CÂU 1 : HÀNG HÓA LÀ GÌ ? PHÂN TÍCH 2 THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi buôn bán.
Hàng hoá có thể ở dạng hữu hình như sắt, thép, thực phẩm. hay vô hình như dịch vụ, giao thông vận tải. nhưng dù ở dạng nào nó cũng có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
* Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Hàng hoá nào cũng có một hay một vài công dụng và cộng dụng đó làm nó có giá trị sử dụng. Ví dụ như gạo là dùng để ăn, giá trị sử dụng của gạo là để ăn.
Giá trị sử dụng của hàng hoá là do thuộc tín tự nhiên (Lý, hoá, sinh) của thực thể hàng hoá đó quy định nhưng việc phát hiện ra những thuộc tính có ích đó lại phụ thuộc vào sự phát triển của XH, của con người. XH càng tiến bộ, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng ngày càng phong phú và chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.
Giá trị sử dụng là giá trị sử dung XH. Nó không phải là giá trị sử dụng cho người trực tiếp sản xuất mà là cho XH thông qua trao đổi mua bán. Do đó, người sản xuất phải luôn quan tâm đến như cầu của XH, làm cho sản phẩm của họ phù hợp với nhu cầu XH.
Giá trị sử dụng mang trên mình giá trị trao đổi.
* Để hiểu giá trị của hàng hoá, trước hết, ta phải hiểu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ như: 1m vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.
Hai hàng hoá khác nhau như vậy có thể trao đổi với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung. Lao động hao phí tạo ra hàng hoá chính là cơ sở chung cho việc trao đổi đó và tạo ra giá trị của hàng hoá. Vậy giá trị của hàng hoá là lao động XH của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong sản phẩm. Giá trị trao đổi là biểu hiện bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá.
18 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ôn tập chủ nghĩa Mác - Lênin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÂU 1 : HÀNG HÓA LÀ GÌ ? PHÂN TÍCH 2 THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi buôn bán.
Hàng hoá có thể ở dạng hữu hình như sắt, thép, thực phẩm... hay vô hình như dịch vụ, giao thông vận tải... nhưng dù ở dạng nào nó cũng có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
* Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Hàng hoá nào cũng có một hay một vài công dụng và cộng dụng đó làm nó có giá trị sử dụng. Ví dụ như gạo là dùng để ăn, giá trị sử dụng của gạo là để ăn...
Giá trị sử dụng của hàng hoá là do thuộc tín tự nhiên (Lý, hoá, sinh) của thực thể hàng hoá đó quy định nhưng việc phát hiện ra những thuộc tính có ích đó lại phụ thuộc vào sự phát triển của XH, của con người. XH càng tiến bộ, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng ngày càng phong phú và chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.
Giá trị sử dụng là giá trị sử dung XH. Nó không phải là giá trị sử dụng cho người trực tiếp sản xuất mà là cho XH thông qua trao đổi mua bán. Do đó, người sản xuất phải luôn quan tâm đến như cầu của XH, làm cho sản phẩm của họ phù hợp với nhu cầu XH.
Giá trị sử dụng mang trên mình giá trị trao đổi.
* Để hiểu giá trị của hàng hoá, trước hết, ta phải hiểu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ như: 1m vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.
Hai hàng hoá khác nhau như vậy có thể trao đổi với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung. Lao động hao phí tạo ra hàng hoá chính là cơ sở chung cho việc trao đổi đó và tạo ra giá trị của hàng hoá. Vậy giá trị của hàng hoá là lao động XH của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong sản phẩm. Giá trị trao đổi là biểu hiện bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá.
* Hai thuộc tính đó của hàng hoá vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất. Chúng thống nhất ở chỗ: chúng cùng tồn tại trong hàng hoá, một hàng hoá phải có hai thuộc tính này, thiếu một trong hai thuộc tính thì không phải là hàng hoá. Tuy nhiên, chúng mâu thuẫn ở hai điểm: thứ nhất, về một giá trị sử dụng thì hàng hoá khác nhau về chất còn về mặt giá trị thì hàng hoá lại giống nhau về chất; Thứ hai, giá trị được sử dụng trong quá trình lưu thông còn giá trị sử dụng được thực hiện trong quá trình tiêu dùng.
CÂU 2 :TIỀN TỆ LÀ GÌ ? PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ ?
* . Khái niệm :
Tiền tệ là 1 loại hàng hóa đặc biệt, làm vật ngang giá chung, vật trung gian trao đổi với mọi hàng hóa . Nó là sự thể hiện chung của giá trị , đồng thời nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa .
Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua các chức năng của nó. Theo C. Mác tiền tệ
có 5 chức năng:
- Thước đo giá trị. Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá.
Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ
làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không
cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng
tượng.
Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá
trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội
cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền
gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:
+ Giá trị hàng hoá.
+ Giá trị của tiền.
+ ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường.
Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim
loại dùng làm tiền tệ. ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ
và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu
chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị.
Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen.
- Phương tiện lưu thông:
Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi
hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và
không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng
kinh tế.
Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần
dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần
và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ
giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình
trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng
lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền
không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm
cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày
càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy.
Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công nhận
trong phạm vi quốc gia.
- Phương tiện cất trữ. Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông
đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã
hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức
năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ
làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho
lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu
thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút
khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
- Phương tiện thanh toán. Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ,
nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng ... Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến
trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước
tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán
chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán.
Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách
thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu
người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ
phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ
gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng
lên.
- Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình
thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện
mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã
hội.
Tóm lại: 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với
nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
CÂU 3 :THỰC CHẤT VÀ ĐỘNG CƠ CỦA TÍCH LŨY CƠ BẢN LÀ GÌ ? PHÂN BIỆT GIỮA TÍCH TỤ CƠ BẢN VÀ TẬP TRUNG TƯ BẢN ?
Thực chất tích luỹ tư bản (Tích luỹ tư bản về mặt chất)
- Đặc trưng của tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là tái sản xuất mở rộng tức là quá trình sản xuất năm sau được lắp lại với qui mô tư bản năm sau > năm trước, như vậy muốn tái sản xuất mở rộng thì nhà tư bản phải tích luỹ.
Ví dụ: Qui mô tư bản năm thứ nhất là 5000 (C+V), nếu C/V = 4/1, m' = 100% thì:
+ Giá trị hàng hoá năm thứ nhất được sản xuất là 4000C+1000V+1000m = 6000
Để tái sản xuất mở rộng thì nhà tư bản không tiêu dùng hết 1000m cho cá nhân mình mà dành một phần để tích luỹ mở rộng sản xuất.
+ Giả sử tỷ lệ tích luỹ là 50% thì 1000m được phân thành 500m1 để tích luỹ, 500m2 để tiêu dùng cho cá nhân nhà tư bản.
Giả sử C/V=4/1 thì 500m1 được phân thành 400C1 (tư bản bất biến phụ thêm) và 100V1 (tư bản khả biến phụ thêm)
Như vậy sang năm thứ hai qui mô tư bản là 4400C + 1100V = 5500
Vậy: Thực chất của tích lũy tư bản là biến một phần m thành tư bản hay tư bản hoá giá trị thặng dư.
Các nhân tố ảnh hưởng đến qui mô tích luỹ (tích luỹ xét về mặt lượng)
Nếu tỷ lệ tích luỹ không đổi thì qui mô tích luỹ phụ thuộc và khối lượng m, do đó những nhân tố sau ảnh hưởng đến qui mô tích luỹ:
- Tăng cường bóc lột công nhân bằng cách kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động, bớt xén tiền công công nhân để làm tăng khối lượng m
- Tăng năng suất lao động xã hội là tăng những điều kiện vật chất để tích luỹ tư bản
- Mức độ chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng (cả hệ thống máy móc thiết bị) với tư bản tiêu dùng (Thực tế khấu hao đi vào sản phẩm) tạo ra một sự phục vụ không công của máy móc thiết bị.
- Khối lượng tư bản ứng trước trong đó trước hết là tư bản khả biến.
* Động cơ tích luỹ tư bản chủ nghĩa: Động cơ thúc đẩy tích luỹ tư bản chủ nghĩa là do tác động của các qui luật kinh tế khách quan của chủ nghĩa tư bản.
- Quy luật sản xuất m: Để đạt được mục đích sản xuất ngày càng nhiều m thì từng nhà tư bản không ngừng tích luỹ, nâng cao năng suất lao động, nâng cao m'
- Quy luật cạnh tranh: Để dành lợi thế trong cạnh tranh thì không ngừng phải tích luỹ, mở rộng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.
Phân biệt :- Giống nhau: Đều tăng qui mô tư bản cá biệt
- Khác nhau:+ Tích tụ tư bản thì qui mô tư bản cá biệt tăng, tư bản xã hội tăng, tích tụ tư bản phản ánh mối quan hệ giữa công nhân và nhà tư bản trong xí nghiệp.
+ Tập trung tư bản thì qui mô tư bản cá biệt tăng, tư bản xã hội không đổi, tích tụ tư bản phản ánh mối quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau.
* Mối quan hệ giữa tích tụ và tập trung tư bản:
_Đó là mối quan hệ tạo điều kiện thúc đẩy lẫn nhau, Tích tụ tư bản làm tăng khả năng cạnh tranh dẫn đến thúc đẩy Tập trung tư bản, tạo điều kiện để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, nâng cao m' , tạo điều kiện để Tích tụ tư bản
_Tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tích tụ tập trung sản xuất, sản xuất qui mô lớn ra đời, quá trình này diễn ra thông qua cạnh tranh, trong đó tín dụng giữ vai trò đòn bẩy để thúc đẩy tập trung sản xuất.
CÂU 4 :TƯ BẢN THƯƠNG NGHIỆP LÀ GÌ ? LỢI NHUẬN THƯƠNG NGHIỆP LÀ GÌ ? TƯ BẢN CHO VAY LÀ GÌ ? LỢI TỨC CHO VAY LÀ GÌ ?
* Lợi nhuận thương nghiệp là gì ?
Là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong trình sản xuất mà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp để tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cho mình . Lợi nhuận thương nghiệp là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư . Nguồn gốc của nó cũng là 1 bộ phận lao động không được trả công của công nhân .
Tư Bản cho vay là gì ?
Tư bản cho vay là một hàng hóa đặc biệt, vì khi cho vay người bán không mất quyền sở hữu, còn người mua chỉ được mua quyền sử dụng trong thời gian nhất định. Và khi sử dụng thì giá trị của nó không mất đi mà còn tăng lên giá cả của nó không do giá trị mà do giá trị sử dụng của tư bản cho vay, do khả năng tạo ra lợi tức của nó quyết định. Lợi tức chính là giá cả của hàng hóa tư bản cho vay
Lợi tức cho vay là gì ?
lợi tức cho vay là số tiền tăng thêm trên số vốn đầu tư ban đầu trong một khoảng thời gian nhất định. Khi nhà đầu tư đem đầu tư một khoản vốn, nhà đầu tư sẽ thu được một giá trị trong tương lai lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu .
Tư bản thương nghiệp là gì ?
Tư bản thương nghiệp (Công thức T - H - T') theo kinh tế chính trị Marx-Lenin là một bộ phận tư bản công nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa. Hoạt động của tư bản thương nghiệp chỉ là những hoạt động phục vụ cho quá trình thực hiện giá trị hàng hóa của tư bản công nghiệp.
*Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản :
Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa.
Công thức vận động của tư bản thương nghiệp :
T – H – T’
Công thức này giống công thức chung của tư bản, tuy nhiên nó chỉ giới hạn trong lĩnh vực lưu thông. Ở công thức này, tư bản thương nghiệp thay mặt người mua ứng tư bản tiền tệ để mua hàng hóa của nhà tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận trong quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp được tách ra, có nhiệm vụ chuyển hàng thành tiền (H’ – T’), nó chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông và không mang hình thái tư bản sản xuất.
Tư bản thương nghiệp trong chủ nghĩa tư bản được tách ra từ tư bản công nghiệp do sự phát triển của phân công lao động xã hội, nhưng với chức năng chuyên môn riêng nên tư bản thương nghiệp vừa phụ thuộc, vừa độc lập với tư bản công nghiệp. Sự ra đời và phát triển của tư bản thương nghiệp đã làm cho lưu thông hàng hóa thuận lợi, thị trường mở rộng, tốc độ chu chuyển của tư bản tăng lên và từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung.
* Lợi nhuận thương nghiệp:
Hoạt động của tư bản thương nghiệp, nếu gạt đi những chức năng khác liên quan như: bảo quản, đóng gói, chuyên chở, mà chỉ giới hạn ở chức năng chủ yếu là mua và bán, thì không tạo ra gía trị cũng như gía trị thặng dư. Nó chỉ làm nhiệm vụ thực hiện gía trị và gía trị thặng dư và góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển sản xuất và tái sản xuất TBCN. Tuy không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nhưng nó vẫn tham gia vào quá trình phân chia gía trị thặng dư, dưới hình thức lợi nhuận thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp trên thực tế là chênh lệch giữa gía bán và gía mua. Nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hóa thấp hơn gía trị và khi bán thì họ bán đúng với gía trị của hàng hóa, nhưng vẫn có được lợi nhuận do tư bản công nghiệp chuyển nhượng cho.
CÂU 6 : TRÌNH BÀY BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN . PHÂN TÍCH CÁC ĐẶC ĐỂM KINH TẾ CƠ BẢN CỦA CNTB ĐỘC QUYỀN .
Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do phát triển đến độ nhất định thì xuất hiện các tổ chức độc quyền. Lúc đầu tư bản độc quyền chỉ có trong một số ngành, một số lĩnh vực của nền kinh tế. Hơn nữa, sức mạnh kinh tế của các tổ chức độc quyền cũng chưa thật lớn. Tuy nhiên, sau này, sức mạnh của các tổ chức độc quyền đã được nhân lên nhanh chóng và từng bước chiếm địa vị chi phối trong toàn nền kinh tế. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới - chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Nếu trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, sự phân hóa giữa các nhà tư bản chưa thực sự sâu sắc nên quy luật thống trị của thời kỳ này là quy luật lợi nhuận bình quân, còn trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật thống trị là quy luật lợi nhuận độc quyền.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất của chủ nghĩa tư bản. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến tướng của quy luật giá trị thặng dư.
. Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Có thể khái quát một số đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền như sau:
a) Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền.
Tổ chức độc quyền là liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay một phần lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó.
Những liên minh độc quyền, thoạt đầu hình thành theo sự liên kết ngang, tức là sự liên kết những doanh nghiệp trong cùng ngành, dưới những hình thức cácten, xanhđica, tờrớt.
Cácten là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định giữa các xí nghiệp thành viên để thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị
trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán... còn việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vẫn do bản thân mỗi thành viên thực hiện.
Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền trong đó việc tiêu thụ sản phẩm do một ban quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là công việc độc lập của mỗi thành viên.
Cácten và xanhđica dễ bị phá vỡ khi tương quan lực lượng thay đổi. Vì vậy, một hình thức độc quyền mới ra đời là tờrớt. Tờrớt thống nhất cả việc sản xuất và tiêu thụ vào tay một ban quản trị chung, còn các thành viên trở thành các cổ đông.
Tiếp đó, xuất hiện sự liên kết dọc, nghĩa là sự liên kết không chỉ những xí nghiệp lớn mà cả những xanhđica, tờrớt... thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau về kinh tế và kỹ thuật, hình thành các côngxoócxiom.
Từ giữa thế kỷ XX phát triển một kiểu liên kết mới - liên kết đa ngành - hình thành những cônglômêrat (conglomerat) hay consơn (concern) khổng lồ thâu tóm nhiều công ty, xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp rất khác nhau, đồng thời bao gồm cả vận tải, thương mại, ngân hàng và các dịch vụ khác, v.v..
Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền. Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chênh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất. Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mà họ bán ra và giá cả độc quyền thấp dưới giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mà họ mua, trước hết là nguyên liệu. Qua đó họ thu được lợi nhuận độc quyền.
Tuy nhiên, giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư. Vì xét toàn bộ xã hội thì tổng giá cả vẫn bằng tổng số giá trị và tổng lợi nhuận vẫn bằng tổng giá trị thặng dư trong các nước tư bản chủ nghĩa. Những thứ mà các tổ chức độc quyền kếch xù thu được cũng là những thứ mà các tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa và nhân dân ở các nước thuộc địa và phụthuộc mất đi.
A, Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính .
Tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Từ chỗ làm trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã trở thành người có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế - xã hội.
Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và nhận gửi những số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp trong một thời gian dài, nên lợi ích của chúng xoắn xuýt với nhau, hai bên đều quan tâm
đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau. Từ đó hình thành một loại tư
bản mới gọi là tư bản tài chính.
Tư bản tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc quyền ngân hàng và tư bản độc quyền trong công nghiệp.
Bọn đầu sỏ tài chính (trùm tư bản tài chính) thiết lập sự thống trị củ