận dụng không xem nhẹ nội dung nào. ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước ta: Việc nghiên cứu tái SXXH ở nước ta nhằm mục đích làm rõ tình hình tiêu dùng, đời sống của người lao động, năng suất lao động (tức thời gian hao phí XH cần thiết để tạo ra sản phẩm để từ đó cần thời gian tái phục hồi...). Tóm lại là giúp ta hiểu sâu sắc hơn sự vận động của nền kinh tế. những nguyên lý về tái sản xuất xã hội- những nguyên lý trừu tượng về thực hiện tổng sản phầm xã hội đã cho ta cơ sở lý luận để hiểu sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu và tổng thu nhập quốc dân… do đó chúng ta xây dựng được những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển kinh tế quốc dân chính xác khoa học và đúng chuẩn quốc tế. lý luận về tái sản xuất còn phát huy vai trò nòng cốt trong việc xây dựng các chính sách kinh tế -xã hội, công cụ góp phần tạo ra môi trường kinh tế -xã hội ổn định và có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. trong các chính sách đó, quan trọng nhất là chính sách tài chính tiền tệ…trong thời gian tới, chính sách đó phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng tích lũy vốn để tạo cho đầu tư phát triển, đáp ứng nhu cầu cho đầu tư phát triển, đáp ứng nhu cầu chi thật sự cấp bách, cần thiết đảm bảo quản lý mối quan hệ tích lũy và tiêu dùng;tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp , ngân sách trug ương và ngân sách địa phương. Đồng thời là nền tảng cho các chế độ phân phối lao động xã hội sau này. Việc nghiên cứu lý thuyết của chủ nghĩa Mác-Leenin về nội dung tái sản xuất là cần thiết không chỉ đối với những người nghiên cứu khoa học về kinh tế, đối với cán bộ quản lý kinh doanh, với những người có nhiệm vụ hoạch định đường lối phát triển kinh tế đất nước, mà nó cần thiết đối với mỗi sinh viên, mỗi con người, mỗi gia đình trong xã hội. Nghiên cứu lý luận còn giúp chúng ta đổi mới tư duy về xây dựng mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. trước đổi mói chúng ta đã ko thừa nhận kinh tế thị trường, nhưng Mác đã chỉ cho ta thấy rằng, Chủ nghĩa tư bản đánh bại chế độ phong kiến vì nó tạo ra sức lao động vượt trội hơn, phi thường hơn. Lý luận vể tái sản xuất xã hội thực sự trở thành nòng cốt trong lĩnh vực khoa học kinh tế ở nước ta, góp phần thay đổi tư duy về chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và phát triển: lựa chon mô hình nào lợi cho sự phát triển sản xuất cũng tức là lợi cho mục tiêu cuối cùng cho CNXH, đánh dấu sự thay đổi tư duy về mối quan hệ giữa nhà nước và nền kinh tế thị trường, đổi mới tư duy về nội dung của nền dân chủ CNXH trong đó có dân chủ trong kinh tế. Bên cạnh đó còn phải kể đến sự thay đổi tư duy từ xây dựng một nền kinh tế tập trung khép kín sang tu duy xây dựng một nền kinh tế mở. Câu 2: phân tích nội dung, yêu cầu, tác dụng của quy luật giá trị trong nề kinh tế hành hóa. Nội dung: Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động khách quan, không lệ thuộc và ý muốn của con người. đặc điểm hoạt động của nó cũng có khác biệt giữa các phương thức sản xuất, tùy thuộc vào quan hệ sản xuất thống trị. Quy luật giá trị quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị tức là dựa trên cơ sở xã hội cần thiết. Yêu cầu: Trong sản xuất quy luật giá trị đòi hỏi nhà sản xuất phải căn cứ vào giá trị xã hội phải hạ thấp giá trị cá biệt sao cho giá trị cá biệt không vượt quá giá trị xã hội. Tuân theo yêu cầu này các nhà sản xuất mới có thể tồn tại và phát triển ngược lại sẽ thua lỗ và phá sản. Trong tao đổi, quy luật giá trị đòi hỏi người mua, kẻ bán phải căn cứ vào giá trị, phải thực hiện nguyên tắc đúng giá tức là nguyên tắc mua bán đúng giá trị. Người mua muốn mua hàng hóa dưới giá trị, người bán muốn bán hàng hóa trên giá trị, từ đó thống nhất nguyên tắc đúng giá. Tác dụng Góp phần điều tiết sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hóa. Điều tiết sản xuất. Các nhà sản xuất thường đầu tư hay chuyển hướng đầu tư vào nghành nào có điều kiện sản xuất thuận lợi, dễ dàng có được giá trị cá biệt thấp, có được chênh lệch giữa giá trị cá biệt với giá trị. Từ đó, các yếu tố sản xuất se chuyển dịch đến những nghành đó; quy mô sản xuất sẽ được điều chỉnh; ngành này mở rộng, còn nghành kia lại thu hẹp. Sự điều tiết như vậy, nói chung là rất cần thiết, mang lại hiệu quả kinh tế, bởi vì những nghành đó thường là những nhành mà xã hội có nhu cầu cao. Nhưng trong một số trường hợp thì ngược lại, cho thấy mặt hạn chế của tác dụng này, cho thấy mâu thuẩn giữa lao động cá biệt và lao động xã hội. Điều tiết lưu thông. Quy luật giá trị khiến cho hàng hóa có xu hướng di chuyển từ nơi có giá trị hay giá cả thấp đến nơi có giá trị hay có giá cả cao. Đây là tác dụng của quy luật ở khâu trao đổi, trong quá trình tái sản xuất. sự điều tiết này là có lợi, bởi vì đó là sự điều tiết từ nơi có nhu cầu thấp đến nơi có nhu cầu cao, giúp phân phối hợp lý các nguồn hàng giữa các vùng kinh tế giúp cân đối cung cầu và các loại hàng hóa trong nền kinh tế. Điều tiết tiêu dùng. Đây là tác dụng của quy luật ở khâu tiêu dùng, trong quá trình tái sản xuất. nói chung, những mặt hàng giá trị cao (so với thu nhập và so với lúc trước) sẽ ít được tiêu dùng, những mặt hàng giảm giá thấp sẽ được tiêu dùng nhiều hơn. Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tăng năng xuất lao động và phát triển lực lượng sản xuất. Để có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị, thu được nhiều lãi, người sản xuất hàng hóa ngoài việc phát huy những điều kiện thuận lợi, thực hiện tiết kiệm trong sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý sản xuất và phân phối, họ phải còn đầu tư mua sắm thiết bị máy móc, cải tiến kỹ thuật, cũng như sử dụng lao động có tay nghề cao. Từ đó, năng suất lao động cá biệt sẽ tăng lên, năng suất lao động xã hội cũng tăng theo và lực lượng sản xuất xã hội sẽ phát triển. Phân hóa những người sản xuất hàng hóa. Đây là kết quả của hai tác dụng trên. Người sản xuất hàng hóa thường bị phân hóa, nhất là những người sản xuất hàng hóa. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, người sản xuất nào có điều kiện thuận lợi, biết đầu tư đúng chỗ, cũng như có những nỗ lực cải tiến kỹ thuật quản lý, có thể tạo ra sản phẩm với giá trị cá biệt thấp hơn giá trị, thì sẽ thành công và sẽ giàu có. Còn ngược lại, những người không có điều kienj hay nỗ lực như trên sẽ gặp rủi ro tai nạn thì sẽ mất vốn, bị phá sản hoặc làm thuê cho người khác. Về mặt kinh tế, tác dụng này đưa đến sự khác biệt và chọn lọc những người sản xuất hàng hóa, thúc đẩy các nhân tố tích cực phát triển. Về mặt xã hội, tác dụng này đưa đến sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc, tạo cơ sở hình thành quan hệ chủ thợ và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Câu 3.trình bày lý luận về tích lũy tư bản và sự vận dụng nó trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản để mở rộng sản xuất, tăng thêm quy mô bóc lột. Tích lũy tư bản là tất yếu khách quan do quy luật kinh tế cơ bản, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh….của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quy định. Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư; thực chất của tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất. Quy mô của tích lũy phụ thuộc vào giá trị thặng dư và tỉ lệ phân chia của giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu nhập (bộ phận giá trị thặng dư mà nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân) . nếu tỉ lệ phân chia không thay đổi, thì quy mô tích lũy phụ thuộc vào yếu tố làm tăng khối lượng giá trị thặng dư như: Tăng cường bóc lột sức lao động. Nhân tố này biểu hiện ở chỗ cắt xén tiền công, tăng cường độ lao động đối với công nhân là thuê. Tăng năng xuất lao động xã hội. đây là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ và có tác dụng thiết thực đối với tích lũy Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng (tức giá trị máy móc, thiết bị sử dụng) và tư bản tiêu dùng (tức giá trị tiêu hao của máy móc thiết bị nào đó qua mỗi chu kỳ sản xuất). Quy mô tư bản ứng trước. quy mô tư bản ứng trước ngày càng lớn càng có điều kiện phát triển nhanh, do đó tích lũy ngày càng nhiều. Liên hệ việt nam.. Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Nhu cầu tích lũy vốn rất lớn và đang mâu thuẫn gay gắt với tình trạng xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp, thu nhập của người dân ít. Việc nghien cứu tích lũy tư bản có ý nghĩa xây dựng cơ sở lý thuyết cho việc tìm kiếm giải pháp về vốn nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH và thực hiện tái sản xuất mở rộng nền kinh tế quốc dân.  Đó là, phải có cơ chế huy động mọi nguồn lực của xã hội (lao động, tài nguyên, vốn, công nghệ ...) vào sản xuất, tăng thu nhập, tạo nguồn vốn tích lũy và tiêu dung theo hướng ưu tiên cho tích lũy; thực hiện quay vòng vốn nhanh. Đặc biệt, phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế và tăng năng suất lao động xã hội, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại....\ Câu 4. Trình bày khái niệm, phân tích nguyên nhân xuất hiện và hình thức biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Khái niệm chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hệ thống những chính sách, hình thức mà nhà nước tư bản sử dụng để quản lý điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và để đáp ứng lợi ích của các tổ chức tư bản độc quyền (hơn là vì lợi ích của xã hội) nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Bản chất của chủ nghĩa độc quyền nhà nước được thể hiện đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chính là một hình thức mới của sự vận động của mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây không phải là một giai đoạn của chủ nghĩa tư bản mà chỉ là ở mức độ cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nguyên nhân xuất hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Do nền sản xuất xã hội hóa ngày cang cao, đòi hỏi phải có sự điều tiết xã hội đối với nền kinh tế. Sự xã hội hóa ngày càng cao của sản xuát do quá trình tập trung chuyên môn hóa nền sản xuất xã hội cùng với những thành tựu mới của tiến bộ khoa học kỹ thuật đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển không đồng bộ, cơ cấu kinh tế thay đổi không hợp lý. Trong điều kiện đó đòi hỏi phải có sự điều tiết của nhà nước đối với các quá trình kinh tế nhằm ổn định và phát triển kinh tế. Sự thống trị của các tổ chức độc quyền làm cho mẫu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng sau sắc, mâu thuẫn xã hội gay gắt …đã đòi hỏi nhà nước tư bản phải can thiệp vào nền kinh tế, nhằm đáp ứng các lợi ích của các tỏ chức độc quyền cũng như lợi ích của xã hội. Nhà nước tư bản có thể phải giới hạn sự tự do hoạt động của tư bản độc quyền để làm mềm hóa những mâu thuẫn và hạn chế các hậu quả tiêu cực do sự thống trị của độc quyền sinh ra, nhằm bảo vệ và phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế và sự bành trướng của các công ty độc quyền quốc tế làm tăng mâu thuẫn về lợi ích giữa các nước tư bản phát triển với nhau và với các nước đang phát triển. điều này đòi hỏi nhà nước tư bản cần có chính sách kinh tế đối ngoại thích hợp. Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nảy sinh như một yếu tố tất yếu kinh tế, phần nào đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xã hội hóa cao độ trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng vẫn không giải quyết được những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Những hình thức biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Phát huy sở hữu nhà nước. Sở hữu nhà nước được hình thành từ ngân sách nhà nước bằng cách phát huy trái phiếu, tư nhân hóa…sở hữu nhà nước được sử dụng để đầu tư phát triển các nghành ít lợi nhuận, cần vốn lớn như xây dựng kết cấu hạ tầng, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật với nhiều rủi ro, mua lại những xí nghiệp tư bản bị phá sản, sau đó bán lại những xí nghiệp phát triển chắc chắn cho các tổ chức độc quyền. Từ đó, hệ thống các doanh nghiệp nhà nước trong các nghành kinh tế được hình thành. Ngoài ra, nhà nước tư bản còn phải thực hiện trợ cấp xã hội, thực hiện xuất khẩu tư bản nhà nước. Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự đan kết sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân trong quá tình chu chuyển của tổng tư bản xã hội. Sự điều chỉnh và kiểm soát của nhà nước đối với nền kinh tế thông qua sử dụng hệ thống chính sách, hệ thống pháp luật và các công cụ kinh tế cần thiết. Các công cụ kinh tế rất đa dạng, thường được sử dụng cho nhiều chính sách kinh tế khác nhau và có thể phan biệt làm hai loại qua tác dụng của chúng là công cụ kích thích và điều tiết kinh tế. công cụ kinh tế nào được sử dụng, vào lúc nào, với mức độ ra seo sẽ cho thấy năng lực quản lý kinh tế vĩ mô của bất cứ nhà nước nào. Sự kết hợp giữa cá nhân giữa tổ chức độc quyền và nhà nước tư bản. Hội xí nghiệp có mối quan hệ gắn bó với các đảng phái chính trị của giai cấp tư sản, nó cunng cấp kinh phí cho các đảng phái và quyết định không chỉ số lượng mà cả thành phần nhân sự ứng cử vào nghị viện và sau đó còn tham gia vào việc lập chính phủ. Từ đó các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau từ tw đến địa phương. Ngoài ra các quan chức và nhân viên chính phủ cũng tìm cách thâm nhập vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền, nắm giữ các chức vụ trọng yếu khác nhau Câu 5. Phân tích tính tất yếu khách quan và lợi ích của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận của nền kinh tế quốc dân được sắp xếp theo một tương quan tỉ lệ nào đó Thành phần kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân xét về mặt quan hệ sản xuất với hình thức sở hữu và quan hệ sở hữu đặc trưng, với trình độ nhất định về lựu lượng sản xuất Cơ cấu kinh tế nhiều thanh phần là tổng thể các thanh phần kinh tế được xắp xếp theo một tương quan hợp lý nhằm mục tiêu phát triển lực lược sản xuất và hoàn thien quan hê sản xuât mới. Tính tất yếu khách quan: Theo quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất: Theo sự nhận thức trược đây:lực lượng sản xuất hiện tại còn ở trình độ thấp chưa xã hội hóa cao thì quan hệ sản xuất chưa thể là xã hội chủ nghĩa một cách triệt để, mà quan hệ sản xuất cũ vần còn vai trò lịch sử. Cần nhận thức rằng: lực lượng sản xuất luôn có nhiều trình độ, không thuần nhất, nên không thể áp dụng một hình thức hay một kiểu quan hệ sản xuất duy nhất do vậy, cần phải có nhiều quan hệ sản xuất
Tài liệu liên quan