Trong vụ tranh chấp cá tra, cá ba sa Việt nam vào Mỹ, cuối
tháng 7/2003 sẽ có phán quyết cuối cùng từ phía Mỹ. Dù các
cơ quan chức năng Hoa Kỳ có kết luận như thế nào đi nữa thì
một điều rất xác thực là: Việt Nam không bán phá giá, việc
nhập khẩu cá tra, basa của Việt Nam vào Mỹ không gây
thiệt hại cho ngành sản xuất cá nheo của Mỹ ai cũng có thể
nhận biết được.
Thế nhưng, hậu quả của vụ kiện này đã gây thiệt hại rất lớn
cho ngành Thủy sản nói chung và nghề nuôi cá bè đang phát
triển mạnh ở Vĩnh Long nói riêng.Để tránh và hạn chế tối đa
rủi ro do chỉ có ít sản phẩm từ một đối tượng truyền thống
như cá tra, cá ba sa như hiện nay thì việc mở rộng thị trường
và đa dạng hóa sản phẩm từ nhiều đối tượng để tạo ra những
loại sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường thế
giới là một chiến lược tối cần thiết mà nhà chế biến và nhà
sản xuất nguyên liệu phải hoạch định.
23 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nuôi cá rô phi xuất khẩu - Hướng đa dạng hóa sản phẩm mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nuôi cá rô phi xuất khẩu
- hướng đa dạng hóa sản
phẩm mới
Trong vụ tranh chấp cá tra, cá ba sa Việt nam vào Mỹ, cuối
tháng 7/2003 sẽ có phán quyết cuối cùng từ phía Mỹ. Dù các
cơ quan chức năng Hoa Kỳ có kết luận như thế nào đi nữa thì
một điều rất xác thực là: Việt Nam không bán phá giá, việc
nhập khẩu cá tra, basacủa Việt Nam vào Mỹ không gây
thiệt hại cho ngành sản xuất cá nheo của Mỹ ai cũng có thể
nhận biết được.
Thế nhưng, hậu quả của vụ kiện này đã gây thiệt hại rất lớn
cho ngành Thủy sản nói chung và nghề nuôi cá bè đang phát
triển mạnh ở Vĩnh Long nói riêng.Để tránh và hạn chế tối đa
rủi ro do chỉ có ít sản phẩm từ một đối tượng truyền thống
như cá tra, cá ba sa như hiện nay thì việc mở rộng thị trường
và đa dạng hóa sản phẩm từ nhiều đối tượng để tạo ra những
loại sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường thế
giới là một chiến lược tối cần thiết mà nhà chế biến và nhà
sản xuất nguyên liệu phải hoạch định. Và một trong những
loại nguyên liệu có khả năng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu là cá
rô phi.
Tại Hội nghị Quốc tế về Kỹ thuật và Thương mại cá rô phi đã
được tổ chức vào ngày 28-30/5/2001 (Kuala Lumpur,
Malaysia) đã nhận định cá rô phi là một đối tượng đã được
thừa nhận có khả năng phát triển rất lớn và là sản phẩm có
nhu cầu rất cao trong những năm tới trên nhiều thị trường thế
giới như Mỹ, Nhật Bản và một phần ở Châu Âu.
Đứng đầu là Mỹ- thị trường nhập khẩu các sản phẩm cá rô
phi lớn nhất thế giới: năm 1999, nhập khẩu 37.575 tấn; năm
2000 là 40.500 tấn; năm 2001 nhập 70.000 tấn.. Nhật Bản-
chuyên tiêu thụ các mặt hàng cá rô phi cao cấp, nhất là cá rô
phi đỏ: năm 1999, nhập 507 tấn.. Thị trường tiêu thụ lớn nhất
của Châu Âu là Anh, kế đến Đức, Pháp, Bỉ, Italiađã nhập
270 tấn năm 1999.Sản lượng nuôi cá rô phi trên thế giới năm
1990 đạt trên 400 ngàn tấn, năm 1995 đạt trên 800 ngàn tấn,
năm 1999 đạt 1,1 triệu tấn, trong đó Châu Á chiếm trên 70%,
riêng Trung Quốc là nước dẫn đầu với gần 50% sản lượng
thế giới với năng suất đạt 6 tấn/ha và Đài Loan là nước xuất
khẩu cá rô phi lớn nhất thế giới với năng suất nuôi trong ao
đạt 12 tấn/ha.
Trên cơ sở dự báo về khả năng sản xuất và nhu cầu thị trường
thế giới trong những năm tới, Bộ Thủy sản đã xác định đây là
đối tượng nuôi cần được chú ý phát triển mạnh để đưa mặt
hàng cá rô phi nhanh chóng có sản lượng hàng hóa lớn và trở
thành một trong những sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao..
Trước mắt, trong năm 2002-2003, đưa khoảng 13.000 –
15.000 ha (khoảng 3% diện tích nuôi nước ngọt) mặt nước
của khu vực ĐBSCL vào nuôi cá rô phi hàng hóa để đạt sản
lượng 120.000-150.000 tấn, chế biến xuất khẩu khoảng
70.000 – 100.000 tấn nhằm đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu
100 –120 triệu USD từ con cá này.
Vĩnh Long có tiềm năng rất lớn về nuôi thủy sản nước ngọt,
ngoài tôm càng xanh, cá tra, những giống loài có giá trị kinh
tế cao ngày càng được người nuôi chú ý để thích ứng với
nhịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp đang ngày
càng sôi động của tỉnh nhà, trong đó có cá rô phi đỏ (cá điêu
hồng) và cá rô phi được cải thiện di truyền (GIFT,
Genetically Improved Farmed Tilapia) đã mở ra tiềm năng
nuôi xuất khẩu đầy triển vọng do cá tăng trưởng nhanh, kích
thước thương phẩm lớn (sau 6 tháng nuôi có thể đạt kích cỡ
thương phẩm từ 0,5-0,6kg/con), có ngoại hình đẹp, tỉ lệ thịt
cao, chất lượng thịt ngon.
Tuy là loài thủy sản nước ngọt, nhưng chúng có thể sống và
phát triển cả trong môi trường nước lợ, mặn có nồng độ muối
tới 32%o (thích hợp nhất là 0- 25%o), khả năng chịu nhiệt từ
14- 40ºC (thích hợp cho cá phát triển từ 25- 35ºC).
Riêng cá rô phi dòng GIFT có khả năng chịu được ở vùng
nước có hàm lượng Oxy thấp hơn 1mg/l, ngưỡng gây chết cá
từ 0,3- 0,1mg/l.,phát triển tốt trong khoảng 2-5 mg/l..
Giới hạn pH từ 5-11, nhưng thích nghi nhất là 6,5-7,5.Tất cả
các loài rô phi đều có tính ăn tạp, tuy nhiên thức ăn ưa thích
của rô phi là những sinh vật thuỷ sinh lơ lửng trong nước.
Ngoài ra rô phi còn có khả năng sử dụng rất hiệu quả những
loại thức ăn do con người cung cấp như cám, tấm, các loại
rong bèo (bèo tấm, bèo hoa dâu), bột cá tạp và các phụ phẩm
nông nghiệp khác. Đây là đặc điểm rất thuận lợi cho nghề
nuôi cá.
Lượng thức ăn hàng ngày khoảng 3-7% trọng lượng thân (tùy
theo cỡ cá) chia ra làm 3-4 lần trong ngày.Khi nuôi thâm
canh và bán thâm canh, phải cho cá ăn thức ăn có hàm lượng
đạm cao (20-35% Protein), đây là yêu cầu kỹ thuật rất quan
trọng quyết định đến năng suất và hiệu quả kinh tế của người
nuôi.
Tốc độ sinh trưởng của cá rô phi đỏ và rô phi dòng GIFT tùy
thuộc vào nhiệt độ môi trường nước, thức ăn, mật độ thả và
kỹ thuật quản lý chăm sóc. Khi nuôi thâm canh cá sẽ lớn
nhanh hơn nuôi bán thâm canh hay nuôi ghép. Sau 5-6 tháng
nuôi đạt cỡ 400-600gr/ con trở lên.Tuy là đối tượng dễ nuôi
do có nhiều ưu điểm nêu trên, song áp dụng một số biện pháp
kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính sau đây là rất cần thiết, nhằm
giúp người nuôi biến tiềm năng thành hiện thực, góp phần đa
dạng hóa sản phẩm thủy sản xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của thị trường thế giới.
* Nuôi trong lồng bè:
Nuôi cá trong lồng, bè là hình thức nuôi tiên tiến. Mật độ cá
nuôi trong lồng bè rất cao và sự sinh trưởng của cá hoàn toàn
phụ thuộc vào lượng thức ăn do con người cung cấp. Để nuôi
cá rô phi trong lồng bè đạt kết quả tốt cần lưu ý một số vấn
đề sau:
Vị trí đặt lồng, bè:
Lồng hoặc bè phải đặt ở nơi có nguồn nước tốt (có thể đặt ở
các dòng sông có dòng nước chảy nhẹ hoặc đặt ở các hồ chứa
nước) không nên đặt lồng bè gần nguồn nước thải công
nghiệp, nước thải dân dụng và đặc biệt tránh xa nguồn nước
thải của nhà máy hoá chất, thuốc trừ sâu. Đáy của lồng bè
nên đặt cách đáy của sông hồ khoảng 0.5m
Kích thước và vật liệu làm lồng, bè:
Tuỳ điều kiện cụ thể mà chọn nguyên vật liệu làm lồng bè và
kích thước lồng khác nhau (có thể từ 10-100m3). Nếu đóng
lồng bè quá nhỏ sẽ không có hiệu quả kinh tế. Có thể đóng bè
bằng tre, hoặc dùng lưới mắt nhỏ (1cmx1cm) bao quanh một
khung bằng gỗ.v.v..Mực nước tối thiểu trong lồng từ 1,2- 1,5
m..
Chăm sóc và quản lý bè:
Cá rô phi thả vào lồng, bè nuôi phải có kích cỡ đồng đều,
không bị xây sát, bệnh tật. Mật độ thả tuỳ theo điều kiện cụ
thể ở nơi đặt lồng, bè.- Nếu đặt ở nơi sông lớn, nguồn nước
tốt, đủ dưỡng khí có thể thả 150-200 con/.m3.- Lồng đặt ở
sông hồ nhỏ, mực nước nông có thể thả mật độ 80-100
con/m3.- Lồng đặt ở những ao lớn, mực nước thấp, nước có
thể trao đổi được với hệ thống kênh rạch xung quanh thì thả
60-80 con/m3.Lượng thức ăn thay đổi theo cỡ cá. Khi còn
nhỏ lượng thức ăn chiếm 10-15% trọng lượng cá, khi cá lớn
cho ăn khoảng 2-3%. Nên sử dụng thức ăn viên hoặc thức ăn
tự chế dạng viên (hàm lượng đạm từ 20-30%) để giảm bớt
hao hụt do thức ăn tan trong nước mỗi khi cho cá ăn. Thường
xuyên kiểm tra lượng thức ăn để điểu chỉnh kịp thời.Những
khi nước đứng hoặc nhiệt độ tầng mặt quá cao phải tiến hành
sục khí hoặc quạt nước để tạo sự lưu thông dòng nước và
cung cấp thêm dưỡng khí cũng như thải bớt khí độc trong
lồng bè nuôi.Thường xuyên kiểm tra lồng bè để phát hiện và
xử lý kịp thời những sự cố.
* Nuôi thâm canh trong ao:
Đây là hình thức nuôi công nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế
cao, người nuôi nên chọn ao có diện tích từ 1000- 3.000m2,
mức nước sâu từ 1,2- 2,0m; nguồn nước phải chủ động cung
cấp và ao phải được cải tạo kỹ theo qui trình, duy trì pH từ
6,5-7,5.- Tùy theo khả năng tài chính và kỹ thuật chăm sóc có
thể thả 10-15 con/m2, cỡ giống từ 6-8 cm..Thích hợp nhất là
thả nuôi vào tháng 3 đến tháng 4.- Nên dùng các loại thức ăn
viên công nghiệp hoặc tự phối chế có hàm lượng đạm từ 18-
35%, thức ăn phải nổi trên mặt nước ít nhất 2 giờ. Ngày cho
ăn 2 lần: sáng sớm và chiều mát. Lượng cho ăn thay đổi tùy
theo cỡ cá:+ Cỡ 20- 50 gr: cho ăn 7- 10% trọng lượng cá
trong ao/ngày;+ Cỡ 50-200 gr: cho ăn 5% trọng lượng cá
trong ao/ngày;+ cỡ 200 gr trở lên: cho ăn 2% trọng lượng cá
trong ao/ngày- Đối ao nuôi thâm canh thì vấn đề quản lý môi
trường nước phải đặt lên hàng đầu. Thường xuyên thay nước
mới cho cá và cần bố trí quạt nước để quạt nước trong ao vào
thời điểm Oxy trong ao bị thiếu (thường vào khoảng 1-5 giờ
sáng).+ Thường tháng thứ nhất không sục khí và không thay
nước. Tháng thứ 2 thay 1 lần, tháng thứ 3 thay 2 lần, từ tháng
thứ 4 mỗi tuần thay 1 lần, mỗi lần thay từ 1/3- 2/3 lượng
nước trong ao.- Sau 5-6 tháng nuôi, cá đạt kích cỡ thương
phẩm (400-600 gr/con) thì thu hoạch trước, cá nhỏ hơn nên
giữ lại nuôi tiếp khoảng 1 tháng sẽ đạt cỡ theo ý muốn..
Cá rô phi là một đối tượng thủy sản nuôi có nhiều ưu điểm
như: sức sống cao, hệ số thức ăn và chi phí nuôi không lớn,
thịt cá trắng, không có xương dăm, mùi cá nhẹ và việc nuôi
không làm ảnh hưởng xấu tới môi trường, có khả năng phát
triển mạnh ở nhiều loại hình thủy vực, kể cả nước ngọt và
nước lợ, thích hợp cho các loại hình nuôi thâm canh, bán
thâm canh, quảng canh, luân canh hoặc xen canh với các đối
tượng khác do yêu cầu kỹ thuật không cao và chi phí đầu tư
không cần lớn.
Tuy nhiên, để cá rô phi đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, người nuôi
nên:
Sử dụng con giống tốt (cá rô phi vằn dòng GIFT hoặc cá rô
phi đỏ đơn tính).Nuôi cá trong ao thay nước thường xuyên
hay nuôi trong lồng bè (giúp loại bỏ mùi bùn).Sử dụng thức
ăn viên hay thức ăn tự chế có 20-30% đạm.Không sử dụng
kháng sinh trong thức ăn cho cá (đặc biệt các loại nằm trong
danh mục cấm- Bộ Thủy sản đã ban hành).Thực hiện những
biện pháp kỹ thuật tích cực trên, nuôi cá rô phi đơn tính nói
chung và cá điêu hồng nói riêng sẽ mang lại lợi nhuận từ 30-
40% trên tổng chi phí đầu tư.Với giá cá thương phẩm từ 18
đến 20 ngàn/kg tại thời điểm này, nuôi cá rô phi đơn tính sẽ
đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi trong tình hình
nuôi cá tra có nhiều rủi ro như hiện nay. Đây là một đối
tượng nuôi có nhiều triển vọng phát triển mạnh ở tỉnh ta để
đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa lón của người nuôi, và
đây cũng là hướng đa dạng hóa sản phẩm mới- tránh sự lệ
thuộc chỉ vào một vài loại nguyên liệu truyền thống- trong
chiến lược xuất khẩu thủy sản của tỉnh nhà rất cần được sự
quan tâm và đầu tư đúng mức.
KS. Phạm Thị Thu Hồng- CC.BVNL Thủy sản
Nuôi cá rô phi xuất khẩu chất lượng cao
Cá rô phi là loài dễ nuôi, có nhu cầu dinh dưỡng tương đối
đơn giản, tuy nhiên sau một thời gian thử nghiệm tại một số
vùng nuôi thương phẩm, sản lượng cá rô phi đạt chất lượng
xuất khẩu từ 500g/con trở lên chỉ chiếm từ 20-30%. Để nuôi
đạt hiệu quả cao nhất bà con nên áp dụng hình thức nuôi bán
thâm canh với năng suất nuôi 10 tấn/ha.
Chuẩn bị ao nuôi
Ao nuôi có diện tích 4.000-6.000m2, mực nước sâu từ 1,5-
2,5m, có bờ bao chắc chắn không bị thẩm lậu, ngập tràn khi
mưa lũ. Ao nuôi phải dễ quản lý, chăm sóc, có nguồn nước
sạch và chủ động thoát nước dễ dàng.
Trước khi thả cá vào ao phải vệ sinh ao nuôi sạch sẽ, vét bùn,
rắc vôi bột xuống khắp đáy ao với lượng vôi 7-10kg/100m2
ao. Sau 2-3 ngày phơi ao sẽ tháo nước vào ao và thả cá
giống.
Thả giống
Để đạt năng suất 10 tấn/ha và đạt kích cỡ 500g/con phải thả
với mật độ từ 2,5-3 con/m2, chọn cá giống có kích cỡ lớn
trên 5g/con để đảm bảo tỉ lệ sống của cá nuôi. Cá giống nên
chọn cá có nguồn gốc tốt (đặc biệt là cá rô phi dòng gitf).
Cho cá ăn
Cho cá ăn lượng thức ăn phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của cá. Với năng suất 10 tấn/ha có thể cho ăn với thức
ăn công nghiệp và thức ăn tự chế. Thức ăn công nghiệp cho
cá rô phi cần hàm lượng đạm từ 18-20%, với lượng cho ăn
bằng từ 5-6% tổng khối lượng đàn cá trong ao. Khi cá đạt cỡ
100g/con cho ăn với lượng từ 3-4%; khi đạt trên 200g/con
cho ăn khoảng 2%.
- Hàng ngày cho cá ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.
Người nuôi cần chú ý cho cá ăn đủ lượng, đảm bảo chất
lượng thức ăn cho cá và cho ăn đúng giờ để tạo phản xạ kiếm
ăn cho cá.
- Có thể bón thêm phân đạm và lân vào ao đối với cá từ 100-
300g, không bón thêm phân vô cơ, các loại phân bón chưa
qua xử lý, không bón phân chuồng trực tiếp xuống ao, vì
chúng có thể chứa các loại vi sinh vật có hại, ảnh hưởng đến
chất lượng cá nuôi.
- Tiến hành thay nước 1 tháng/lần, lượng nước thay từ 1/2-
2/3 lượng nước trong ao.
- Có thể tận dụng các sản phẩm, phụ phẩm nông nghiệp làm
thức ăn thêm cho cá như bột ngô, cám gạo, khô đậu..., và
phải chế biến, vì thức ăn này không cho ăn ở dạng bột, khi rải
đều xuống mặt ao, cá sẽ không ăn được hết, tỉ lệ sử dụng rất
thấp. Vì vậy cần nấu chín và đặc, nắm lại thành nắm cho cá
ăn.
- Không được phép sử dụng một số hoá chất kháng sinh nằm
trong danh mục cấm trộn vào thức ăn hay chữa bệnh cho cá.
- Trong thời gian nuôi nên tiến hành phân cỡ cá 1 tháng/lần
để khi thu hoạch cá có kích cỡ đồng đều.
Thu hoạch
Sau từ 5-6 tháng nuôi, nếu đáp ứng đúng quy trình kỹ thuật
cá sẽ đạt trọng lượng từ 500g/con trở lên. Có thể thu hoạch
toàn bộ nếu cá có cỡ đồng đều hoặc đánh tỉa, thả bù để đáp
ứng nhu cầu của thị trường.
Chú ý, thả đủ số cá đã đánh mỗi đợt để đảm bảo mật độ. Khi
thả bù cần phải thả cá có kích cỡ lớn để hạn chế sự chênh
lệch về đàn cá trong ao.
Lưu ý: Với các tỉnh phía Bắc, nuôi cá rô phi thương phẩm vụ
xuân thích hợp nhất (tháng 3-5). Bà con cần tuân thủ đúng vì
thời gian sinh trưởng của cá rô phi từ 5-6 tháng, nếu thả nuôi
muộn gặp thời tiết bất lợi cá sẽ khó đạt trọng lượng theo yêu
cầu.
NTNN, 2/4/2004
Công nghệ phục vụ nuôi cá rô phi xuất khẩu: Thuận lợi
và khó khăn
Cá rô phi hiện đang được nuôi rộng rãi trên thế giới. Ngoài
mục đích cải thiện dinh dưỡng cho người dân nghèo, nuôi cá
rô phi còn tạo ra sản phẩm hàng hóa ngày càng có sức cạnh
tranh cao trên thị trường thế giới. Thị trường cá rô phi trên
thế giới tăng nhanh trong 2 thập kỉ qua, đặc biệt ở thị trường
Mỹ. Thị trường nhập khẩu cá rô phi trên thế giới năm 1992
mới đạt 2.500 tấn, đến năm 1999 đã là 100.000 tấn. Trong
vòng 5 năm qua, nhu cầu nhập khẩu cá rô phi tăng 38%/năm.
Ðứng đầu các nước nhập khẩu cá rô phi là Mỹ, tiếp sau là
Nhật, một số nước châu Âu. Năm 1992, Mỹ nhập 3.400 tấn,
năm 2000 nhập 40.000 tấn. Năm 2001, ước tính nhập 70.000
75.000 tấn, trị giá 106 108 triệu USD.
Trong khi giá một số hàng thủy sản luôn có nhiều biến động
thì hầu hết các sản phẩm từ cá rô phi có giá khá ổn định trong
vòng 5 năm qua. Giá bán thay đổi ít tạo môi trường kinh
doanh tương đối ổn định cho người nuôi cá và hệ thống phân
phối tiêu thụ. Cá rô phi với ưu thế: ít dịch bệnh, thức ăn
không đòi hỏi chất lượng cao, cá có màu thịt trắng có khả
năng thay thế cho một số loại cá biển, cá dễ chế biến theo
nhiều loại sản phẩm khác nhau nên được đa số người tiêu
dùng chấp nhận. Thị trường cá rô phi trên thế giới hiện tại
chưa thật lớn, nhưng theo nhiều dự báo, sẽ có nhu cầu cao và
mở rộng với tốc độ nhanh.
Chủ trương phát triển nuôi cá rô phi ở nước ta là hoàn toàn
đúng đắn, góp phần tăng nhanh sản lượng cá nuôi, tăng tỷ
trọng sản phẩm thủy sản xuất khẩu được nuôi từ nước ngọt.
Nuôi cá rô phi góp phần đa dạng hóa sản phẩm, tận dụng tốt
hơn các vùng nước ngọt hiện có. Nuôi cá rô phi trong nước lợ
giúp giảm rủi ro trong nuôi trồng thủy sản, là biện pháp cải
tạo môi trường ao nuôi, đặc biệt những vùng nuôi đang bị suy
thoái môi trường.
Nước ta có lợi thế về diện tích mặt nước ngọt và lợ
(120.000ha ao hồ nhỏ, 340.000ha hồ chứa nước, 580.000ha
ruộng trũng, nhiều hệ thống sông ngòi, nhiều vùng nước ven
biển với độ mặn thấp) là những vùng nước có thể nuôi cá rô
phi, có khả năng mở rộng diện tích, sản xuất với sản lượng
lớn. Tuy nhiên, các ao hồ rất phân tán, xa các cơ sở chế biến,
gây khó khăn cho tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Phần lớn các ruộng trũng đang cấy lúa cần phải qui hoạch,
cải tạo lại mới đáp ứng yêu cầu kĩ thuật nuôi cá.
Cá rô phi xuất khẩu cần kích cỡ lớn khi thu hoạch (600
1.000g/con), do đó giống nuôi phải là cá đơn tính có chất
lượng, đó là giống cá có tỉ lệ đực > 95% được sản xuất từ
phẩm giống có chất lượng cao. Thông qua nhập nội và tiến
hành chọn giống nâng cao chất lượng di truyền hiện chúng ta
đã có một số giống cá rô phi có chất lượng, như cá rô phi
dòng GIFT, cá rô phi vằn dòng Thái Lan, và cá rô phi hồng
Ðài Loan. Cá rô phi GIFT chọn giống có tốc độ sinh trưởng
cao hơn cá GIFT nhập nội 17%, đã được cung cấp cho 25
tỉnh/thành trên cả nước để nuôi thành cá bố mẹ thay thế các
đàn cá rô phi bố mẹ có chất lượng thấp. Chúng ta đã làm chủ
công nghệ chuyển giới tính cá rô phi, có thể chủ động sản
xuất hàng loạt cá đơn tính với tỉ lệ cá đực 95 100%. Công
nghệ chuyển giới tính sản xuất cá rô phi toàn đực cũng đã
được chuyển giao tới một số cơ sở sản xuất cá giống ở một
vài tỉnh. Tuy nhiên người nuôi cá hiện đang phải dùng cá
giống có chất lượng khác nhau, đa phần giống chất lượng
thấp (cá gọi là đơn tính nhưng tỉ lệ đực thấp, < 95%, được
sản xuất từ các phẩm giống lai tạp). Mạng lưới sản xuất cá rô
phi giống có chất lượng còn ở giai đoạn sơ khai, hầu hết các
địa phương chưa có đàn cá rô phi bố mẹ có chất lượng, đạt về
kích cỡ, đủ về số lượng. Công suất sản xuất cá đơn tính ở các
cơ sở hiện có là rất nhỏ (từ vài vạn đến 3 triệu con/năm) và
thiếu ổn định về chất lượng. Do vậy năng lực sản xuất giống
hiện có chưa thể đáp ứng nhu cầu giống có chất lượng khi
phát triển nhanh việc nuôi cá rô phi xuất khẩu.
Sản phẩm cá rô phi nuôi từ cá giống chuyển giới tính sử dụng
hoocmôn hiện đang được chấp nhận trên thị trường thế giới,
tuy nhiên lo ngại của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm,
đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh thương mại ngày càng gay
gắt là điều cần phải tính tới. Ðể phát triển bền vững việc nuôi
cá rô phi xuất khẩu, trên phương diện giống, chúng ta không
thể chỉ dựa vào công nghệ chuyển giới tính để tạo cá đơn
tính. Xây dựng công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính bằng
công nghệ di truyền, nghiên cứu công nghệ tạo cá siêu đực đã
được tiến hành ở nước ta, đã tạo được cá rô phi siêu đực,
những chưa thể đưa rộng ở phạm vi sản xuất vì tỉ lệ cá đực ở
thế hệ con của cá siêu đực còn thấp và thiếu ổn định.
Nuôi cá rô phi trong vùng nước lợ mặn là một lợi thế, nhất là
chất lượng cá sản phẩm. Nước ta có điều kiện về diện tích
nước lợ, mặn nhưng các phẩm giống rô phi hiện có phù hợp
với nuôi ở vùng nước ngọt hơn là nuôi ở vùng nước lợ, mặn.
Cá thường đạt tốc độ sinh trưởng nhanh hơn khi nuôi trong
nước ngọt. Ðể mở rộng và nuôi cá rô phi có hiệu quả ở vùng
nước lợ mặn, rất cần phát triển các phẩm giống có tính thích
ứng cao với độ mặn.
Công nghệ nuôi thâm canh và bán thâm canh cá rô phi
thương phẩm đã được xây dựng, bước đầu có kết quả tốt,
nuôi thương phẩm đạt năng suất 20-25 tấn/ha, cỡ cá thu
hoạch 500 800g/con, hệ số thức ăn 1,7, hach toán có lãi khi
sản phẩm tiêu thụ nội địa. Tuy nhiên trước nhu cầu nuôi sạch,
nhất là với cá nuôi từ vùng nước ngọt có mùi bùn, cần có
công nghệ quản lí môi trường và xử lí trước khi thu hoạch.
Cá rô phi là đối tượng nuôi rất triển vọng, thị trường có nhu
cầu tăng nhanh, cần nhanh chóng đầu tư phát triển. Ðể sản
phẩm cá rô phi nuôi có tính cạnh tranh cao, cần tiếp tục nâng
cao chất lượng con giống, tạo phẩm giống có khả năng lớn
nhanh hơn và thích ứng với các vùng nước khác nhau, nhanh
chóng xây dựng các công nghệ sản xuất giống và nuôi cho
sản phẩm sạch. Nhiều nước đã và đang chú ý phát triển nuôi
cá rô phi, do vậy nếu có bước đi thích hợp, xác định đầu tư
đúng mức để phát triển nhanh, chúng ta sẽ có ưu thế hơn
trong cạnh tranh.